Tuesday, September 1, 2015

Cộng sản Việt Nam tưng bừng ăn mừng ngày cướp chính quyền

Hạ Trắng (Danlambao) - Chào mừng 70 năm ngày cướp được chính quyền (2.9.1945 - 2.9.2015) cộng sản Việt Nam đã huy động hơn 30.000 người tham gia diễu binh, diễu hành và tập luyện suốt nhiều tháng qua. Để phục vụ cho sự kiện kỷ niệm ngày cướp chính quyền, côn an cộng sản Việt Nam đã thông báo cấm toàn bộ phương tiện trên hàng chục tuyến phố Hà Nội trong ngày 1 và 2/9. Đó là chưa kể những lần cấm đường trong các đợt tổng duyệt lễ diễu binh, diễu hành qua nhiều tuyến phố trước đó.

Khỏi cần phân tích cũng thấy rõ sự xáo trộn, bất tiện trong công việc và đời sống sinh hoạt hàng ngày của người dân thủ đô bởi hệ lụy của việc cấm đường mang lại. Ở đây, chỉ xin đặt ra hai thí dụ điển hình mang tính gợi ý để quý độc giả trong thôn cùng nhau thảo luận. 

Thứ nhất là về Lợi Ích: Chúng ta cần thống nhất với nhau rằng người dân lao động không được thụ hưởng bất cứ một lợi ích nào từ lễ kỷ niệm này mang lại ngoài những nhiêu khê, phiền hà. Tất nhiên, nếu ai lý luận như kiểu ông Phó trưởng ban tuyên giáo thành ủy Hà Nội, Phan Đăng Long: “những người nghèo cũng khao khát được xem bắn pháo hoa, nhũng lúc thưởng thức bắn pháo hoa giúp họ quên đi cái nghèo, cái khó " thì…hổng còn gì để nói. Còn những người thực sự hiểu về cuộc “Cách mạng tháng 8” thì đỏ mắt vì xót xa. 

Đối tượng duy nhất được hưởng lợi là đảng cộng sản VN hay cụ thể hơn là những tên chóp bu cộng sản. Cần phải vẽ việc ra để kiếm chác, để bòn rút của dân một cách hợp pháp. Còn cơ hội nào ngon ăn hơn là cái mốc 70 năm tròn trịa ngày cắt mạng thành công cướp chính quyền. Các anh Ếch, Hói, Lú, Tư vố này tha hồ mà “cạnh tranh” vơ vét. Trong bài “Từ chết đến chết”, Hạ Trắng đã phân tích “Sức mạnh chính trị ngày nay của các ông vua đỏ được đo bằng sự GIÀU trước, sau đó mới đến QUYỀN LỰC. Nó gần như một một quy trình: 

- Muốn có quyền lực phải có vây cánh. 

- Muốn có vây cánh thì phải tạo cơ hội cho đàn em làm giàu và nắm quyền.” 

Vậy, đây không những là cơ hội vơ vét mà còn giúp củng cố thêm quyền lực cho phe nhóm… chứ còn gì nữa. 

Lợi ích thứ hai đương nhiên là bôi chát để dầy thêm lớp son phấn cho bộ mặt chế độ vốn đang dần bị nhợt nhạt, lem luốc vì bị bọn “thế lực thù địch” nó lột trần. Không khéo rồi có ngày lũ “phản động” giải được chất độc cho người dân thì mất công toi hơn 80 năm tẩy não bọn chúng thì nguy to. Mỗi dịp nhắc lại quá khứ giả dối oai hùng như vầy, là một lần thêm cơ hội kéo lũ dân ngu về với boác, với đoảng. Há há, thực ra thì một dúm người chúng ông đâu có khả năng giữ đảng, là lũ dân ngu bảo vệ chế độ đấy chứ. Đúng chửa? 

Thứ hai là về Ngân sách: Xin nói trắng ra là cộng sản không có nổi một xu trong túi. Từ khi ra đời cho đến mấy chục năm tồn tại đều là đi cướp, đi lừa (của dân), đi xin, và đi vay (của dân, của nước ngoài). Nói về biệt tài đi cướp, đi xin, đi vay, đi lừa và tham nhũng của cộng sản thì đến 108 cuốn tiểu thuyết chương hồi cũng chưa hết chuyện. Vậy nên cái lễ kỷ niệm ngày ăn cướp năm nay, người dân Việt Nam khốn khổ lại thêm một lần bị cướp, bị xin đểu và bị gánh nợ oan, mối nợ bao nhiêu năm nai lưng ra trả mà mình không hề vay. Lễ kỷ niệm này cũng như nhiều lễ kỷ niệm khác của cộng sản, cộng với việc xây dựng hàng trăm tượng đài Hồ (và hậu sinh của Hồ) không những là một sự hoang phí tiền dân khủng khiếp, nó còn là một việc làm vô nhân đạo. Trường học, bệnh viện, đường xá, cầu cống… và nhiều công trình an sinh khác nhiều năm nay bị xuống cấp, quá tải nhưng không mấy được quan tâm. Nếu có xây thêm thì cũng lại biến nó thành cơ hội để vơ vét. 

Theo báo lề đảng thì: “Quy mô của lễ diễu binh, diễu hành lần này được đánh giá là sẽ lớn hơn lễ diễu binh, diễu hành kỷ niệm 60 năm chiến thắng Điện Biên Phủ. Thứ trưởng Văn hóa Thể thao và Du lịch Huỳnh Vĩnh Ái cho biết đến nay chưa tính được tổng kinh phí đầu tư cho sự kiện này.” 

Sáu mươi năm chiến thắng Điện Biên Phủ tiêu tốn hơn 27 tỉ đồng. Lễ kỷ niệm “quốc khánh” lần này quy mô lớn hơn rất nhiều đến nỗi chưa thể tính nổi kinh phí đầu tư. Hơn 30 ngàn người tham gia diễu binh, diễu hành, luyện tập suốt mấy tháng trời. Bắn pháo hoa tại nhiều điểm ở Hà Nội cũng như ở nhiều thành phố khác. Chưa kể vô số các công tác chuẩn bị, các loại phát sinh khác cho ngày này v.v... và v.v… 

Bao nhiêu tiền sẽ được ném vào cái ngày gọi là “quốc khánh” lần này, hay nói khác đi, người dân Việt Nam sẽ bị mất bao nhiêu tiền cho trò chơi hoang phí của đảng? 

1/9/2015

'Thành quả' của 70 năm cướp chính quyền

Đặng Hoài An (Danlambao) - Thật đáng xấu hổ và tủi nhục thay cho một bộ phận giới trẻ Việt Nam bây giờ, khi vỗ ngực tự hào là người Việt Nam, rồi cùng hùa nhau lên án, chửi rủa một người Mỹ đang sống và làm việc tại Việt Nam khi người này kêu gọi mọi người giữ gìn ý thức chung vì một môi trường sạch đẹp.

Khởi đầu sự việc là một status của một ca sĩ người Mỹ tên Kyo York, hiện đang sống và làm việc tại Việt Nam, với những lời nhã nhặn được đăng lên fanpage của anh vào ngày 30.8 có nội dung như sau.

“Cái gì mà càng cấm thì người ta càng làm! 

Ý thức và văn minh đa số (chứ ko hoàn toàn) người ta dành trang trí trên mạng xã hội! 

Kyo nghĩ, nếu không phải nhà chùa thì nên sửa nội dung cái bảng lại thế này: "Hôm qua có người đổ rác nơi đây và cái mỏ máu không !!!"

Ai có sáng kiến nào khác cho cái bảng báo hiệu quả hơn?

Ý với chả thức!!!"


Kèm theo dòng chia sẻ này là một tấm hình anh đang đứng bên đống rác nằm dưới ngay bảng hiệu “Cửa chùa là nơi trang nghiêm, xin đừng đổ rác”

Sau khi những dòng chia sẻ này được đăng lên fanpage cá nhân của anh ngay lập tức nhận được rất nhiều phản hồi từ các facebooker mà đa phần là các bạn trẻ. 

Nhiều người ủng hộ việc làm của Kyo York và hành động bằng cách chia sẻ status của anh. Ngược lại, cũng có không ít thành phần hung hăng, hầm hừ, hậm hực nhảy vào xù lông lên và hùa nhau chửi rủa người bạn Mỹ này. 

Có người còn đặt vấn đề rằng “Gần đến ngày lễ quốc khánh 2.9, bạn không nên moi móc hình ảnh xấu của Việt Nam nữa, bạn nên nhớ bạn đang sống ở đất nước chúng tôi?” hay có kẻ cố gắng cãi cùn “Đất nước chúng tôi đang phát triển nên còn hạn chế, không thể so sánh được với nước bạn?”...

Thậm chí, còn có những câu nhắc lại quá khứ hận thù và đe dọa tục tĩu như “"Đ.M thằng Tây, bị VN đánh tan tát không sợ, mà còn bố láo dạy đời à. Nhớ là đất nước mày từng thua Việt Nam nhé !”…

Hàng loạt phản hồi không tốt của một bộ phận được ví như là tương lai của xã hội được đăng lên như lời cảnh cáo dạy đời đối với ca sĩ này. Nhưng để đáp lại cái thứ văn hóa lùn ấy là sự điềm tĩnh và hòa nhã vốn có của anh. 

Hai ngày sau, trên fanpage của anh đã đăng nguyên một bài đáp trả lại những câu hỏi của một số người chỉ trích . 

Trong bài này, Kyo york đã liệt kê ra 10 lời bình luận tiêu cực và cũng bằng những lời lẽ hết sức nhẹ nhàng, nhã nhặn. Anh còn cho biết có nhiều lời tục tĩu hơn thế nữa nhưng không tiện viết ra. 


Cơn sóng lên án những người làm giáo dục vừa mới tạm lắng xuống để nhường cho sự kiện lũ khỉ từ đâu trong rừng chui ra, hò dô hò dịch làm đủ trò, tiêu tốn biết bao tiền của để kỉ niệm 70 năm độc lập. 

Nhưng nhìn lại thì 70 năm qua đã được những gì ngoài những trò chơi lố bịch trong nền giáo dục thổ tả. Hay những tung hê Việt Nam luôn nhất… Chính những điều đó, chính lối giáo dục theo con đường XHCN đã đặt cho giới trẻ một nền tảng không bao giờ chịu nhìn nhận lại cái sai để thăng tiến. 

Những chiêu trò mị dân đã khai thông cho giới trẻ một quan niệm rằng Việt Nam luôn luôn nhất. 

Nguy hại hơn nữa là sẵn sàng trừ khử những ai dám nêu ra cái sai của mình, sẵn sàng dùng văn hóa chửi để chơi lại những thằng nào dám bảo mình sai. Cho dù có thấy sai cũng phải im lặng, cấm được nhiều chuyện hé môi. 

Đến bây giờ một người ngoại quốc có hành động để một đất nước và con người Việt Nam được tốt đẹp hơn cũng ngay lập tức bị lên án.

Đây là hệ quả của 70 năm mà đảng cộng luôn luôn tự hào, hay theo như lời Hồ Chí Minh luôn dùng câu “trăm năm trồng người” đã ăn cắp của Quản Trọng để có ý nói rằng trồng người phải trồng đủ 100 năm mới nên người, còn 70 năm vẫn chưa đủ để thành người.

Chắc chắn là vậy, vì giờ đây nhắc đến nền giáo dục của việt Nam là cô giáo chửi, học sinh chửi, cô giáo đánh, học sinh đánh... 

Chung quy lại, kế sách trồng người của cộng sản chưa đến ngày thu hoạch thì đã nồng nặc lên một mùi hôi thối đến kinh người. 

Khi đồ tể lâm bệnh nặng


Bảng Đỏ (Danlambao) - Ông Hoàng Phủ Ngọc Tường – một nhà văn nổi tiếng của chế độ cộng sản hiện đã lâm bệnh nặng do bị tai biến hô hấp.

Báo Tuổi Trẻ dẫn lời gia đình cho hay, tình trạng bệnh của ông Tường hiện nay là rất nặng. 

Cơn tai biến đã xảy ra chỉ 1 tuần sau khi ông này được gia đình đưa từ Sài Gòn về lại Huế - nơi ông Tường bị cáo buộc là thủ phạm gây ra cuộc thảm sát kinh hoàng do quân đội cộng sản gây ra vào dịp tết Mậu Thân năm 1968.

Thảm sát Mậu Thân 1968 tại Huế

Cùng thời điểm này, tạp chí văn chương Da Màu đã cho đăng một bài phỏng vấn đặc biệt, trong đó Hoàng Phủ Ngọc Tường phủ nhận vai trò liên quan trong cuộc thảm sát Mậu Thân 68.

“Mình không có giết ai trong chiến tranh” ông Tường khẳng định trong bài phỏng vấn vừa được công bố sau 7 năm.

Tại thời điểm quân đội cộng sản ra tay thảm sát dân thường vô tội, Hoàng Phủ Ngọc Tường nói rằng ông ta không có mặt tại Huế: 

“Họ dự định sau khi vụ Mậu Thân thành công thì sẽ đưa chúng tôi về ra mắt công chúng. Nhưng cuộc tiến công bị chặn lại vì phía Mỹ và Việt Nam Cộng hòa phản kích dữ dội quá…”

“Vì việc không thành nên tôi không được đưa về Huế để ra mắt quần chúng.”

Đối với người dân Huế, đặc biệt là người nhà của những nạn nhân vô tội, đây chỉ là những lời dối trá và chạy tội của Hoàng Phủ Ngọc Tường lúc cuối đời.

Hoàng Phủ Ngọc Tường

Đồ tể 

Trong một cuộc phỏng vấn vào ngày 29/2/1982, Hoàng Phủ Ngọc Tường lại khẳng định đã có mặt tại Huế vào tết Mậu Thân năm 1968.

Video cho thấy, ông này nhiều lần nhấn mạnh vai trò của mình như một ‘chứng nhân’ tham gia công việc ‘thi hành bản án cách mạng’ đối với những thường dân.

Ông này còn kể rõ tường tận như: “Tôi đã đi trên những đường hẻm mà ban đêm tưởng là bùn, tôi mở ra bấm đèn lên thì toàn là máu... Nhất là những ngày cuối cùng khi chúng tôi rút ra...”

Sau 25 kinh hoàng, quân đội cộng sản đã dùng nhiều biện pháp man rợ để giết hại khoảng 6 ngàn người dân Huế vô tội.

Hoàng Phủ Ngọc Tường cùng em trai mình là Hoàng Phủ Ngọc Phan, cùng với Nguyễn Đắc Xuân… bị coi là những đồ tể gây ra vụ thảm sát.

Tuy nhiên, trong cuộc phỏng vấn đăng trên Da Màu, ông Tường lại nói rằng bản thân ông này ‘không chứng kiến’ những vụ giết người tại Huế: 

“Còn những vụ giết người hàng loạt, tôi chỉ nghe nói chứ không chứng kiến, nhưng tôi biết là mình không thể hành động như thế”, Hoàng Phủ Ngọc Tường nói.

Chối tội

Sau năm 1975, cũng như nhiều nhân vật đi theo ‘mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam’, Hoàng Phủ Ngọc Tường gần như bị chế độ CSVN loại bỏ. Đến năm 1987 thì ông này lại làm đơn xin gia nhập đảng.

Trong bài phỏng vấn, ông Tường nói rằng đã ‘thôi sinh hoạt đảng’ 3 năm sau đó – tức năm 1990, nhưng không có giấy tờ chính thức.

Năm 1989, ông này bị tai biến mạch máu não, liệt nửa người và phải ngồi xe lăn. Sau đó, được gia đình chuyển vào Sài Gòn sinh sống.

Trong suốt những năm tháng cuối đời, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã luôn tìm cách chạy tội cho cá nhân và đồng bọn của ông ta trong cuộc thảm sát Mậu Thân 68. Trong khi đó, chế độ CSVN vẫn tiếp tục dùng sự kiện này để ăn mừng trên xác những người dân vô tội, thậm chí chúng còn trơ trẽn dùng cả bộ máy tuyên truyền nhằm đổ lỗi cho ‘Mỹ-Nguỵ’ đã gây ra cuộc thảm sát.

*

Ở đời, con người thì ai cũng có lúc sẽ phải trở về với cát bụi. Tuy nhiên, sẽ thật là một điều bất công nếu Hoàng Phủ Ngọc Tường được chết. 

Không phải vì hận thù hay muốn trả thù, cá nhân tôi cho rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường và đồng bọn ông ta cần phải sống cho đến ngày công lý được thực thi. 

Ngược lại, muốn được nhắm mắt ra đi, thì đây là cơ hội cuối cùng để Hoàng Phủ Ngọc Tường nói ra sự thật, xem như một lời tạ lỗi cuối cùng trước khi lìa đời. 

Hãy nói trước ngày chết

Trần Trung Đạo (Danlambao) - Trong lịch sử nhân loại, không có một chủ nghĩa nào tàn bạo hơn chủ nghĩa Cộng Sản. Từ khi Tuyên ngôn đảng cộng sản ra đời năm 1848 cho đến khi bức tường Bá Linh bị đập đổ vào 1989, khoảng gần 100 triệu người từ nhiều quốc gia đã bị giết. Hơn hai mươi năm qua, mặc dù ngọn lửa vô thần đã tắt trên phần lớn quả địa cầu, một góc trời phương đông lửa vẫn còn đỏ rực, nhà tù vẫn còn giam giữ nhiều người bất đồng với chế độ độc tài toàn trị và tự do vẫn là một bóng mây xa.

Người đời có thói quen kết án Stalin đã gây ra tội ác tày trời đối với nhân dân Liên Xô, Mao Trạch Đông đã giết trên 30 triệu nhân dân Trung Quốc và Pol Pot tiêu diệt một phần tư dân tộc Khmer bằng súng và cả bằng dao phay, cán cuốc. Những chuyện đó ngày nay nhân loại đều biết và tội ác của chúng không còn là vấn đề tranh cãi nữa. Tuy nhiên, làm thế nào một nông dân có gốc gác bình thường, nếu không muốn nói là hiền lành như Mao lại có thể trở thành sát nhân của mấy chục triệu dân Trung Quốc? Làm thế nào Pol Pot, con của một điền chủ giàu có, được gởi sang Pháp ăn học, được bạn bè nhớ lại như một người nhã nhặn, lịch sự và được gọi là trí thức trong xã hội Khmer còn chậm tiến lúc bấy giờ, nhưng sau khi nắm chính quyền đã giết hai triệu dân Khmer bằng búa, dao và những cách giết người tàn bạo hơn cả trong thời Trung Cổ?

Bởi vì chủ nghĩa Cộng Sản trang bị cho chúng một quyền lực tuyệt đối, một niềm tin cuối cùng, một lối thoát tinh thần, một chỗ dựa lý luận để giải thích cho hành động bất nhân của chúng. Nuon Chea, người đứng hàng thứ hai của chế độ Khờ Me Đỏ chỉ sau Pol Pot, lạnh lùng trả lời báo chí, những kẻ bị giết chỉ vì “họ là kẻ thù của nhân dân”. Đơn giản vậy thôi. Chúng ăn rất ngon và ngủ rất yên dù sau một ngày ký hàng loạt bản án tử hình.

Giết một vài đối thủ thì không sao nhưng để loại bỏ hàng triệu người là chuyện khác. Stalin không thể lên tận các trại lao động khổ sai ở Siberia để bỏ đói những người chống đối y. Mao Trạch Đông không thể xuống từng trường học để tra tấn các thầy cô trong Cách Mạng Văn Hóa, Hồ Chí Minh không thể đích thân xử bắn bà Nguyễn Thị Năm trong Cải Cách Ruộng Đất. Nhưng họ có khả năng huấn luyện, đầu độc một thế hệ đao phủ thủ trẻ tuổi hăng say và cuồng tín để làm thay. Quyền lực đặt vào tay đám đao thủ phủ trẻ này chẳng khác gì con dao bén để chúng thanh toán những mối thù riêng và lập công dâng Đảng.

Tháng 10 năm 2002, nhà báo Mỹ Amanda Pike đến Campuchia để tìm hiểu nguyên nhân tội ác diệt chủng của Pol Pot đã không được làm sáng tỏ. Amanda Pike phỏng vấn bà Samrith Phum, người có chồng bị Khờ Me Đỏ giết. Theo lời kể của bà Samrith Phum, vào nửa đêm năm 1977 chồng bà bị một Khờ Me Đỏ địa phương bắt đi và giết chết vì bị cho là “gián điệp CIA”. Hung thủ chẳng ai xa lạ mà là người cùng làng với bà Samrith. Hiện nay, kẻ giết người vẫn còn sống nhởn nhơ chung một làng với bà cách thủ đô Nam Vang vài dặm nhưng không một tòa án nào truy tố hay kết án.

Với chủ trương “Dân tộc Khờ Me cần đào hố để chôn đi quá khứ” Hun Sen đã cản trở Liên Hiệp Quốc rất nhiều trong việc điều tra tội diệt chủng của chế độ Pol Pot. Hun Sen cản trở vì bản thân y cũng từng là một sĩ quan Khờ Me Đỏ. Hun Sen nhiệt tình với lý tưởng CS đến mức bỏ học theo Pol Pot khi còn trong tuổi thiếu niên. Nhiều chi tiết trong quảng thời gian từ 1975 đến 1979 của cuộc đời y vẫn còn trong vòng bí mật. Khi chôn quá khứ của Campuchia, Hun Sen muốn chôn đi quá khứ tội lỗi của mình.

Tình trạng kẻ sát nhân và gia đình những người bị sát hại vẫn còn sống chung làng, chung xóm, chung thành phố không chỉ phổ biến tại Campuchia nhưng cũng rất phổ biến tại Huế sau vụ Thảm sát Tết Mậu Thân 1968.

Số người bị giết trong vụ Thảm sát Tết Mậu Thân khác nhau tùy theo nguồn điều tra nhưng phần lớn công nhận số người bị giết lên đến nhiều ngàn người và “kẻ thù nhân dân” không chỉ là công chức chính quyền VNCH mà còn rất đông sinh viên, học sinh, phụ nữ, trẻ em và ngay cả một số giáo sư ngoại quốc. Ông Võ Văn Bằng, Nghị viên tỉnh Thừa Thiên và cũng là Trưởng Ban Truy Tìm và Cải Táng Nạn Nhân Cộng Sản Tết Mậu Thân, kể lại: “Các hố cách khoảng nhau. Một hố vào khoảng 10 đến 20 người. Trong các hố, người thì đứng, nào là nằm, nào là ngồi, lộn xộn. Các thi hài khi đào lên, thịt xương đã rã ra. Trên thi hài còn thấy những dây lạt trói lại, cả dây điện thoại nữa, trói thành chùm với nhau. Có lẽ, họ bị xô vào hố thành từng chùm. Một số người đầu bị vỡ hoặc bị lủng. Lủng là do bắn, vỡ là do cuốc xẻng.” 


Tài liệu liên quan đến Thảm sát Tết Mậu Thân rất nhiều, từ điều tra của các nhà nghiên cứu nước ngoài cho đến các nhân chứng sống Việt Nam. Đến nay, thành phần được nghĩ đã gây ra biến cố đầy tang thương cho dân tộc Việt Nam này là những người Huế “nhảy núi”. Họ là những người bỏ trường, bỏ làng xóm, bỏ cố đô lên rừng theo CS và Tết Mậu Thân đã trở lại tàn sát chính đồng bào ruột thịt của mình. Họ là những kẻ vừa được giải thoát khỏi nhà giam Thừa Phủ đưa lên núi huấn luyện vài ngày rồi trở lại giết chết những kẻ bị nghi ngờ đã bỏ tù họ. Không giống quân đội chính quy tấn công Huế, những du kích nằm vùng, những thanh niên, sinh viên, học sinh là những người sinh ra và lớn lên ở Huế, thuộc từng tên phố tên đường, biết tên biết tuổi từng người. Họ lập danh sách và đến từng nhà lừa gạt người dân bằng cách “mời đi trình diện” rồi sẽ trả về nhà ăn Tết. Những người nhẹ dạ đi theo. Mà cho dù không nhẹ dạ cũng chẳng ai nghĩ mình sắp bị chôn sống chỉ vì làm chức liên gia trưởng của năm bảy gia đình, ấp trưởng một ngôi làng nhỏ, xã trưởng của vài trăm dân. Kết quả, từng nhóm, từng đoàn người lần lượt bị đem ra “tòa án nhân dân” và kết án tử hình.

Người “nhảy núi” nổi tiếng nhất là Hoàng Phủ Ngọc Tường.

Ngày 12 tháng 7 năm 1997, Hoàng Phủ Ngọc Tường trả lời câu hỏi của nhà văn Thụy Khuê về sự liên quan của ông đối với vụ Thảm sát Tết Mậu Thân: “Sự thực là tôi đã từ giã Huế lên rừng tham gia kháng chiến vào mùa hè năm 1966, và chỉ trở lại Huế sau ngày 26 tháng 3 năm 1975. Như thế nghĩa là trong thời điểm Mậu Thân 1968, tôi không có mặt ở Huế” và ông cũng thừa nhận Thảm sát Tết Mậu Thân là có thật chứ chẳng phải “Mỹ Ngụy” nào dàn dựng“Điều quan trọng còn lại tôi xin ngỏ bầy ở đây, với tư cách là một đứa con của Huế, đã ra đi và trở về, ấy là nỗi thống thiết tận đáy lòng mỗi khi tôi nghĩ về những tang tóc thê thảm mà nhiều gia đình người Huế đã phải gánh chịu, do hành động giết oan của quân nổi dậy trên mặt trận Huế năm Mậu Thân. Đó là một sai lầm không thể nào biện bác được, nhìn từ lương tâm dân tộc, và nhìn trên quan điểm chiến tranh cách mạng”.

Khi được hỏi ai là những người phải chịu trách nhiệm, Hoàng Phủ Ngọc Tường phát biểu “Nhưng tôi tin rằng đây là một sai lầm có tính cục bộ, từ phía những người lãnh đạo cuộc tấn công Mậu Thân ở Huế” và tiếp tục nêu thêm chi tiết chính Đại tá Lê Minh, tư lệnh chiến dịch Huế Mậu Thân thừa nhận trong tạp chí Sông Hương “Dù bởi lý do nào đi nữa, thì trách nhiệm vẫn thuộc về những người lãnh đạo mặt trận Mậu Thân, trước hết là trách nhiệm của tôi.”

Tóm lại, Hoàng Phủ Ngọc Tường trong buổi phỏng vấn dành cho nhà văn Thụy Khuê xác nhận ông ta không có mặt ở Huế trong suốt thời gian Huế bị CS chiếm đóng và những kẻ sát hại thường dân vô tội là do các “lãnh đạo cuộc tấn công Mậu Thân ở Huế” chủ trương. 

Tuy nhiên 15 năm trước đó, ngày 29 tháng 2 năm 1982, trong buổi phỏng vấn truyền hình dài 15 phút dành cho hệ thống WGBH, Hoàng Phủ Ngọc Tường thừa nhận việc dư luận đang tố cáo ông là đúng, nghĩa là chính ông đã có mặt tại Huế: “Tôi đã đi trên những đường hẻm mà ban đêm tưởng là bùn, tôi mở ra bấm đèn lên thì toàn là máu... Nhất là những ngày cuối cùng khi chúng tôi rút ra...” và ông cho rằng một số người dân Huế chết thảm thương là do sự trả thù của chính người Huế với người Huế “chính nhân dân đã căm thù quá lâu, đó là những người đã bị chính nó tra tấn, chính nó đã làm cho tất cả gia đình phải bị đi ở tù ra ngoài đảo v.v... và đến khi cách mạng bùng lên họ được như là lấy lại cái thế của người mạnh thì họ đi tìm những kẻ đó để trừ như là trừ những con rắn độc mà từ lâu nay nếu còn sống thì nó sẽ tiếp tục nó gây tội ác trong chiến tranh.”

Nếu phân tích theo thời gian và diễn biến chính trị thế giới, đặc biệt sự sụp đổ của phong trào CS quốc tế, câu trả lời của Hoàng Phủ Ngọc Tường vào năm 1982 là thành thật và sát với thực tế Mậu Thân nhất. Trong giai đoạn chuyên chính vô sản vài năm sau 1975, không chỉ ông ta mà cả các lãnh đạo CSVN vẫn nghĩ “con đường tất yếu” là con đường “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”. Không có một thế lực nào cản trở sức chảy của “ba dòng thác cách mạng”. Vào thời điểm 1982, Hoàng Phủ Ngọc Tường chẳng những không sợ gì phải che giấu mà còn xem đó như một thành tích cần được nêu ra. Xem đoạn phim, khuôn mặt Hoàng Phủ Ngọc Tường đằng đằng sát khí khi diễn tả việc giết một viên chức VNCH: “chỉ lấy lại mạng sống của một người, giá đó rất nhẹ và công bằng”.

Thái độ đó hoàn toàn khác với giọng ôn tồn khi ông ta nhắc lại lời của Đại tá CS Lê Minh như thay cho chính mình 15 năm sau “bây giờ, là những người lãnh đạo kế nhiệm ở Huế, phải thi hành chính sách minh oan cho những gia đình nạn nhân Mậu Thân, trả lại công bằng trong sáng và những quyền công dân chính đáng cho thân nhân của họ”. Thời gian đổi thay, lịch sử đổi thay và con người cũng thay đổi. Không phải chỉ Hoàng Phủ Ngọc Tường mà cả những cựu lãnh đạo CS Đông Âu, một thời giết người không chút xót thương, sau 1990 cũng trả lời báo chí với giọng ngọt ngào như thế.

Nhiều bạn hữu của Hoàng Phủ Ngọc Tường như tác giả Ngô Minh viết trên talawas 2008, cho rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường “trong suốt những năm lên “xanh” ở A Lưới, Hoàng Phủ Ngọc Tường không được phân công về thành phố hay đồng bằng một chuyến nào cả” mà không biết hay cố tình bỏ qua sự kiện 26 năm trước chính Hoàng Phủ Ngọc Tường đã xác nhận mình ở Huế với những tình tiết mắt thấy tai nghe của một người trong cuộc. 

Hai buổi trả lời phỏng vấn hoàn toàn trái ngược chứng tỏ Hoàng Phủ Ngọc Tường phải có một khó khăn để giải thích sự liên hệ của mình đến vụ Thảm sát Mậu Thân. Lời phát biểu của ông cho thấy một điều, ngoại trừ trẻ em quá nhỏ, những người bị giết chắc chắn biết người giết mình là ai.

Không giống Hoàng Phủ Ngọc Tường mâu thuẫn, hai ông Nguyễn Đắc Xuân và Hoàng Phủ Ngọc Phan từ trên núi theo đoàn quân CS đánh vào Huế. Hai ông không từ chối điều này nhưng đều phủ nhận đã có liên hệ gì với Thảm sát Mậu Thân. Trong bài viết Nhân đọc bài "Trịnh Công Sơn - Những hoạt động nằm vùng” Hoàng Phủ Ngọc Phan khẳng định: “Còn tôi thì có theo chiến dịch về hoạt động ở Thành nội Huế nhưng tôi không hề giết ai cả, suốt gần 10 năm đi kháng chiến cũng không hề làm thiệt mạng một con thú trên rừng chứ đừng nói là con người.” 

Nhà văn Nhã Ca kết án ông Nguyễn Đắc Xuân trong Giải Khăn Sô Cho Huế vì đã“đích tay đào một cái hố, bắt một bạn học cũ có xích mích từ trước ra đứng bên hố để xử tử” và ông Nguyễn Đắc Xuân đáp lại trong bài Hậu Quả Của “Cái Chết” của tôi: “Còn tôi, một sinh viên Phật tử mới thoát ly chưa đầy một năm rưởi, không có quyền hành gì, nếu tôi muốn làm những việc như Nhã Ca viết thì cũng không thể làm được. Không ai cho tôi làm. Nếu tôi tự ý làm, làm sao tôi có thể thoát được sự phê phán của đồng chí đồng sự của tôi, đặc biệt là những người sau nầy không còn đứng trong hàng ngũ kháng chiến nữa...”

Chuyện “thoát ly chưa đầy một năm rưỡi” không chứng minh được ông ta không có quyền giết người, trái lại cũng có thể giải thích ngược, càng tham gia trễ càng phải chứng tỏ nhiệt tình cách mạng cao độ, càng phải giết nhiều người, càng phải lập nhiều công. Nói thế không phải để đánh bồi thêm một người đã ngã nhưng cho thấy lời biện bạch của ông không thuyết phục.

Trong tinh thần “Lợi ích của sự ngờ” (Benefit of the doubt), tạm cho những lời người khác kể về các ông chưa đủ bằng chứng kết tội, tuy nhiên, các ông Hoàng Phủ Ngọc Phan và Nguyễn Đắc Xuân, những thành viên tích cực của phong trào đấu tranh đô thị, hoạt động 26 ngày trong lòng thành phố Huế bị rơi vào tay các ông với nhiều ngàn người dân vô tội bị giết bằng những cách dã man hơn cả bọn diệt chủng Pol Pot mà các ông nói rằng không biết gì, không thấy gì thì trẻ con ngây thơ cũng không tin được.

Và không chỉ ba ông Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Phan mà cả thế hệ “nhảy núi” ở Huế trong đó rất nhiều nhà nghiên cứu văn hóa, nhà văn, nhà thơ, họa sĩ, nhạc sĩ cho đến nay vẫn không biết gì, không thấy gì, không viết gì về Thảm sát Tết Mậu Thân thì quả là chuyện lạ. Hãy thử đặt mình trong vị trí của gia đình các nạn nhân vụ Thảm sát Huế, các ông có nghĩ rằng chính Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân đã giết hoặc biết chắc ai đã giết thân nhân các ông các không? Chắc chắn là có, không thể có lời giải thích thứ ba.

Lẽ ra Thảm sát Tết Mậu Thân phải là nguồn thôi thúc cho nhiều tác phẩm văn học lớn nói lên sự đau khổ, sự chịu đựng tận cùng của đồng bào Huế nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung. Lẽ ra những người đang bị dư luận kết án, nếu thật sự không tham dự vào cuộc tàn sát, thay vì than mây khóc gió trong văn chương hay lao đầu vào cơm áo, nên dành phần còn lại của đời mình đi tìm cho ra cội nguồn gốc rễ để vừa giải oan cho đồng bào mà cũng minh oan cho chính mình. Gia đình nạn nhân còn đó, nhân chứng còn đó, hầm hố còn đó, bạn bè còn đó, chứng tích còn đó, chế độ còn đó. Có thể người đọc vì sự công phẫn chưa nguôi, sẽ không tin hết các điều các ông các bà viết nhưng nếu đúng rồi lịch sử sẽ tin. Nếu không làm thế, cơ chế độc tài này chắc chắn sẽ tàn lụi nhưng tên tuổi Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Thị Đoan Trinh v.v... mãi mãi vẫn là những dấu đen ngàn đời không phai.

Dư luận khắt khe nhưng không bất công. Suốt 42 năm, các ông các bà có rất nhiều cơ hội để làm sáng tỏ một sự kiện lịch sử mà các ông các bà từng tham dự, nhưng ngoại trừ việc phải trả lời vài buổi phỏng vấn rải rác đó đây, các ông các bà im lặng. Kết án lại những người kết án không phải là cách trả lời mà nhân dân Việt Nam đang muốn biết. Ông Nguyễn Đắc Xuân được gọi là “nhà Huế học” nhưng Huế không chỉ có sông Hương, núi Ngự, lăng tẩm, đền đài mà còn có Bãi Dâu, Khe Đá Mài, khu Gia Hội và hàng chục ngôi mồ tập thể khác. Đời sống của một dân tộc không chỉ gồm những thời đẹp đẽ, vinh quang mà còn cả những giai đoạn đau buồn, tủi nhục. Tại sao các ông các bà không viết? Phải chăng những người “nhảy núi” ở Huế cũng giống như Hun Sen hay tên Khờ Me Đỏ giết chồng bà Samrith Phum năm 1977, đang cố chôn đi quá khứ? Sự im lặng của các ông các bà không phải là một công án thiền mà là lời tự tố cáo lớn tiếng nhất.

Dân tộc Việt Nam đã trải qua nhiều thời kỳ suy vi và phân hóa nhưng sự kiện một số người dã tâm tàn sát nhiều ngàn người Việt khác trong chỉ vài tuần bằng các phương tiện phi nhân chưa từng có như ở Huế là lần đầu. Vết thương Mậu Thân sẽ không bao giờ lành một khi tội ác chưa được đưa ra ánh sáng. Nền tảng của hòa giải là công lý và sự thật chứ không phải che đậy và lãng quên.

Nhiều tác giả đã viết về Thảm sát Mậu Thân. Những dữ kiện trong bài viết này không có gì mới mà đã được nhắc đi nhắc lại. Dụng ý của kẻ viết bài này chỉ muốn nhấn mạnh một điều rằng, nhiều trong số những người “nhảy núi” còn sống ở Huế hay trong và cả ngoài nước, nhưng chắc không sống bao lâu nữa. Tuổi tác của các ông các bà đều trên dưới bảy mươi. Thời gian còn lại như tiếng chuông ngân đã quá dài. Tất cả sẽ là không. Các ông các bà ra đi không mang theo gì cả nhưng sẽ để lại rất nhiều. Vẫn biết con người khó tự kết án chính mình nhưng các ông, các bà vẫn còn nợ dân tộc Việt Nam, nhất là các thế hệ mai sau, câu trả lời cho cái chết của nhiều ngàn dân Huế vô tội.

Ngọn nến trước khi tắt thường bật sáng, vì tương lai dân tộc, các ông các bà hãy sáng lên sự thật một lần trước ngày chết.


_____________________________________

Dân Làm Báo - Họ tiếp tục hát trên những xác người, chối bỏ tội ác, đổ thừa tội phạm, chà đạp lịch sử để tự vinh danh những kẻ sát nhân lẫn một chế độ sát nhân. Và vì thế những tang thương quá khứ đành phải lật lại vì sự thật của lịch sử:


Lời thề bốn không ngày 2-9

Trần Gia Phụng (Danlambao) - Trong lễ ra mắt chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) ngày 2-9-1945 tại Hà Nội, Hồ Chí Minh (HCM) đưa ra lời thề hết sức long trọng. Trước khi đề cập đến lời thề ngày 2-9-1945 của HCM, xin sơ lược tiến trình cướp chính quyền của HCM và Mặt trận Việt Minh (VM).

1. Mặt trận Việt Minh

Việt Minh là tên tắt của Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội do Hồ Học Lãm thành lập ở Trung Hoa năm 1936. Hồ Học Lãm có bí danh là Hồ Chí Minh, già yếu, ít hoạt động nên nhóm cộng sản Việt Nam (CSVN) ở Trung Hoa chiếm dụng danh xưng của hội nầy năm 1940. (Hoàng Văn Hoan, Giọt nước trong biển cả, hồi ký, Portland, Oregan: Nhóm Tìm Hiểu Lịch Sử, 1991, tr. 134.)

Lúc đó, nhân cơ hội Quốc-Cộng Trung Hoa liên kết lần thứ 2 từ 22-9-1937 để chống Nhật, đảng Cộng Sản Trung Hoa (CSTH) hoạt động công khai trở lại. Vào mùa thu 1938, Liên Xô gởi Nguyễn Ái Quốc (NAQ) đến Diên An (Yan An), phía bắc tỉnh Thiểm Tây (Shaan Xi), nơi đặt bộ chỉ huy đảng CSTH. (Qiang Zhai,China & Vietnam Wars, 1950-1975, University of North Carolina Press, 2000, tr. 11.)

Đầu năm 1939, NAQ xuống Hoa Nam (miền nam Trung Hoa) với bí danh mới là Hồ Quang. (Chính Đạo, Hồ Chí Minh, con người & huyền thoại, tập II: 1925-1945, Houston: Nxb. Văn Hóa, 1993,tt. 176-178.) Từ đây, Hồ Quang bắt liên lạc và hoạt động với cơ sở hải ngoại của đảng CSĐD do Phùng Chí Kiên phụ trách. (Phùng Chí Kiên là bí danh của Mạch Văn Liệu.)

Năm 1941, Hồ Quang (NAQ), với bí danh khác là Già Thu, về Việt Nam, sống ở Pắc Bó (Cao Bằng), tổ chức Hội nghị Ban chấp hành Trung ương đảng CSĐD lần thứ 8 từ 10 đến 19-5-1941, lập Mặt trận Việt Minh ở trong nước. Sau đó, Hồ Quang trở qua Trung Hoa, chiếm dụng luôn bí danh Hồ Chí Minh của Hồ Học Lãm từ tháng 8-1942. Hồ Chí Minh (NAQ) bị bắt tại trấn Thiên Bảo (Quảng Tây) ngày 29-8-1942 và được tha ngày 10-9-1943. (Chính Đạo, Việt Nam niên biểu nhân vật chí, Houston: Nxb. Văn Hóa, 1997, tr. 168, và Chính Đạo, Hồ Chí Minh, con người & huyền thoạitập II, sđd. tt. 278, 283.)

Gốc là một điệp viên cộng sản quốc tế, Hồ Chí Minh (NAQ, Hồ Quang) gia nhập Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội, gọi tắt là Việt Cách, để do thám. Việt Cách là một tổ chức chính trị Việt Nam tại Trung Hoa theo chủ nghĩa dân tộc, được chính quyền Trung Hoa Quốc Dân Đảng (THQDĐ) hỗ trợ. Với sự đồng ý và giúp đỡ của tướng Tiêu Văn (THQDĐ), Hồ Chí Minh (HCM) đem 22 cán bộ, rời Liễu Châu (Quảng Tây) ngày 8-9-1944, về tới Pắc Bó (châu Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng) vào gần cuối tháng đó. “Trong số 22 người ấy có một nữ đảng viên tên là Đỗ Thị Lạc là người sau có đứa con gái với Hồ Chí Minh. Về sau, thấy người ta nói khi về đến địa hạt Bắc Giang, có ba đảng viên trong 22 người ấy bị giết vì không chịu theo cộng sản." (Lệ Thần Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi, Sài Gòn: Nxb. Vĩnh Sơn, 1969, tr. 75.) Tuy trở về với tư cách là thành viên của Việt Cách, HCM chỉ hoạt động cho mục đích của VM cộng sản. Từ đây, HCM chỉ huy VM và trực tiếp chỉ huy luôn đảng Cộng Sản Đông Dương (CSĐD).

Một trong những việc làm đầu tiên của HCM là ra lệnh cho Võ Nguyên Giáp thành lập Đội Việt Nam Tuyên Truyền Giải Phóng Quân, và mở rộng lực lượng du kích VM ở các vùng rừng núi Việt Bắc. Đội nầy ra mắt ngày 22-12-1944 tại châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, gồm 34 người. Đây là tổ chức tiền thân của quân đội VM cộng sản. Hồ Chí Minh thông báo cho các đồng chí của ông biết rằng thời cơ đang đến, nên gấp rút chuẩn bị hành động.

Tháng 11-1944, một trung úy phi công Mỹ lâm nạn ở biên giới Việt Hoa, bị VM bắt, và HCM đưa qua Côn Minh trả lại cho quân đội Mỹ. Hồ Chí Minh bắt đầu làm quen với người Mỹ, và sau đó hợp tác với nhân viên tình báo O.S.S. (Office of Strategic Services) của Mỹ từ đầu 1945. Khoảng giữa tháng 4-1945, HCM cùng hai nhân viên vô tuyến của O.S.S. về vùng viên giới Hoa Việt ở Cao Bằng. Tháng 5-1945, HCM chuyển đến hoạt động ở Tân Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Từ đây, Tân Trào trở thành thủ phủ của vùng VM. Ngày 16-7-1945, A. Patti gởi một toán tình báo hỗn hợp do thiếu tá Allison K. Thomas chỉ huy, gồm 6 người (2 Mỹ, 2 Pháp và 2 Việt trong quân đội Pháp), nhảy dù xuống làng Kim Lộng (Tân Trào, Tuyên Quang). (Archimedes L. A. Patti, Why Viet Nam?, California: University of California Press, Berkely, 1980, tr. 127.)

Do tin tức tình báo từ phía O.S.S. Mỹ và cả phía CS, HCM biết chắc chắn Nhật sẽ sụp đổ sau khi bị Hoa Kỳ thả hai quả bom nguyên tử ngày 6 và 9-8-1945, nên HCM triệu tập Đại hội đảng Cộng Sản Đông Dương (CSĐD) ở Tân Trào từ ngày 13 đến ngày 15-8-1945, lập “Ủy Ban Khởi Nghĩa Toàn Quốc” và ra quân lệnh số 1, phát động cuộc tổng khởi nghĩa, cướp chính quyền ở khắp các tỉnh trong nước.

Lúc đó, đảng CSĐD do HCM lãnh đạo, chưa có Bộ chính trị, chỉ có Ban chấp hành trung ương đảng, khoảng dưới 20 người, tổng bí thư là Đặng Xuân Khu, bí danh là Trường Chinh. Số đảng viên khoảng từ 2,000 đến 5,000 người. (Philippe Devillers, Histoire du Viêt-Nam de 1940 à 1952, Editions Du Seuil, Paris 1952, tr. 182.)

Sau hội nghị của đảng CSĐD, HCM tổ chức “Đại hội đại biểu quốc dân” ngày 16-8-1945, cũng tại Tân Trào, gồm khoảng 60 đại biểu, mà VM nói là đại diện các đảng phái, các đoàn thể, các tôn giáo, các sắc dân trên toàn quốc. Do HCM sắp đặt, Đại hội tuyên bố tán thành chủ trương phát động tổng khởi nghĩa của đảng CSĐD, và thành lập “Ủy Ban Dân Tộc Giải Phóng Việt Nam”, tự xem là có tính cách như Chính phủ Cách mạng Lâm thời.

2. Việt Minh cướp chính quyền ở Hà Nội

Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng ngày 14-8-1945. Tại Đông Dương, bộ tham mưu Quân đoàn 38 của Nhật đóng ở Hà Nội. Người Nhật chủ trương rằng quân đội Nhật bại trận, nhưng sẽ không nhượng chỗ cho quân Đồng minh thắng trận, mà chỉ nhượng cho những ai có khả năng tiếp tục nhiệm vụ lịch sử của Nhật, là giải phóng châu Á ra khỏi tay thực dân da trắng. (Philippe Devillers, sđd. tr. 136.) Vì vậy, khi Nhật Bản đầu hàng, quân đội Nhật tại Đông Dương hạ võ khí, rút lui vào các căn cứ quân sự, chờ ngày bị giải giới, để cho người Việt tự do hoạt động trước khi quân Đồng minh có mặt.

Trong khi đó, chính phủ Trần Trọng Kim (TTK) không có bộ Quốc phòng, không có lực lượng võ trang để giữ gìn an ninh, trật tự và bảo vệ chế độ. Các cơ quan hành chánh theo truyền thống cũ từ thời Pháp thuộc, chỉ có một số lính lệ hoặc bảo an binh giữ trật tự các cơ quan, không được trang bị đầy đủ, có tính cách hình thức hoặc lễ nghi.

Thời gian nầy không có lực lượng Pháp hay Nhật, cũng không có lực lượng chính phủ, là cơ hội thuận tiện cho lực lượng VM tung hoành, không bị ai ngăn chận. Đây là một trong những lý do giải thích vì sao chỉ với một lực lượng nhỏ khoảng dưới 5,000 đảng viên, mà VM cướp được chính quyền.

Trong lúc tình hình Hà Nội và miền Bắc xáo trộn, chính phủ TTK ở Huế cử bộ trưởng Hoàng Xuân Hãn ra Bắc, thay mặt chính phủ giải quyết tại chỗ những vấn đề khẩn cấp. Sau khi gặp các yếu nhân Hà Nội, Hoàng Xuân Hãn gởi điện về Huế, đề nghị lập một cơ cấu chính trị mới gọi là Ủy ban Giám đốc Chính trị miền Bắc (Comité directeur de la politique du Nord).

Ngày 16-8-1945, chính phủ TTK đề cử thành phần Ủy ban nầy như sau: Nguyễn Xuân Chữ (chủ tịch) và bốn ủy viên là Phan Kế Toại, Trần Văn Lai, Đặng Thai Mai, Nguyễn Tường Long. Tuy nhiên, ngoài bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ, bốn ủy viên kia đều vắng mặt. (Nguyễn Xuân Chữ, Hồi ký, Houston: Nxb. Văn Hóa, 1996, tr. 280.) Lý do là vì VM đã tung cán bộ đe dọa từng người. Phan Kế Toại không xuất hiện (có thể đã theo VM, con là Phan Kế Bảo, một cán bộ VM), Trần Văn Lai bận việc ở tòa đô trưởng, Đặng Thai Mai hoàn toàn không ra mặt, Nguyễn Tường Long bị bệnh chưa làm việc được.

Ngày 17-8-1945, Tổng Hội Công Chức do chính quyền TTK thành lập, tổ chức cuộc mít-tinh tại Nhà hát lớn Hà Nội, nhằm ủng hộ chính phủ TTK. Trong khi các diễn giả của Tổng Hội Công Chức đang nói chuyện ở Nhà hát lớn, thì một người nào đó (chắc chắn là cán bộ VM) ở trên lầu Nhà hát lớn quăng xuống một lá cờ đỏ sao vàng của VM. Thế là cán bộ VM chụp lấy thời cơ, biến cuộc mít-tinh của Tổng Hội Công Chức thành cuộc biểu tình tuần hành, quay qua ủng hộ mặt trận VM. (Theo lời kể của một số người ngày nay lớn tuổi, đã từng tham dự cuộc mít-tinh ngày 17-8-1945 tại Hà Nội.)

Ngày 19-8-1945, VM tiếp tục tổ chức biểu tình, chiếm Bắc bộ phủ (phủ toàn quyền Pháp cũ), cướp chính quyền Hà Nội. Việt Minh làm chủ được Hà Nội từ ngày 20-8-1945, nhưng những cuộc bạo động vẫn tiếp diễn. Bạo động bắt nguồn từ cả hai phía: Bạo động của VM tiêu diệt những phần tử đối kháng; bạo động của những đảng phái quốc gia đối lập chống lại VM.

Ngày 21-8-1945, VM vận động các đoàn thể họp mít-tinh tại Hà Nội, lập ra một kiến nghị gồm ba điểm: 1) Yêu cầu vua Bảo Đại thoái vị và giao quyền cho một chính phủ lâm thời do Mặt trận VM thành lập. 2) Yêu cầu Mặt trận VM thảo luận với các đảng phái khác để thành lập chính phủ lâm thời. 3) Yêu cầu tất cả các đảng phái, các tầng lớp dân chúng ủng hộ chính phủ lâm thời để củng cố nền độc lập quốc gia. Bản kiến nghị nầy được chuyển bằng điện tín về Huế. (Philippe Devillers, sđd. tr. 137.)

3. Vua Bảo Đại thoái vị

Sau khi Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng và VM lộng hành, đại sứ Nhật ở Huế là Massayuki Yokoyama đến gặp vua Bảo Đại, đề nghị vua Bảo Đại dùng lực lượng của Nhật tiêu diệt VM. Vua Bảo Đại từ chối đề nghị nầy để tránh nội chiến có thể xảy ra. (Theo lời kể với người viết tại Sài Gòn năm 1993 của ông Phan Văn Vỹ. Vào năm 1945, ông Vỹ là đệ nhị đẳng thị vệ của vua Bảo Đại. Ông cho biết ông là người trực gác buổi tối khi Yokoyama đến gặp vua Bảo Đại và chính ông đã đánh thức và báo tin với nhà vua, để nhà vua ra tiếp khách.)

Người Nhật còn đề nghị với thủ tướng TTK. Sau đây là lời trong hồi ký của TTK:“Lúc bấy giờ người Nhật có đến bảo tôi: “Quân đội Nhật còn trách nhiệm giữ trật tự cho đến khi quân Đồng minh đến thay. Nếu chính phủ Việt Nam công nhiên có lời mời quân Nhật giúp, quân Nhật còn có thể giữ trật tự”. Tôi nghĩ quân Nhật đã đầu hàng, quân Đồng minh sắp đến, mình nhờ quân Nhật đánh người mình còn nghĩa lý gì nữa, và lại mang tiếng “cõng rắn cắn gà nhà”. Tôi từ chối không nhận.” (Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi, Sài Gòn: Nxb Vĩnh Sơn, 1969, tr. 93.)

Vua Bảo Đại quay qua các nước Tây phương, viết thư gởi tổng thống Hoa Kỳ là Harry Truman và thủ tướng lâm thời Pháp là Charles de Gaulle, thống chế Tưởng Giới Thạch, quốc vương Anh, kêu gọi trao trả độc lập lại cho Việt Nam, đừng tái lập nền cai trị Pháp dưới bất cứ một hình thức nào. Các nước Tây phương chuẩn bị kế hoạch riêng nên đều im lặng và không trả lời thư của vua Bảo Đại. (Bảo Đại,Con rồng Việt Nam, California: Xuân Thu, 1990, tt. 177-179; và David G. Marr,Vietnam 1945, The Quest for Power, University of California Press, 1995, tr. 361.)

Trong lúc vua Bảo Đại lúng túng, chính phủ TTK xin từ chức ngày 20-8-1945. Ngày 21-8, vua Bảo Đại lại nhận được điện tín từ Hà Nội của VM yêu cầu nhà vua từ chức. Trần Trọng Kim khuyên nhà vua giao quyền cho VM. (Lệ Thần Trần Trọng Kim, sđd. tt. 92-93.) Bên cạnh vua Bảo Đại, lúc đó viên tổng lý văn phòng (thư ký của vua) là Phạm Khắc Hòe đã trở mặt với hoàng gia, ngầm theo VM, hết sức hù dọa nhà vua và hoàng gia. Vua Bảo Đại cảm thấy vừa lo sợ, vừa cô đơn và bị bỏ rơi (Bảo Đại, sđd. tr. 184.)

Vua Bảo Đại cô thế, lại không biết lai lịch HCM và VM. Cũng như nhiều người Việt lúc đó, nhà vua lầm tưởng rằng HCM và VM là những người yêu nước, được quần chúng ủng hộ, và được cả các nước Đồng minh giúp đỡ (theo lời tuyên truyền của VM), nên cuối cùng nhà vua quyết định từ chức, giao quyền cho HCM và VM.

Ngày 25-8-1945, vua Bảo Đại tuyên chiếu thoái vị và thông báo cho đại diện VM ở Huế biết. Chiếu thoái vị được niêm yết ở Phu Văn Lâu, nơi công bố các chiếu dụ, mệnh lệnh của nhà vua, kết quả thi Hội và thi Đình. Sau đó lễ thoái vị diễn ra ngày 30-8 tại Ngọ môn, Huế. (Ngọ môn là cửa chính nhìn về hướng nam của hoàng thành.) Nhà vua trao bảo kiếm và quốc ấn, tượng trưng uy quyền của triều đình nhà Nguyễn, cho phái đoàn đại diện VM từ Hà Nội vào là Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng và Cù Huy Cận. Chiếc ấn mà vua Bảo Đại trao lúc đó là “Hoàng đế chi bảo”, bằng vàng ròng, nặng khoảng 10,5 Kg. (Võ Hương An, Trong ngõ ngách sử Việt, California: Nxb. Nam Việt, 2014, tr. 171.)

4. Lời thề bốn không

Sau lễ thoái vị của vua Bảo Đại tại Huế ngày 30-8, thì tại Hà Nội, HCM gấp rút ra mắt chính phủ lâm thời VNDCCH ngày 2-9-1945, tại bãi Cột Cờ (Rond point Puginier), mới được chính phủ TTK đổi tên thành công viên Ba Đình từ đầu tháng 8-1945. Hồ Chí Minh gấp rút ra mắt chính phủ mới nhằm tạo thế hợp pháp chính thống liên tục từ chế độ cũ qua chế độ mới. Hơn nữa, phải chăng HCM chọn ngày này vì 2-9, hiểu một nghĩa khác là ngày có 2 số 9, theo câu “cửu cửu càn khôn dĩ định” trong Sấm Trạng Trình?

Mở đầu buổi lễ, HCM đọc bản “Tuyên ngôn độc lập”, rồi HCM mạnh mẽ hô to các lời thề gồm có hai phần: “Lời thề của chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” và “Lời thề của Quốc dân”.

Sau đây là nguyên văn “Lời thề của chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa”: “Chúng tôi, Chính phủ Lâm thời của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, do Quốc dân đại biểu đại hội cử lên, xin thề rằng: Chúng tôi sẽ kiên quyết lĩnh đạo toàn dân giữ vững nền độc lập cho Tổ quốc và thực hiện bản chương trình của Việt Minh, đang mang lại tự do, hạnh phúc cho dân tộc. Trong lúc giữ nền độc lập, chúng tôi quyết vượt mọi khó khăn, nguy hiểm dù phải hy sinh tính mệnh cũng không từ.”

Lời thề của Quốc dân, cũng do Hồ Chí Minh đọc: “Chúng tôi, toàn thể dân Việt Nam xin thề: kiên quyết một lòng ủng hộ Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, ủng hộ chủ tịch Hồ Chí Minh. Xin thề! Chúng tôi xin thề cùng chính phủ giữ quyền độc lập hoàn toàn cho Tổ quốc, chống mọi mưu mô xâm lược, dù có phải chết cũng cam lòng. Xin thề! Nếu Pháp đến xâm lăng lần nữa thì chúng tôi xin thề: không đi lính cho Pháp, không làm việc cho Pháp, không bán lương thực cho Pháp, không đưa đường cho Pháp.” (Tô Tử Hạ và nhiều tác giả, 60 năm chính phủ Việt Nam [sách song ngữ Việt-Anh], Hà Nội: Nxb.Thông Tấn, 2005, tr. 26.)

Tuy thề thốt quyết tử, “chúng tôi quyết vượt mọi khó khăn, nguy hiểm dù phải hy sinh tính mệnh cũng không từ”, và cương quyết thực hiện bốn không: “không đi lính cho Pháp, không làm việc cho Pháp, không bán lương thực cho Pháp, không đưa đường cho Pháp”, nhưng khi Pháp đem quân từ Nam ra Bắc đe dọa, HCM sợ Pháp tấn công và lật đổ thì HCM, VM và đảng CS chẳng những mất độc quyền chính trị, mà có thể còn bị tiêu diệt, nên HCM vội vàng nuốt lời thề.

Nguyên theo tối hậu thư Potsdam, sau khi Nhật đầu hàng, quân Trung Hoa Quốc Dân Đảng vào Đông Dương giải giới quân đội Nhật ở bắc vĩ tuyến 16, còn quân Anh giải giới quân đội Nhật ở nam vĩ tuyến 16. Pháp lợi dụng thời cơ tái chiếm Đông Dương.

Đầu tháng 10-1945, chính phủ Pháp bổ nhiệm Jean Saiteny làm Đại diện chính phủ Pháp tại Bắc Kỳ. Sainteny gặp HCM lần đầu ngày 15-10-1945 và lần thứ hai ngày 1-12-1945. Sau hai cuộc gặp mặt, người Pháp bí mật giao cho HCM ngày 7-12-1945, một bản dự thảo hiệp ước giữa hai bên để VM nghiên cứu.

Trong khi đó, đô đốc D'Argenlieu, cao uỷ Pháp tại Đông Dương, đến Sài Gòn ngày 30-10-1945. Ngày 27-2-1946, đô đốc D'Argenlieu phát động cuộc hành quân Bentré, chuyển 21,000 quân từ miền Nam ra Hải Phòng, để tái chiếm Bắc Kỳ. Pháp muốn sớm chiếm lại Bắc Kỳ trước khi nhà cầm quyền VM được củng cố và trước khi mùa mưa đến ở đất Bắc từ tháng 5 hằng năm. (Stein Tonnesson, “La paix imposée par la Chine: l'accord Franco-vietnamien du 6 mars 1946”, Les Cahiers de l'Institut D'Histoire Du Temps Présent, Paris: Charles-Robert Ageron và Philippe Devillers chủ biên, số 34, tháng 6-1996, tt. 36-38.)

Tại Hà Nội, được tin hạm đội Pháp xuất hiện ở ngoài khơi Hải Phòng vào chiều ngày 5-3-1946 và chuẩn bị đổ bộ vào sáng ngày hôm sau (6-3-1946), HCM vội báo cho Jean Sainteny biết là ông ta đồng ý ký hiệp ước với Pháp, mà Pháp đã bí mật giao bản dự thảo ngày 7-12-1945 (đã viết ở trên).

Vào chiều ngày 6-3-1946, tại số 38 đường Lý Thái Tổ, Hà Nội, với tư cách chủ tịch chính phủ Liên hiệp kháng chiến, HCM ký thỏa ước Sơ bộ với Pháp. Cùng ký văn kiện nầy, ngoài HCM, còn có Vũ Hồng Khanh (lãnh tụ VNQDĐ), phó chủ tịch Quân sự ủy viên hội của chính phủ. Đại diện chính phủ Pháp là Jean Sainteny.

Thỏa ước nầy gồm 2 điều chính: 1) Pháp thừa nhận Việt Nam là một quốc gia tự do (état libre), có chính phủ riêng, nghị viện riêng và tài chính riêng trong Liên Bang Đông Dương và trong Liên Hiệp Pháp. 2) Việt Nam sẵn sàng tiếp đón quân đội Pháp đến thay thế quân đội Trung Hoa để giải giáp quân đội Nhật. Tuy HCM ký thỏa ước Sơ bộ ngày 6-3-1946 với Jean Sainteny ở Hà Nội, nhưng Jean Cédile, đại diện Pháp tại nam Đông Dương, tuyên bố rằng thỏa ước nầy chỉ có giá trị ở miền bắc, và không có giá trị ở miền nam vĩ tuyến 16. (Chính Đạo, Việt Nam niên biểu 1939-1975, tập A: 1939-1946, Houston: Nxb Văn Hóa, 1996, tr. 319.) Điều đó có nghĩa là lúc đó, Pháp chưa chịu để miền Nam tái sáp nhập vào Việt Nam.

Ngoài ra, bên cạnh thỏa ước Sơ bộ, cũng trong ngày 6-3-1946, hai bên ký một phụ ước quân sự, minh định hoạt động quân đội mỗi bên. Theo điều 1 của phụ ước nầy, VM đồng ý để quân đội Pháp thay quân đội Trung Hoa ở phía bắc vĩ tuyến 16, nghĩa là quân đội Trung Hoa sẽ rời khỏi Việt Nam, dầu Việt Nam không ký kết thỏa ước với Trung Hoa. Lực lượng Pháp lên đến 15,000 quân.

Kết luận

Như thế HCM và VM không chống Pháp khi Pháp trở lại Việt Nam như lời thề mạnh mẽ ngày 2-9, mà VM lại ký thỏa ước hợp thức hóa chính thức sự hiện diện của quân đội Pháp tại Việt Nam. Hơn nữa, sợ thỏa ước Sơ bộ ngày 6-3-1946 chưa đủ hiệu lực, cần phải được một cấp bậc cao hơn thừa nhận, HCM còn qua tận Paris, xin ký thêm bản Tạm ước hay Đường lối sống (Modus Vivendi) ngày 14-9-1946 với bộ trưởng Pháp quốc Hải ngoại là Marius Moutet, gồm 14 điều khoản, theo đó VM để cho Pháp tái tục các hoạt động kinh tế, tài chính, giao thông, văn hóa trên toàn quốc Việt Nam, hai bên sẽ nghiên cứu về tương lai ngoại giao Việt Nam và vấn đề Nam Kỳ,. Bản Tạm ước có hiệu lực kể từ 30-10-1946.

Những hành động nầy phản bội hoàn toàn lời thề bốn không của HCM, quyết liệt chống Pháp trong buổi lễ trình diện chính phủ vào ngày 2-9-1945. Từ không nay thành có; chẳng những bốn có, mà Pháp có tất cả những điều Pháp muốn khi trở lại Việt Nam. Hồ Chí Minh đúng là tên ĐẠI BỊP CỦA LỊCH SỬ VIỆT NAM. Bịp ngay cả trong lời thề thiêng liêng trước Dân tộc và Tổ quốc.

(Toronto, 02-09-2015)