Wednesday, August 13, 2014

Thư cảm ơn và kiến nghị của Hội Đồng Liên Tôn Việt Nam

Gởi đến Tiến sĩ Heiner Bielefeldt - Báo cáo viên Đặc biệt của Liên Hợp Quốc về tự do tôn giáo hay tín ngưỡng 

...Họ hoạt động trong sự mất an toàn và trong cảnh bị hạn chế thường xuyên chính vì họ muốn bảo tồn truyền thống, bảo vệ bản chất và bảo toàn sứ mạng tôn giáo của mình trong một xã hội bị thống trị bởi một chế độ vô thần đấu tranh, một nhà nước độc tài toàn trị. Chế độ và nhà nước này chỉ muốn công cụ hóa mọi thực thể và mọi thực lực tại VN để duy trì quyền lực của họ lâu dài. Chính vì thế họ đã lập ra Mặt trận Tổ quốc để nhốt vào đó những cộng đoàn hay tổ chức tôn giáo chịu lụy phục họ để an thân mà sinh hoạt...

Kính gởi: Tiến sĩ Heiner Bielefeldt, Báo cáo viên Đặc biệt của Liên Hợp Quốc. 

Đồng kính gởi: Đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước, Chức sắc và tín đồ các Tôn giáo tại Việt Nam.

Kính thưa Ngài Tiến sĩ

Kể từ khi vị tiền nhiệm của Ngài, ông Abdelfattah Amor đến thăm Việt Nam vào năm 1998 với không mấy tiếng vang, nay đất nước chúng tôi lại được đón tiếp Ngài - với tất cả sự quan tâm của công luận- trong tư cách Báo cáo viên Đặc biệt của LHQ về tự do tôn giáo hay tín ngưỡng. 

Nhà cầm quyền Hà Nội đã mời Ngài đến vì Việt Nam đang là thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp quốc và đang phải trả lời các khuyến nghị của cuộc Kiểm điểm định kỳ về Nhân quyền. Nhưng nhân dân Việt Nam, đặc biệt là các tín đồ, mong chờ Ngài đến để tai nghe mắt thấy tại chỗ, viếng thăm gặp gỡ trực tiếp các chứng nhân đích thực về tự do tôn giáo, ngõ hầu Ngài cũng sẽ trở thành một chứng nhân trước Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc. 

1- Hiệp thông đồng cảm

Trước hết, chúng tôi, các chức sắc ký tên dưới đây, xin bày tỏ lòng hiệp thông đồng cảm với những khó khăn trắc trở mà Ngài đã gặp phải trong chuyến đi đến VN, ngay từ ngày đầu tiên ở Hà Nội, dù nhà cầm quyền đã cam kết tuân giữ các quy định về việc viếng thăm và làm việc tại thực địa của Báo cáo viên LHQ. Việc tiếp xúc một cách bí mật và không bị giám sát của Ngài với các nhân chứng và nguồn tin riêng đã nhiều lần chẳng được tôn trọng. Nhiều người Ngài muốn gặp gỡ lại bị thô bạo ngăn chận, còn một số người đã tiếp xúc chính thức hoặc riêng tư với Ngài thì đã bị chất vấn, theo dõi, hăm dọa sau đó. Vài buổi gặp gỡ của Ngài với các đại diện tôn giáo đã diễn ra trong tình trạng căng thẳng, vì có công an bao vây dày đặc bên ngoài. Đáng tiếc và đáng phẫn nộ nhất là 3 ngày cuối cùng, dự định đi thăm An Giang, Gia Lai và Kon Tum của Ngài lẫn tùy tùng đã bị gián đoạn, khiến Ngài phải thốt lên: “Đây là một hành động vi phạm rõ rệt thẩm quyền điều tra của đặc phái viên LHQ trong chuyến đi thăm bất cứ quốc gia nào.”

Trong một đất nước dưới chế độ Cộng sản độc tài với công an hoàn toàn nằm trong tay của đảng, chỉ biết đảng chứ không biết dân, thì các sự kiện đáng buồn trên đây chẳng phải là do “hiểu lầm” từ phía công an như Bộ ngoại giao VN tuyên bố để tự bào chữa. 

2- Chân thành cảm ơn

Chúng tôi chân thành cảm ơn Ngài đã bay qua nửa vòng trái đất để đến thăm đất nước chúng tôi, và rồi còn lặn lội tới các vùng sâu vùng xa, bất chấp những quấy rối và đe dọa (như nguy hiểm do Fulro… mà thực ra do công an mật vụ) để gặp cho được các cộng đoàn tôn giáo mà Ngài đã được báo cáo là đang gặp khó khăn trong niềm tin của họ. Cảm ơn Ngài đã đến thăm đồng bào H’Mông theo đạo Dương Văn Mình mà mới đây 5 thành viên của họ đã bị án tù bất công; cảm ơn Ngài đã muốn đến thăm -nhưng bất thành- phu nhân của mục sư Nguyễn Công Chính vốn đang lãnh một bản án hết sức nặng nề dù vô tội; cảm ơn Ngài đã muốn đến thăm -song bất lực- một trong những cộng đoàn tôn giáo bị bách hại nặng nề nhất Việt Nam là Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo Thuần túy tại An Giang; cảm ơn Ngài đã đến viếng thăm cộng đoàn Cao Đài tại Vĩnh Long (một trong những cuộc gặp gỡ hiếm hoi có đông người), nơi đó Ngài đã nghe bao sự kiện đau thương và thấy bao tín đồ can đảm; cảm ơn Ngài đã đến viếng thăm Hội đồng Liên tôn chúng tôi tại Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn, tiếc rằng chúng tôi không đủ mặt vì bị ngăn chận. 

Chúng tôi đặc biệt cảm ơn Ngài đã đưa ra một Tuyên bố dài (và rồi đây sẽ là một Báo cáo dài hơn nữa) về tình trạng tự do tôn giáo tại Việt Nam, với những đánh giá tổng quát -mà chúng tôi rất tâm đắc - liên quan đến biện pháp luật lệ và thái độ hành xử của nhà cầm quyền đối với tôn giáo: (1) Thái độ nhìn chung là tiêu cực và tùy tiện đối với các quyền của các nhóm thiểu số và cá nhân thực hành tôn giáo ngoài các kênh chính thức đã được thiết lập; (2) Việc thường xuyên viện dẫn một cách thiếu cụ thể về “lợi ích của đa số” hoặc lợi ích của “trật tự xã hội”; (3) Các điều khoản hạn chế quá rộng về nhân quyền nói chung và quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng nói riêng; (4) Cách trình bày không rõ ràng trong Bộ luật Hình sự, cụ thể là Điều 258 liên quan đến việc “lạm dụng” tự do dân chủ; (5) Hệ thống tư pháp chưa có cơ chế truy đòi khắc phục pháp lý đủ hiệu quả mà người dân có thể tiếp cận một cách dễ dàng, v.v…

Xin cảm ơn Ngài đã vạch mặt chỉ tên cái biện pháp đàn áp tôn giáo đầu tiên và cơ bản nhất là việc đăng ký (nghĩa là xin phép, điều 16 của Pháp lệnh Tôn giáo và tín ngưỡng), theo đó các tổ chức tôn giáo cần phải đáp ứng một số tiêu chí để được pháp luật công nhận bản chất và cho phép hoạt động. Đây là kiểu đưa các giáo hội vào trong sự kiểm soát chặt chẽ của nhà cầm quyền để dễ bề công cụ hóa họ. Thế nhưng Ngài đã xác định: “Việc thực thi quyền con người đối với tự do tôn giáo hay tín ngưỡng, bởi cá nhân và/hoặc trong một cộng đồng với những người khác, không thể diễn ra phụ thuộc vào bất kỳ hành vi công nhận hay phê duyệt hành chính cụ thể nào. Là một quyền phổ quát, tự do tôn giáo hay tín ngưỡng vốn có trong tất cả con người và vì thế có vị thế quy chuẩn cao hơn bất kỳ một hành vi hay thủ tục hành chính nào… Như vậy, quyền của một cá nhân hay một nhóm đối với tự do tôn giáo hay tín ngưỡng của họ không bao giờ có thể “được tạo ra” bằng bất kỳ thủ tục hành chính nào cả”.

Xin cảm ơn Ngài đã tỏ ra thông hiểu tình trạng các cộng đồng tôn giáo độc lập. Ngài đã rất chí lý khi cho rằng “điều kiện hoạt động của các cộng đồng tôn giáo độc lập là phép thử để đánh giá sự phát triển quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng ở VN” cũng như khi nhận xét rằng: “Theo tình hình hiện nay, khả năng để họ hoạt động như các cộng đồng độc lập rất không an toàn và rất hạn chế; điều này rõ ràng là một vi phạm đối với Điều 18 của Công ước Quốc tế về Quyền Dân sự và Chính trị mà VN là một quốc gia thành viên”. Họ hoạt động trong sự mất an toàn và trong cảnh bị hạn chế thường xuyên chính vì họ muốn bảo tồn truyền thống, bảo vệ bản chất và bảo toàn sứ mạng tôn giáo của mình trong một xã hội bị thống trị bởi một chế độ vô thần đấu tranh, một nhà nước độc tài toàn trị. Chế độ và nhà nước này chỉ muốn công cụ hóa mọi thực thể và mọi thực lực tại VN để duy trì quyền lực của họ lâu dài. Chính vì thế họ đã lập ra Mặt trận Tổ quốc để nhốt vào đó những cộng đoàn hay tổ chức tôn giáo chịu lụy phục họ để an thân mà sinh hoạt (chứ không phải vì “các giá trị tôn giáo và lợi ích Nhà nước trùng nhau”). Cho nên tuy là thiểu số - do đó luôn bị sách nhiễu, cấm cản, bách hại, cầm tù- các cộng đồng tôn giáo độc lập mới là bằng chứng thực sự của việc có hay không tự do tôn giáo ở VN. Cho rằng một số cá nhân (chức sắc hay tín đồ trong các cộng đồng độc lập này) có “quan điểm riêng” là do tham vọng ích kỷ, có vấn đề đạo đức, đi ngược “lợi ích đa số”, thành thử không đáng được lưu tâm, lối lập luận đó là sự vu cáo thô bỉ giáng xuống những con người đang đau khổ vì niềm xác tín tôn giáo và sự dấn thân cho công lý của họ.

3- Tha thiết kiến nghị

Tuy nhiên, vì Ngài có nói: “Để phân tích một cách toàn diện về các trường hợp cụ thể, cần có nhiều thông tin hơn nữa để có một bức tranh đầy đủ về các sự kiện thực tế liên quan và được nhìn từ góc độ của tất cả các bên liên quan”, chúng tôi có vài kiến nghị và minh định:

a- Sau khi nói đến vấn đề đăng ký, Ngài đã tỏ ra quan ngại liệu các cộng đồng tôn giáo không đăng ký được có tư cách pháp nhân chăng. Xin thưa Ngài rằng: dù có một số cộng đồng tôn giáo đã đăng ký và được nhà nước cho phép hoạt động, nhưng thực tế, chưa có một tôn giáo và tổ chức tôn giáo nào tại VN có tư cách pháp nhân cả! Điều này, chính ông Phạm Dũng, Thứ trưởng Bộ Nội vụ kiêm Trưởng Ban Tôn giáo Chính phủ, đã phát biểu ngày 3-12-2013: “Hiện nay, vấn đề “thể nhân” và “pháp nhân” của các tổ chức tôn giáo chưa rõ ràng. Các tổ chức tôn giáo được công nhận, được đăng ký hoạt động, song lại không có quyền pháp nhân, như các hội đoàn, các tổ chức phi chính phủ…”. (tapchicongsan.org.vn/Home/Nghiencuu-Traodoi/2013/24790/ Tiep-tuc-doi-moi-cong-tac-ton-giao-dap-ung-yeu-cau.aspx). Đây là một sự cố ý trì hoãn của nhà cầm quyền để gây khó khăn cho các giáo hội, nhất là các cộng đồng tôn giáo độc lập, ngõ hầu giữ họ trong cơ chế xin-cho đầy trói buộc và trong tình trạng sống cầm chừng bất phát triển. 

b- Ngài cho biết “có nhiều mâu thuẫn về đất đai đã được thông tin đến tôi. Một số mâu thuẫn có vẻ có liên quan đến khía cạnh tự do tôn giáo, ví dụ như khi mảnh đất trước kia đã được dùng cho nghĩa địa tôn giáo hay các nhà thờ tự đã bị lấy đi để phục vụ phát triển kinh tế”. Đáp lại, đại diện của nhà nước công nhận rằng ở Việt Nam có mâu thuẫn đất đai như ở nhiều nước khác. 

Xin thưa Ngài rằng đúng là như ở nhiều nước khác, tại VN có mâu thuẫn đất đai liên quan đến tôn giáo. Nhưng ở các nước khác, mâu thuẫn đất đai đó xảy ra giữa một cộng đồng hay tổ chức tôn giáo với một cộng đồng, tổ chức hay cá nhân nào đó, hoặc thậm chí với một cơ quan nhà nước. Và đó là một tranh chấp dân sự. Song tại Việt Nam, đất đai không thuộc quyền sở hữu của cá nhân hay tập thể (vốn chỉ có quyền sử dụng) mà thuộc quyền sở hữu của nhà nước, như Hiến pháp 2013 điều 51 đã minh định: “Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý”. Quy định quái gở và bất công này giúp củng cố lâu dài quyền lực của đảng và nhà cầm quyền Cộng sản. Thành ra những cuộc tranh chấp đất đai mà các cộng đoàn tôn giáo tại VN gặp phải kể từ năm 1954 - lúc CS bắt đầu nắm quyền- do việc nhà cầm quyền trung ương hay địa phương tước đoạt bất động sản và ruộng vườn của họ, những tranh chấp mâu thuẫn đó còn mang tính chất chính trị nữa. Thành thử tự do tôn giáo đi liền với việc các giáo hội và tổ chức giáo hội phải có quyền tư hữu đất đai. 

c- Ngoài ra, bên cạnh việc xây dựng cơ sở thờ phượng và cơ sở hoạt động, việc tổ chức lễ hội và tổ chức huấn luyện, việc chức sắc hay tín đồ ra ngoại quốc vì chuyện tôn giáo (3 việc này thực ra chỉ được ban cho các cộng đoàn và cá nhân không có vấn đề với chế độ), chúng tôi nghĩ rằng tự do tôn giáo tại VN còn bao hàm nhiều yếu tố sâu xa và căn bản hơn, dựa trên Điều 18 và 19 Công ước về các Quyền Dân sự và Chính trị: “Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng và tôn giáo. Quyền này bao gồm tự do có hoặc theo một tôn giáo hoặc tín ngưỡng do mình lựa chọn, và tự do bày tỏ tín ngưỡng hoặc tôn giáo một mình hoặc trong cộng đồng với những người khác, công khai hoặc kín đáo, dưới các hình thức như thờ cúng, cầu nguyện, thực hành và truyền giảng”. Do đó chúng tôi đòi hỏi các quyền đang bị nhà cầm quyền tước đoạt sau đây:

- Các tôn giáo phải được tham gia vào việc giáo dục học đường và giáo dục quần chúng, để đem tinh thần nhân bản và giá trị đạo đức vào lương tâm con người, bầu khí xã hội, nhất là trong hoàn cảnh VN đang bị băng hoại vì ý thức hệ vô thần Mác-xít vốn dìm cả xã hội trong gian dối và bạo lực, ích kỷ và đàn áp. 

- Các tôn giáo phải có quyền mở trường học đủ mọi cấp, từ mẫu giáo đến đại học (như đã có tại miền Nam trước năm 1975, trong chế độ Việt Nam Cộng Hòa). Các tôn giáo phải có quyền sở hữu nhà xuất bản riêng, cơ quan báo chí riêng, đài phát thanh và đài truyền hình riêng (như đã có trước năm 1975 và như mọi tôn giáo đang có tại các quốc gia văn minh dân chủ).

- Các học viện tôn giáo phải được độc lập trong tổ chức và tự do trong sinh hoạt, toàn quyền quyết định nhân sự giảng dạy và nội dung giảng dạy. Phải chấm dứt tình trạng chương trình đào tạo còn bao gồm các môn học về lịch sử và luật pháp Việt Nam cũng như chủ nghĩa Mác-Lênin, với giáo khoa và giáo viên do nhà cầm quyền cung cấp. Đây là kiểu trộn thuốc độc vào thức ăn và nhất là một hình thức theo dõi, kiểm soát các lãnh đạo tôn giáo tương lai.

Đấy là những minh định và kiến nghị chúng tôi trình lên Ngài, ngõ hầu Ngài có thêm thông tin để làm một bản báo cáo đầy đủ cho Hội đồng Nhân quyền LHQ, một bản báo cáo có sức mạnh kiến tạo một nền tự do tôn giáo đích thực trên quê hương chúng tôi. 

Chúng tôi chân thành cảm ơn Ngài và kính chúc Ngài hoàn thành nhiệm vụ cao quý.

Làm tại Việt Nam ngày 9 tháng 8 năm 2014

Hội đồng Liên tôn Việt Nam:

- Cụ Lê Quang Liêm, Hội trưởng PGHH (đt: 0199.243.2593). 
- Hòa thượng Thích Không Tánh, Phật Giáo (đt: 0165.6789.881)
- Thượng tọa Thích Viên Hỷ, Phật Giáo (đt: 0937.777.312). 
- Linh mục Phêrô Phan Văn Lợi, Công Giáo (đt: 0984.236.371)
- Linh mục Giuse Đinh Hữu Thoại, Công Giáo (đt: 0935.569.205)
- Linh mục Antôn Lê Ngọc Thanh, Công Giáo (đt: 0993.598.820)
- Chánh trị sự Hứa Phi, Cao Đài (đt: 0163.3273.240)
- Chánh trị sự Nguyễn Kim Lân, Cao Đài (đt: 0988.971.117)
- Chánh trị sự Nguyễn Bạch Phụng, Cao Đài (đt: 0988.477.719)
- Mục sư Nguyễn Hoàng Hoa, Tin Lành (đt: 0949.275.827)
- Mục sư Nguyễn Mạnh Hùng, Tin Lành (đt: 0906.342.908)
- Mục sư Lê Quang Du, Tin Lành (đt: 0121.2002.001)
- Mục sư Nguyễn Trung Tôn, Tin Lành (đt: 0162.838.7716)
- Mục sư Đinh Thanh Trường, Tin Lành (đt: 01202352348)
- Mục sư Đinh Uy, Tin Lành (đt: 01635847464)
- Ông Phan Tấn Hòa, PGHH (đt: 0162.630.1082)
- Ông Tống Văn Chính, PGHH (đt: 0163.574.5430)

No comments:

Post a Comment