Tuesday, May 23, 2017

Cờ Vàng và Formosa (tiếp theo)


       ... Bước ngoặt của việc tôn vinh cờ vàng là ngày 09/4/2017, tại xã Kỳ Hà, huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh đã có 4-5 lá cờ vàng tung bay trong cuộc biểu tình của người dân yêu cầu đền bù thỏa đáng, đóng cửa Formosa và làm sạch môi trường. Đây là sự kiện lớn, chấn động vì cờ vàng xuất hiện 4 đến 5 chiếc, lại trong một cuộc biểu tình, chống Formosa cũng chính là chống lại sự bao che cho Formosa, tức là chống lại chế độ. Chính sự kiện này đã tăng thêm sức mạnh cho những người yêu lá cờ vàng trong nhiều ngày tháng tiếp theo. Sự kiện ông Vương Văn Thả, tín đồ Phật giáo Hòa Hảo đã công khai treo lá cờ trong các cuộc livestream trên facebooks đã dẫn tới sự kiện công an, côn đồ bao vây, vây hãm gia đình ông gần một tháng. Ngày 18/5 vừa qua, ông Vương Văn Thả đã bị nhà cầm quyền bắt giam sau gần một tháng phong tỏa, cô lập gia đình ông. Đối với ông Vương Văn Thả, ngoài sự việc treo lá cờ vàng, ông còn dùng loa công suất lớn để tại nhà tố cáo, lên án nhà cầm quyền Việt Nam đàn áp tôn giáo và đàn áp người dân. Điều này có nghĩa, việc treo cờ vàng của ông cũng chỉ là một yếu tố trong việc ông và gia đình bị phong tỏa, và cuối cùng là ông bị bắt.
       Hai sự việc đơn thuần liên quan tới lá cờ vàng, và hành xử của nhà cầm quyền Việt Nam cho thấy rõ một quyết tâm dập tắt phong trào tôn vinh lá cờ vàng của người dân. Đó là sự kiện anh Nguyễn Hữu Tấn bị giết, bị cắt cổ chết tại đồn công an ở Vĩnh Long, và sự kiện công an cùng côn đồ đập phá nhà anh Nguyễn Tăng Vĩnh Phú ở phường Tân Chánh Hiệp, quận 12, Sài Gòn. Trước hết, chúng ta cần hiểu rõ một điều. Việc tôn vinh, treo lá cờ vàng tại nhà, hoặc cầm đi quay phim chụp ảnh không hề vi phạm một điều khoản nào trong tất cả luật pháp hiện hành ở Việt Nam. Trong luật pháp Việt Nam hiện nay, không hề có điều nào có thể truy tố, khép tội người dân treo hoặc cầm cờ vàng. Nhà cầm quyền không thể dùng việc bắt bớ, khởi tố để đe dọa để từ đó dập tắt phong trào tôn vinh lá cờ vàng. Chính vì vậy, họ đã phải dùng tới những biện pháp khác, đó là biện pháp vô cùng dã man, tàn bạo, đó là giết người để đe dọa những người khác hành động trong việc tôn vinh lá cờ vàng. Sự kiện về cái chết của anh Nguyễn Hữu Tấn đã chứng minh cho lập luận này.
       Vào ngày 30/4 vừa qua, tại thị xã Bình Minh và huyện Tam Bình của tỉnh Vĩnh Long xuất hiện nhiều lá cờ vàng ba sọc đỏ treo ở một số cột điện. Ngày 02/5 anh Nguyễn Hữu tấn bị bắt, với một lực lượng công an, theo gia đình cho biết, khoảng 200 người. Đây là số lượng người đông một cách bất thường, bởi vì những người đấu tranh lâu năm và có tiếng, số người đến bắt cũng chỉ vài ba chục người là nhiều. Số người nhiều bất thường đến bắt anh Nguyễn Hữu Tấn như vậy chỉ có thể lý giải bằng hai nguyên nhân: áp lực của việc phải tìm ra người, nhóm người treo cờ vàng ngày 30/4 đối với công an Vĩnh Long là rất lớn, và việc sử dụng số lượng người đông như vậy chính là để uy hiếp tinh thần người bị bắt ban đầu. Khi đã bắt anh Nguyễn Hữu Tấn vào đồn công an, việc tra tấn để tìm ra đầu mối, tìm ra người treo cờ ngày 30/4 là đương nhiên. Việc tra tấn dẫn đến cái chết của anh Nguyễn Hữu Tấn có thể có hai lý giải sau đây. Thứ nhất, với áp lực phải tìm ra người, nhóm treo cờ vàng ngày 30/4 quá lớn với công an Vĩnh Long dẫn tới việc tra tấn quá tay (trường hợp anh Tấn không liên quan việc treo cờ, hoặc có liên quan nhưng bản lĩnh không nhận) đưa tới cái chết cho anh Tấn. Khi anh Tấn đã chết trong tình huống này (không cố tình giết), an ninh đã biến cái chết của anh Tấn thành sự ám ảnh, răn đe những người có ý định tôn vinh lá cờ vàng, bằng cách cho cắt cổ anh Tấn và khâu lại. Thứ hai, ngay từ đầu, công an đã có mục tiêu và mục đích giết anh Nguyễn Hữu Tấn để tạo ra nỗi khiếp sợ cho những người còn có ý định treo, tôn vinh lá cờ vàng. Có lẽ chỉ có công an, an ninh liên quan vụ này mới có thể trả lời được câu hỏi này. Việc giết, hoặc sử dụng cái chết của anh Nguyễn Hữu Tấn trong việc đe dọa, tạo ra nỗi sợ hãi cho người dân là một sự thật, một chiến lược dập tắt phong trào tôn vinh lá cờ vàng ba sọc đỏ mới manh nha và có dấu hiệu bùng phát. Nếu không phải đó là một động thái đe dọa, răn đe “giết gà dọa khỉ”, “giết một người, vạn người sợ” thì không ai có thể giải thích nổi cái chết thảm khốc và oan khuất của anh Nguyễn Hữu Tấn vừa qua. Nhiều người đã thắc mắc, nếu công an muốn giết người thì quá đơn giản, có thể có nhiều cách mà không ai biết, hoặc chứng minh được công an, an ninh liên quan đến cái chết của họ. Nhưng tại sao với việc sử dụng một lực lượng công an lớn đến như vậy, bắt người công khai lại để xảy ra một cái chết cực kỳ dã man, tàn bạo như vậy? Chỉ có thể lý giải, công an, an ninh có chủ trương thực hiện một sự kiện như vậy để tạo ra nỗi sợ hãi trong dân chúng, nhằm dập tắt phong trào tôn vinh lá cờ vàng mà thôi.
       Sự kiện anh Nguyễn Tăng Vĩnh Phú, ở phường Tân Chánh Hiệp, quận 12, Sài Gòn đã sơn cờ vàng ba sọc đỏ ở cửa cuốn của gia đình, công an đã công khai dẫn côn đồ đập phá cửa hàng và gia đình anh đồng thời áp lực để anh xóa lá cờ, cuối cùng phải sang nhượng lại cửa hàng, cửa tiệm tạo mẫu tóc của mình. Sự kiện này, công khai đập phá nhà dân, bằng chính công an và côn đồ, ép người dân mất nghề, mất việc và thu nhập càng chứng tỏ quyết tâm dập tắt phong trào tôn vinh lá cờ vàng ba sọc đỏ của nhà cầm quyền Việt Nam.
       2/ Về mục tiêu dập tắt phong trào phản kháng formosa
       Thời gian vừa qua cũng là thời điểm nhà cầm quyền Việt Nam tập trung cho mục tiêu dập tắt phong trào phản kháng với vấn đề Formosa. Như các bài viết phân tích trước đây, nhà cầm quyền hơn ai hết hiểu rõ vấn đề ô nhiễm môi trường biển miền trung do công ty Formosa gây ra là vấn đề nan giải, không thể giải quyết được theo cách thức truyền thống, thông thường. Tức là việc điều tra, khảo sát công khai, minh bạch để xử lý vấn đề ô nhiễm môi trường, làm sạch môi trường và truy tố  công ty Formosa là không thể thực hiện được. Với việc Formosa đã có đầy đủ các văn bản pháp lý mà nhà cầm quyền Việt Nam cấp, với việc lợi ích nhóm (tham nhũng, nhận hối lộ) từ các cấp cao nhất, và sức ép của Trung Quốc, nhà cầm quyền đã lựa chọn việc bảo vệ Formosa và đương đầu với sự phẫn nộ của dân chúng. Để thực hiện những tiếng nói phản kháng trong vụ việc Formosa, nhà cầm quyền đã làm được khá nhiều, và rất bài bản.
       Việc đầu tiên là họ vô hiệu hóa hoạt động của các hội, nhóm bằng cách đánh phá bên trong lẫn bên ngoài, để các hội nhóm vẫn còn tên gọi, nhưng không còn nhiều khả năng làm việc chung. Các hội nhóm vẫn còn, vẫn hoạt động nhưng chủ yếu dựa trên các hoạt động cá nhân, sự phối kết hợp, sức mạnh thực sự của tổ chức hầu như không còn nữa. Bước tiếp theo, nhà cầm quyền đã triệt để đàn áp các cuộc biểu tình ở Hà Nội và Sài Gòn, sử dụng cả những quân bài hai mang, dân chủ cuội để gây mâu thuẫn ngay từ việc hưởng ứng lời kêu gọi xuống đường. Nhưng điểm nhấn trong việc này vẫn là sự đàn áp dữ dội, canh nhà người đấu tranh, và bắt bớ, đánh đập dã man người biểu tình. Như vậy, với cách thức này, nhà cầm quyền đã hạn chế tối đa sự ủng hộ, cổ vũ và hiệp thông của các trung tâm lớn đối với cuộc đấu tranh của người dân vì môi trường. Về cơ bản, họ đã khoanh vùng được cuộc đấu tranh của người dân miền trung trong phạm vi khu vực để xử lý. Nhưng điểm nóng nhất, mấu chốt nhất chính là người dân miền trung, phần lớn là những giáo dân Công giáo, được sự ủng hộ và dẫn dắt của các linh mục. Những cuộc đấu tranh của người dân miền trung chưa lúc nào ngơi nghỉ, và bất cứ khi nào người dân lên tiếng, cũng đều là số lượng người rất lớn, mặc dù chưa phải tất cả....
       (còn nữa)
Hà Nội, ngày 24/5/2017
N.V.B

Việt Nam, Hoa Kỳ và TPP

 Nguyễn-Xuân Nghĩa, RFA 2017-05-23  
Bộ trưởng Bộ công thương Trần Tuấn Anh phát biểu trong một cuộc họp báo sau cuộc họp TPP tổ chức bên lề Hội nghị APEC tại Hà Nội ngày 21 tháng 5 năm 2017.
Bộ trưởng Bộ công thương Trần Tuấn Anh phát biểu trong một cuộc họp báo sau cuộc họp TPP tổ chức bên lề Hội nghị APEC tại Hà Nội ngày 21 tháng 5 năm 2017.  AFP photo
Việt Nam đang ở giữa nhiều chọn lựa quan trọng về chiến lược kinh tế đối ngoại, khi tình hình thế giới lại có những thay đổi lớn. Điển hình là Hiệp ước Đối tác Xuyên Thái Bình Dương TPP không có Hoa Kỳ và việc thương thuyết một hiệp định thương mại song phương với nước Mỹ.
Nguyên Lam: Việt Nam là thành viên của Hiệp hội ASEAN gồm 10 quốc gia Đông Nam Á và năm nay còn đăng cai tổ chức các hội nghị của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Á Châu Thái Bình Dương gọi là APEC, với Thượng đỉnh sẽ được triệu tập tại Hà Nội vào tháng 11 này. Tuần qua, hội nghị các Bộ trưởng Thương mại của Diễn đàn APEC tại Hà Nội khiến dư luận chú ý đến quan điểm của 11 nước về Hiệp ước Đối tác Xuyên Thái Bình Dương TPP sau khi Hoa Kỳ triệt thoái. Rồi tuần này, Thủ tướng Việt Nam sẽ là người đầu tiên trong Hiệp hội ASEAN thăm viếng Hoa Kỳ và có thể đàm phán một Hiệp định Tự do Thương mại Song phương với nước Mỹ. Thưa ông, trong bối cảnh đó, người ta có thể nêu câu hỏi về những lợi hại của Việt Nam trong chiến lược kinh tế đối ngoại khi Chính quyền Donald Trump đã có những chủ trương khác về ngoại thương nên đã rút khỏi Hiệp ước TPP?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Nói về bối cảnh tôi xin được nhắc lại một số chuyển động thì ta mới cân nhắc được những lợi hại trong điều kiện mới. Trước hết, Hiệp ước TPP mất bảy năm và 20 lần hội họp giữa 12 nước mới hoàn thành vào cuối năm 2015. Nhưng, dư luận Mỹ đã đổi ý về sự lợi hại nên hết ủng hộ các thỏa thuận trong Hiệp ước. Vì vậy đa số dân biểu nghị sĩ bên đảng Dân Chủ trong Quốc hội đã chống TPP và nhiều đảng viên Cộng Hòa cũng tỏ vẻ hoài nghi nên dù Tổng thống Barack Obama đích thân vận động vẫn không dám đưa Hiệp ước cho Quốc hội khóa 114 biểu quyết vì thể nào cũng bị bác. Trong cuộc tranh cử tổng thống, hai ứng cử viên dẫn đầu là bà Hillary Clinton bên Dân Chủ và ông Donald Trump bên Cộng Hòa đều phản bác nhiều quy định của TPP. Khi đắc cử và nhậm chức, Tổng thống Trump chỉ hợp thức hóa một thực tế mới của chính trường Hoa Kỳ là rút khỏi Hiệp ước TPP. Từ đấy, bài toán còn lại là 11 nước kia có nên tiếp tục xúc tiến Hiệp ước hay không? Bài toán ấy đặc biệt quan trọng cho Việt Nam vì cùng với Malaysia là hai nước được hưởng lợi nhiều nhất nhờ Hiệp ước này.
Nguyên Lam: Thưa ông, cũng nói về bối cảnh thì sau khi Hoa Kỳ triệt thoái thì Trung Quốc lại thúc đẩy một sáng kiến của họ từ năm 2012 là kêu gọi 16 quốc gia gồm 10 nước Hội viên ASEAN cùng Trung Quốc, Nhật Bản, Nam Hàn, Ấn Độ, Úc và New Zealand hoàn thành một hiệp định tự do thương mại gọi là “Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực” hay RCEP. Là một thành viên của Hiệp hội ASEAN, Việt Nam nên cân nhắc thế nào về giải pháp đó?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Khi đưa ra sáng kiến này, Bắc Kinh tưởng sẽ hoàn tất vào năm 2015 mà nay vẫn chưa xong sau kỳ họp thứ 18 khá gay go vào tuần qua tại Philippines. Người ta cứ cho là Hiệp định RCEP này không đòi hỏi nhiều cam kết phức tạp như Hiệp ước TPP nên hy vọng thành hình sớm hơn để tiến tới chế độ tự do thương mại cho cả khu vực Á Châu Thái Bình Dương bao gồm 21 thành viên của Diễn đàn APEC. Sự thể lại chẳng lạc quan như vậy không chỉ vì phản ứng bảo hộ mậu dịch của Ấn Độ hay hồ sơ rắc rối về quyền sở hữu trí tuệ.
Sự thật là nhiều quốc gia ngày nay lại hoài nghi mọi cam kết quốc tế về tự do mậu dịch và trở về xu hướng đàm phán song phương. Người ta quá chú ý tới quan điểm của Mỹ trong Hiệp ước TPP với các nước Thái Bình Dương mà quên rằng một hiệp ước tương tự của Hoa Kỳ với các nước Âu Châu là Hiệp định Đối tác Thương mại và Đầu tư Xuyên Đại Tây Dương hay TTIP cũng bị khựng và lần này là do sự chống đối của nhiều nước trong Liên Hiệp Âu Châu. Trường hợp đó cũng xảy ra với hiệp ước tự do thương mại CETA giữa Canada và Âu Châu. Thậm chí cơ chế Liên Âu còn mặc nhiên trả lại quyền quyết định về tự do thương mại cho từng nước hội viên. Trong khung cảnh đó, Việt Nam cũng nên suy nghĩ lại về quyền quyết định của mình.
Nguyên Lam: Theo ông thì Việt Nam nên suy nghĩ lại ra sao, căn cứ trên những yếu tố nào?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Nói chung thì chế độ tự do thương mại và đầu tư giữa các nước là điều có lợi về kinh tế như ta đã thấy tại Việt Nam sau khi chấm dứt chính sách ngăn sông cấm chợ thời bao cấp và mở ra thế giới bên ngoài qua hai đợt đổi mới. Nhưng về dài thì lợi ích kinh tế nhờ tự do trao đổi lại phân phối không đều và gây thiệt hại cho nhiều thành phần dân chúng. Trong các nước dân chủ thì phản ứng của các thành phần bị thiệt hại này mới dẫn tới làn sóng chống đối như ta đang chứng kiến tại Mỹ và Âu Châu. Khi ấy, lãnh đạo các nước nên nghĩ sao về sự lợi hại của tự do thương mại?
Tôi cho là ta nên nhìn từ dưới lên, từ các thành phần nghèo khốn lên giới trung lưu khá giả ở thành thị để khỏi gây ra những dị biệt ngày một lớn giữa thành phần khá giả và hướng ngoại ở trên với những người ở dưới không theo kịp nhịp độ của cạnh tranh. Vì vậy, vấn đề không thuần túy là kinh tế mà còn có kích thước xã hội. Thứ hai, khi mở cửa ra ngoài thì lãnh đạo phải ưu tiên lo cho đa số ở dưới và tạo điều kiện cải tiến khả năng lao động với năng suất cao hơn trong một môi trường cạnh tranh bình đẳng và môi sinh trong lành hơn. Theo tinh thần đó thì Hiệp ước TPP có yêu cầu về chế độ lao động và bảo vệ môi sinh thật ra có lợi mà Việt Nam nên áp dụng. Thứ ba, ở bậc cao hơn thì lãnh đạo cũng phải cân nhắc hai vế tư doanh và quốc doanh trong ý hướng phát triển khả năng kinh tế của tư doanh thay vì chỉ bảo vệ ưu thế của quốc doanh. Khả năng cạnh tranh của tư doanh mới là sức mạnh bền vững và đi theo con đường của Bắc Kinh với vai trò quá lớn của các tập đoàn kinh tế nhà nước là điều bất lợi về dài.
Nếu Việt Nam thiên về Mỹ ...
000_APW2001121024945-400.jpg
Bộ trưởng Thương mại Vũ Khoan (trái) và Đại diện Thương mại Hoa Kỳ Robert Zoellick ký Hiệp định Thương mại Song phương ngày 10 tháng 12 năm 2001 tại Nhà Trắng ở Washington, DC. AFP photo
Nguyên Lam: Thế còn với Hoa Kỳ thì sao, thưa ông?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Ta không quên rằng qua năm đời Tổng thống, từ ông Ronald Reagan tới Barack Obma, Hoa Kỳ có hiệp ước tự do thương mại song phương với hơn một chục quốc gia và nay sẽ thương thuyết lại với từng nước đã ký hiệp ước đa phương, như Hiệp ước NAFTA với hai nước Bắc Mỹ. Nếu Việt Nam thông qua Hiệp ước TPP với 11 quốc gia còn lại thì chẳng những có lợi qua việc buôn bán với nhóm đó mà lại có thế mạnh khi sẽ đàm phán với Hoa Kỳ là điều Thủ tướng của Hà Nội có thể nêu ra khi đến Hoa Kỳ vào tuần tới.
Khi đó, kinh nghiệm thương thuyết Hiệp ước TPP và cả Hiệp định Thương mại Song phương với Mỹ từ năm 2000 là những bài học quý giá vì cho thấy nhiều vấn đề tồn đọng giữa đôi bên, như quyền lợi giới lao động hay luật bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, là những điều vẫn là thời sự. Chúng ta cũng không quên vai trò quan trọng của Quốc hội Hoa Kỳ, nơi mà tình trạng chà đạp nhân quyền và đàn áp dân chủ tại Việt Nam khiến Hà Nội không chỉ gặp trở ngại từ Hành pháp mà còn bị nhiều dân biểu nghị sĩ Mỹ chống đối. Ngược lại, việc muốn tham gia “Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực” RCEP do Bắc Kinh đề xướng chỉ chứng tỏ kinh tế Việt Nam vẫn là vệ tinh của Trung Quốc để xâm nhập thị trường Hoa Kỳ nên sẽ gặp khó ở cả hai đầu.
Nguyên Lam: Nguyên Lam xin đề nghị ông giải thích cho thế nào là gặp khó ở cả hai đầu?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Không nói về hồ sơ an ninh và tranh chấp về chủ quyền với Trung Quốc trên vùng biển Đông Nam Á, là điều Chính quyền Donald Trump rất quan tâm mà nếu chỉ nhìn vào hồ sơ kinh tế thì Việt Nam đạt xuất siêu bao nhiêu với Hoa Kỳ lại bị nhập siêu bấy nhiêu với Trung Quốc. Thực tế thì Việt Nam mua nguyên nhiên vật liệu và thiết bị của Trung Quốc để làm gia công cho họ và bán hàng Tầu dưới thương hiệu Việt Nam vào thị trường Âu-Mỹ. Hiệp ước TPP là cơ hội thoát Tầu và tìm đầu ra ở các thị trường lớn khác. Nay dù hết có Mỹ thì cơ hội đó vẫn còn với các nước kia. Nhưng nếu lại thiên về giải pháp của Bắc Kinh thì Việt Nam khó đạt hiệp ước song phương với Mỹ. Người dân Mỹ, và Quốc hội Hoa Kỳ không hiểu vì sao lãnh đạo Hà Nội kiếm lợi nhờ làm ăn với Trung Quốc mà lại mong Hoa Kỳ bảo vệ an ninh của Việt Nam ngoài vùng biển Đông Nam Á trước sức ép của Trung Quốc. Trong hiện tại, Quốc hội Mỹ đang quan tâm đến sự bành trướng của Bắc Kinh và muốn biết là Việt Nam đứng ở đâu.
Nhìn vào dài hạn, từ nhiều năm nay khi Trung Quốc tiến lên trình độ sản xuất cao hơn với các mặt hàng tinh vi thì Việt Nam trở thành nơi có tiềm năng thay thế vai trò gọi là “công xưởng toàn cầu” của Trung Quốc nên đã tiếp nhận đầu tư của các tập đoàn tiên tiến, như Samsung của Nam Hàn hay Intel của Mỹ. Ưu tiên của Việt Nam là nâng cấp giáo dục và đào tạo để thêm lực lượng lao động có tay nghề khả dĩ khai thác được cơ hội mới và cải thiện được cuộc sống cho nhiều người. Một hiệp ước song phương với Hoa Kỳ sẽ đáp ứng yêu cầu đó.
Nguyên Lam: Câu hỏi cuối, thưa ông, Việt Nam gặp rủi ro gì khi thiên về quan hệ kinh tế với Hoa Kỳ và tách dần khỏi ảnh hưởng của Trung Quốc?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Bài học từ 1.9.7.5 cho thấy Việt Nam không gặp rủi ro là bị Hoa Kỳ xâm lăng và chiếm đóng. Bài học từ 1.9.9.5 cho thấy Việt Nam có lợi về kinh tế sau khi tái lập bang giao với nước Mỹ. Ngược lại, Việt Nam đã gặp rủi ro lớn với Trung Quốc từ mấy chục năm nay và càng ngày càng mất quyền chủ động vì sức ép muôn mặt từ Bắc Kinh. Nếu tiếp tục chiều hướng này thì chủ quyền quốc gia cũng chẳng còn và lãnh thổ bên trong lại bị tàn phá vì hiệu ứng tai hại của Trung Quốc. Nhưng chính là chiến lược bành trướng của Bắc Kinh lại khiến cả thế giới lo ngại và Việt Nam hết còn đơn độc đứng trên tuyến đầu.
Vào cảnh ngộ đó, Việt Nam không nên là vùng hỏa tuyến của các nước chống Tầu tại Đông Á nhưng vẫn nên mở rộng khả năng chọn lựa để ra khỏi thế kẹt thành hình từ mấy chục năm qua. Lĩnh vực kinh tế hay thương mại là sự chọn lựa tương đối an toàn hơn cả mà lại có lợi cho người dân. Là thành viên của Hiệp ước TPP với 11 nước và có hiệp định song phương với Hoa Kỳ, Việt Nam sẽ thoát dần khỏi bóng rợp của Trung Quốc. Quan trọng hơn cả là lãnh đạo Hà Nội nên hiểu ra điều ấy mà thay đổi cách suy nghĩ khi nhiều quốc gia khác cũng đang đòi lại quyền đàm phán và quyết định về quyền lợi của quốc gia. Thế giới đang có một đổi thay lớn khi nước nào cũng coi quyền lợi của quốc gia là tối thượng thì chúng ta cũng phải thay đổi cách suy nghĩ và hành xử vì quyền lợi của mình chứ đừng lụy vào một ý thức hệ viển vông lạc hậu. Nói vắn tắt lại thì Việt Nam nên tham gia Hiệp ước TPP, tự chuẩn bị cho thế hợp tác cao hơn và phức tạp hơn bằng những cải cách sâu rộng ở bên trong cho cả xã hội.
Nguyên Lam: Ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do cùng Nguyên Lam xin cảm tạ kinh tế gia Nguyễn-Xuân Nghĩa về cuộc phỏng vấn kỳ này.

Nợ xấu và môi trường ô nhiễm làm chậm phát triển kinh tế

Kính Hòa, phóng viên RFA 2017-05-23  
Các khách sạn mới đang được xây dựng trên sườn đồi ở khu du lịch Sapa hôm 1/10/2016.
Các khách sạn mới đang được xây dựng trên sườn đồi ở khu du lịch Sapa hôm 1/10/2016.  AFP photo
Báo cáo của Chính phủ Việt Nam trình lên Quốc Hội nhân kỳ họp quốc hội đang diễn ra cho thấy tỉ lệ tăng trưởng tổng sản lượng quốc dân (GDP) quý đầu năm 2017 chỉ đạt 5.1% thấp hơn so với con số 5,48% cùng kỳ năm ngoái. Con số này làm một số chuyên gia và đại biểu quốc hội lo ngại về khả năng Việt Nam sẽ đạt được mức tăng trưởng 6.7% như mục tiêu đã đặt ra cho cả năm.
Báo cáo này cũng cho biết có đến 11 chỉ tiêu trong tổng số 13 chỉ tiêu phát triển kinh tế xã hội lại đạt và vượt yêu cầu. Chuyên gia kinh tế Việt Nam cho rằng yếu tố nợ xấu ở các ngân hàng, một trong những trọng tâm được bàn thảo trong quốc hội lần này, là một trong những yếu tố làm chậm sự tăng trưởng kinh tế.
Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu, một chuyên gia về ngân hàng đang làm việc tại Việt Nam cho biết Việc cải tiến và cải tổ ngành ngân hàng là việc làm tất yếu để ngành ngân hàng phát triển trong sự ổn định và vững mạnh. Tôi nghĩ rằng hiện tại Chính phủ đang trình Quốc hội xét dự thảo tái tổ chức ngân hàng yếu kém và xử lý nợ xấu, tôi nghĩ rằng đây là bước rất quan trọng để cải tiến hệ thống ngân hàng.
Kính Hòa: Trong năm 2017 và 2018, vấn đề nợ xấu và nợ công nó có đe dọa gì không đối với nền kinh tế Việt Nam?
Việc cải tiến và cải tổ ngành ngân hàng là việc làm tất yếu để ngành ngân hàng phát triển trong sự ổn định và vững mạnh.
- Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu
Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu: Nếu dự thảo mà Chính phủ đang trình Quốc hội về tái tổ chức các ngân hàng yếu kém và xử lý nợ xấu, được thông qua, thì đây là một điểm quan trọng, một bước quan trọng trong vấn đề tổ chức lại hệ thống ngân hàng Việt Nam, và việc thi hành các quyết định, các qui định luật pháp một cách hiệu quả, nghiêm chỉnh, thì tôi nghĩ rằng 2017 sẽ là năm khởi đầu, của một tiến trình cải tổ ngân hàng một cách mạnh mẽ, và chắc chắn năm 2018 là một năm bản lề, có tác động tích cực cho nền kinh tế Việt Nam, vì chúng ta biết hệ thống tài chính Việt Nam dựa rất nhiều vào huy động vốn của hệ thống ngân hàng.
Kính Hòa: Ngoài ra ông có thấy những rủi ro gì cho hệ thống ngân hàng, mà những báo cáo tại Quốc hội cũng như báo chí chưa đề cập tới không?
Tiến sĩ Nguyễn Trí HiếuCó những điều Quốc Hội phải quan tâm, và trong hệ thống ngân hàng vẫn còn tồn tại nhiều rủi ro. Những rủi ro đó liên quan đến vấn đề nợ xấu chưa được giải quyết dứt điểm và ổn thỏa.
Như chúng ta biết là tỉ lệ nợ xấu hiện nay, theo một vài số liệu thì có thể lên đến 10% tổng dư nợ của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Ngay cả khi có những qui định về xử lý nợ xấu, thì việc thực hiện những qui định đó là một điều quan trọng. Dĩ nhiên, những vấn đề đó chúng ta chưa thể thấy trước được.
Kính Hòa: Trong báo cáo của Chính phủ trước Quốc hội thì nhiều chỉ tiêu tăng trưởng đạt yêu cầu, trong khi Tổng sản lượng quốc dân (GDP) lại giảm, ông giải thích điều đó như thế nào?
Tiến sĩ Nguyễn Trí HiếuMột trong những khó khăn của Việt Nam là các vấn đề về xuất khẩu, rồi đồng vốn. Doanh nghiệp Việt Nam dựa rất nhiều vào đồng vốn ngân hàng, mà trong lúc này vay vốn ngân hàng bị lãi suất cao. Các ngân hàng rất thận trọng trong chuyện cho vay. Thị trường liên ngân hàng thì ổn, nhưng các doanh nghiệp, đặc biệt các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì rất khó khăn trong vấn đề tiếp cận nguồn vốn của ngân hàng. Không giải quyết được khó khăn đó, không giải quyết được vốn cho các doanh nghiệp, đặc biệt vừa và nhỏ, thì nó sẽ tác động đến GDP.
Tôi nghĩ rằng vấn đề vốn cho nền kinh tế là điều quan trọng để tăng trưởng GDP 6,7% trong năm nay. Bên cạnh đó là vấn đề nợ xấu của các ngân hàng.
Đó là một trong những yếu tố đẩy lãi suất lên cao. Nếu nợ xấu còn lướn thì các ngân hàng phải dự phòng rủi ro. Đặc biệt nữa là vốn cho vay thì phải qua một vòng quay để trở lại ngân hàng, rồi ngân hàng sử dụng tiền đỏ trả lãi cho người gửi tiền, và cho vay tiếp tục. Nếu có nợ xấu thì dòng vốn đó ra đi mà không quay trở lại. Thế là các ngân hàng lại phải tiếp tục huy động vốn, để trả lãi cho khác hàng, làm cho lãi suất cao vì nhu cầu huy động vốn cáo.
Kính Hòa: Theo ông thiên tai và sự cố môi trường có ảnh hưởng đến sự sụt giảm GDP không?
Một môi trường sạch là điều kiện tiên quyết trong vấn đề phát triển kinh tế, đặc biệt là tại Việt Nam.
- Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu
Tiến sĩ Nguyễn Trí HiếuĐó là điều chắc chắn. Tôi nghĩ vấn đề thay đổi khí hậu và môi trường là những yếu tố ảnh hưởng GDP rất nhiều. Việc nhiễm mặn trong năm qua ở các tỉnh phía Nam ảnh hưởng đến mùa màng, đến nông nghiệp.
Năm qua chúng ta cũng thấy rất rõ tác hại về môi trường đối với nguồn hải sản như thế nào, nhất là Việt Nam có hàng ngàn cây số bờ biển. Một môi trường sạch là điều kiện tiên quyết trong vấn đề phát triển kinh tế, đặc biệt là tại Việt Nam.
Kính Hòa: Trong diễn đàn Quốc hội người ta cũng có sự nghi ngờ là tại sao GDP thấp mà các chỉ số kia lại cao. Người ta nghi ngờ cách tính toán. Ông có sự nghi ngờ đó không?
Tiến sĩ Nguyễn Trí HiếuTôi thì tôi không có cơ hổi để kiểm tra lại những số liệu thống kê chính xác đến mức độ nào, thành ra tôi không thể bình luận về vấn đề này. Nhưng cái việc mà GDP thấp hơn so với kỳ vọng trong quí đầu của năm 2017, thật ra GDP đó đã phản ánh đúng sự trì trệ của nền kinh tế trong quí đầu.
Theo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, tính đến đầu năm 2017, tổng nợ xấu của hệ thống ngân hàng Việt Nam là khoảng từ 20 đến 25 tỉ đô la Mỹ. Báo cáo của chính phủ trình trước quốc hội về nợ công cho biết hiện có 12 dự án của nhà nước đang bị thua lỗ, với tổng số vốn là hơn 63 ngàn tỉ đồng (tương đương 315 triệu đô la Mỹ), trong đó có 74,6% là vốn vay. Ước tính số nợ phải trả của riêng 12 dự án này là 55 ngàn tỷ đồng (tương đương 275 triệu đô la Mỹ).

Giảm biên chế: Một cách chống tham nhũng hiệu quả?

 Hòa Ái, phóng viên RFA 2017-05-23  
Một giáo viên ở Hà Nội dẫn các học sinh của mình qua đường.
  Một giáo viên ở Hà Nội dẫn các học sinh của mình qua đường.  AFP photo
Trong những ngày trung tuần tháng 5 năm 2017, thông tin Bộ Giáo dục-Đào tạo sẽ triển khai thí điểm không còn công chức, viên chức trong giáo viên để hướng tới xóa bỏ biên chế ngành giáo dục gây nhiều tranh cãi trong dư luận.
Xóa bỏ biên chế ngành giáo dục?
Với số lượng 11 triệu người hưởng lương và mang tính chất lương, theo số liệu của Viện Nghiên cứu kinh tế và chính sách (VEPR), là gánh nặng khổng lồ cho ngân sách nhà nước, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TW về tinh giản biên chế hồi tháng Tư năm 2015 được dư luận đặc biệt quan tâm.
Đài Á Châu Tự Do ghi nhận rất nhiều người dân lên tiếng ủng hộ Nghị quyết vừa nêu vì nó thể hiện quyết tâm của Chính phủ trong việc cơ cấu lại đội ngũ công viên chức một cách hiệu quả qua nhận định của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc khi ông còn trong cương vị Phó Thủ tướng rằng đội ngũ công chức của Việt Nam chỉ có khoảng 30% đáp ứng được nhu cầu công việc.
Tuy nhiên mới đây nhất, thông tin thông tin Bộ Giáo dục-Đào tạo sẽ triển khai thí điểm không còn công chức, viên chức trong giáo viên để hướng tới xóa bỏ biên chế ngành giáo dục lại gây nhiều tranh cãi trong dư luận.
Tại buổi làm việc, vào chiều ngày 20/05/2017, với Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ, liên quan Đề án đổi mới cơ chế quản lý, cơ chế tài chính, tổ chức lại hệ thống đơn vị sự nghiệp công lập của ngành giáo dục, Bộ trưởng Bộ Giáo dục-Đào tạo Phùng Xuân Nhạ cho biết Bộ tổ chức, sắp xếp lại nguồn nhân lực của ngành không phải mục tiêu chính là giảm biên chế hay tiết kiệm tiền mà nhằm để đào tạo theo hướng thị trường lao động với mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục. Trước đó vào ngày 18/05/2017, tại buổi tiếp xúc với cán bộ quản lý ngành giáo dục của thành phố Quy Nhơn và tỉnh Bình Định, ông Phùng Xuân Nhạ nói Bộ Giáo Dục sẽ có lộ trình để thực hiện từng bước việc chuyển đổi cơ chế định biên đối với giáo viên sang chế độ hợp đồng và có đãi ngộ lớn.
Có thể nói giảm biên chế lúc này là đánh trực tiếp vào giáo viên, là những người dân đen khó khăn nhất, bởi vì họ cũng chỉ là những người thụ động.
- Thầy giáo Đỗ Việt Khoa
Một số người cho rằng chủ trương này là đúng đắn và cấp thiết để chấn hưng nền giáo dục nước nhà. Họ lập luận với cách thức giáo viên ký hợp đồng giảng dạy được hưởng lương tùy theo trình độ và năng lực sẽ là động lực giúp cho các kỹ sư tâm hồn có sự sáng tạo và phát triển chuyên môn trong công việc “trồng người”. Bên cạnh đó, cũng có nhiều ý kiến chủ trương này có thể sẽ là tai họa nếu không được cân nhắc và nghiên cứu kỹ lưỡng vì những lãnh đạo phụ trách việc tuyển dụng mà thiếu sự công minh thì ngành giáo dục sẽ đối mặt với hậu quả khôn lường.
Chia sẻ với RFA, thầy giáo Đỗ Việt Khoa cho biết hiện trạng phân bổ giáo viên không đồng đều ở thành phố lớn và vùng sâu vùng xa rất khác biệt. Nơi thì quá thừa như tại thành phố Hà Nội, còn nơi thì lại thiết hụt giáo viên như ở khu vực miền núi. Thầy giáo Đỗ Việt Khoa kể lại ông nghe nhiều giáo viên than phiền phải mất nhiều tiền để được vào biên chế với hy vọng được hưởng phúc lợi khi về hưu và còn các thầy cô giáo dạy hợp đồng thì dù có người gắn bó hơn 10 năm nhưng đồng lương vẫn còm cõi, khoảng 1,2 triệu đồng/tháng. Thầy giáo Đỗ Việt Khoa chia sẻ suy nghĩ của ông trước thông tin Bộ Giáo dục-Đào tạo từng bước tiến hành bỏ biên chế trong ngành:
“Có thể nói giảm biên chế lúc này là đánh trực tiếp vào giáo viên, là những người dân đen khó khăn nhất, bởi vì họ cũng chỉ là những người thụ động. Họ muốn có một cái nghề, bỏ tiền ra học để được đào tạo, rồi lại phải bỏ tiền ra để chạy việc. Bây giờ chạy một suất giáo viên, ở nhiều địa phương cho biết giao động từ 200 đến 400 triệu mới vào được làm giáo viên. Bây giờ đùng một cái mà giảm biên chế thì cũng không tránh khỏi sự lo lắng cho đội ngũ các thầy cô, đặc biệt tại những trường được giao chỉ tiêu là phải giảm số lượng bao nhiêu giáo viên thì những thầy cô không được lòng hiệu trưởng, có ý kiến độc lập và tinh thần đấu tranh rất dễ bị đuổi ra khỏi biên chế trước. Bằng chứng như tôi đã bị Hiệu trưởng Lê Xuân Trung làm đủ trò bẩn thỉu để gạch mình ra khỏi trường.”
Có hiệu quả hay không?
000_Hkg7971106-400.jpg
Một giáo viên đang giải thích về bệnh tay, chân, miệng cho học sinh dân tộc Hmong ở Yên Bái năm 2012. AFP photo
Trong khi đó, dư luận cũng ồn ào với thắc mắc vì sao việc tinh giản biên chế chỉ mỗi Bộ Giáo dục-Đào tạo thí điểm thực hiện mà không dàn trải đồng loạt trong toàn bộ các ban ngành của bộ máy nhà nước, trong khi giáo dục là quốc sách? Chúng tôi nêu vấn đề với Giáo sư Tương Lai, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội Việt Nam và được Giáo sư cho biết nhận định của ông:
“Bây giờ đây, gánh nặng của ngân sách không chịu đựng được nữa, việc giảm trước tiên thì họ phải chọn đối tượng nào thấp cổ bé miệng nhất và đông nhất. Lực lượng trong ngành giáo dục và ngành y tế là lực lượng đông nhất trong bộ máy biên chế hành chính sự nghiệp. Vì họ thấp cổ bé miệng và họ không có gắn với bộ máy quyền lực nào để từ đó họ có thể chống trả được thì việc đầu tiên là họ phải bị gạt bỏ. Điều này cho thấy đây là một chính sách cực kỳ tàn nhẫn, vô nhân đạo của chế độ toàn trị phản dân chủ này.”
Từ 20 năm trước đây, các chuyên gia kinh tế Việt Nam từng khuyến cáo Hà Nội nên bỏ hẳn biên chế để giảm gánh nặng cho ngân sách quốc gia. Chuyên gia Kinh tế Phạm Chi Lan cho rằng ngân sách nhà nước không thể nuôi nỗi bộ máy ăn lương lên đến 11 triệu người; trong số đó cán bộ, công chức, viên chức xấp xỉ 2,8 triệu, nếu kể cả những người nghỉ hưu và các đối tượng nhận lương và trợ cấp từ ngân sách nhà nước chiếm 8,3% dân số, tương đương 7,5 triệu người.  Đồng quan điểm đó,  Giáo sư Tương Lai cũng nhât trí giảm biên chế là một giải pháp để tiết kiệm ngân sách, nhưng nếu Chính phủ chỉ tập trung vào giảm biên chế đối với những người trực tiếp lao động, sản xuất thì không bao giờ mang lại hiệu quả. Giáo sư Tương Lai nói:
Điều này cho thấy đây là một chính sách cực kỳ tàn nhẫn, vô nhân đạo của chế độ toàn trị phản dân chủ này.
- Giáo sư Tương Lai
“Đây tôi nói về bộ máy hành chính của đảng và hành chính của nhà nước thì (nhân viên) bám vào biên chế với đồng lương không cao nhưng ai cũng muốn bám lấy biên chế vì bên cạnh lương thì còn bổng. Bổng đã lớn nhưng còn dựa vào quyền để đục khoét của dân thì tham nhũng này mới là khủng khiếp. Tham nhũng từ trên xuống dưới. Càng lên cao thì càng tham nhũng lớn. Trên chóp bu tham nhũng thì cấp dưới tội gì không tham nhũng và cứ thế tham nhũng xuống tận cơ sở. Thượng bất chính thì hạ tắc loạn. Cho nên cả bộ máy đó không phương cứu chữa. Vì vậy, bộ máy biên chế càng ngày càng phình ra, không có cách nào giảm được đâu. Giảm chỗ này thì sẽ phình sang chỗ khác.”
Năm 2016, Bộ Tài chính công bố công khai trên website của bộ này số liệu tổng chi cho các cơ quan trung ương của các 6 tổ chức chính trị-xã hội, bao gồm Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và Liên minh Hợp tác xã Việt Nam lên đến hơn 1, 6 triệu tỷ đồng, theo Dự toán chi ngân sách Trung ương năm 2016. Viện Nghiên cứu kinh tế và chính sách (VEPR) cũng có nghiên cứu với ước tính chi phí kinh tế-xã hội cho các tổ chức, hội đoàn này hàng năm tương đương 1-1,7% Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Việt Nam.
Một số người dân trong nước cho Đài RFA biết câu hỏi mà họ muốn nêu ra cho Chính phủ Việt Nam liệu có nên thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW về tinh giản biên chế khởi xướng từ những tổ chức, hội đoàn kể trên để đánh giá hiệu quả ban đầu như thế nào trước khi dàn trải trong toàn bộ hệ thống biên chế của quốc gia?

Nền giáo dục ‘tô son trét phấn’

  Theo VOA-24/05/2017
Hình minh họa.
Lê Việt Hà
Đến hẹn lại lên, phụ huynh Việt Nam mấy ngày nay vào mùa họp phụ huynh cuối niên học.
Vào lớp, cô giáo bắt đầu bi bô về tình hình học tập của lớp: Nào là “em rất khổ vì nhiều học sinh lớp ta vẫn chưa học giỏi đều các môn. Ngoài Toán, Tiếng Việt , Khoa Học, Lịch Sử , Địa Lý, nhiều em còn bị giáo viên Nhạc, giáo viên Vẽ than phiền….”
Rồi cô tiếp: “Em dạy Toán, Tiếng Việt, Khoa Học nhưng cuối giờ phải tranh thủ 30 phút làm thay luôn cả giáo viên Nhạc, giáo viên Vẽ gò cho từng đứa biết đọc nhạc, biết vẽ đúng… để lớp ta đạt tỉ lệ cao học sinh giỏi đấy các bác các anh chị ạ. (vì chỉ cần một môn không Tốt là không được chấm học sinh giỏi, không được giấy khen!), nếu không giáo viên bị phê bình, hạ thi đua, trường cũng mất danh hiệu, huân huy chương …”
Thế rồi cô tâm sự: “Họp giáo viên, trao đổi với hiệu trưởng… quyết định “thêm thêm, chút chút, nâng nâng” để … hài hòa (!) rồi 90%… đều giỏi cả!”(nhân tiện cũng nói thêm là các trường tiểu học Việt Nam hiện nay khá hiếm điểm 7 điểm 8, điểm 5 điểm 6 càng … cực hiếm! Trong khi đó điểm 9, điểm 10 trong cơn cuồng lạm phát!)
Phụ huynh lào xào, nhiều phụ huynh ngước mắt ngưỡng mộ cô giáo. Vài bác thì mãn nguyện ra mặt vì con em mình được cô khen ngoan và học “giỏi.” Chỉ thiểu số vài anh, vài chị ngại ngùng giấu ánh mắt xấu hổ do con mình bị cô nêu tên chưa thuộc bài, chưa học giỏi… Nhưng rồi cô bất ngờ tuyên bố: “Các em đó cũng được trường khen thưởng đột xuất!”
Lần đầu tiên phụ huynh nghe khái niệm là lạ này, cô giáo giải thích: “Đó là các trường hợp thi 7, 8 điểm tức chỉ “khá” thôi nhưng được vớt thành … học sinh “giỏi”!
Tóm lại các cô vui!
Học trò vui!
Phụ huynh vui!….
Cả nước đều vui (!)
Tôi chỉ ngồi yên lặng suy tư: Khó trách các giáo viên được vì xét cho cùng họ đã bị nền giáo dục thích phô trương biến thành các “Thiên Lôi.” Tự dưng thấy tội cho vài thế hệ chúng ta đang sống trên cái xứ sở này: Từ giáo viên, phụ huynh, đến học sinh… tất cả là nạn nhân của guồng máy giáo dục và xã hội quái gở phản khoa học, không giống ai, chạy theo thành tích ảo với những tấm giấy chứng nhận “giỏi” vô hồn mà ko có thực chất, ép học sinh phải “chín đều” như trái cây tẩm thuốc! Và sau đó tất cả tung hô “tự sướng” thành tích giáo dục nội bộ mà không cần đánh giá của thế giới!
Chợt nhớ đứa con người bạn: Học sinh xuất sắc, cặp mắt lờ đờ sau cặp mắt kính dày cộp, thân hình béo phì ít vận động và học lớp 5 vẫn phải nhờ cha mẹ buộc giày, chưa biết bơi và kỹ năng sống rất kém!
Ở nước ngoài, thậm chí học sinh chỉ cần giỏi một môn … bóng rổ đã được xem là học sinh giỏi.
“Magic” Johnson kiếm cả trăm triệu đô la mà có cần giỏi toán, lý, hóa, văn, sử, địa … đâu?
Anh ta cũng làm nền công nghiệp thể thao giải trí Mỹ phát triển, tạo bao việc làm cho dân chúng.
Nền giáo dục họ hiểu rõ: Bản thân mỗi cá nhân sinh ra có những tố chất nhất định, quyết định bởi bộ gen dòng họ, gia đình… không ai giỏi toàn năng và không thể là thiên tài bách khoa.
Có người ưu thế cái này có người tuyệt vời cái khác, mỗi người có một chuyên môn năng khiếu riêng góp sức cho xã hội.
Còn trong cuộc sống khi cần những vấn đề chuyên môn, họ có thể đọc sách hoặc hỏi ý kiến từ những chuyên gia. Không nên bắt ép trẻ quá sớm nhồi nhét đủ thứ kiến thức hổ lốn vào đầu!
Tại sao nền giáo dục Việt Nam ko thừa nhận điều tự nhiên này mà cứ bắt tất cả bọn trẻ phải gồng lên chụp bằng mọi giá những điểm số 9, 10 cực kỳ hình thức kia. Nó làm thầy cô phải giả dối chấm bài và nắn thành tích, còn phụ huynh thì phải tự giả dối sự bằng lòng.
Với một số trẻ ko đạt được thì hậu quả sẽ là sự tự ti và có thể vô tình phá hỏng cuộc đời tương lai chúng, vì sẽ bị ám ảnh và tin rằng chúng bị … “thiểu năng”!
Lật các sách giáo khoa tiểu học ra mà phát hãi: họ muốn biến trẻ em thành kỹ sư điện đến … kỹ sư nông nghiệp thông thái! Từ nhà lịch sử, nhà địa lý đến họa sĩ, nhạc sĩ thiên tài!
Nhiều kiến thức chuyên sâu đến nỗi người lớn cũng bất ngờ (có bài trong sách giáo khoa nhà trường lẫn phòng giáo dục đành phải cho bỏ!)
Việt Nam vẫn theo lối mòn của tư duy phong kiến đèn sách của thế kỷ xưa.
Cực kỳ phản khoa học khi họ cố ép con em thành nhưng robot đa chữ nghĩa công nghiệp. Học sinh học chay những thứ cao siêu rất thiếu thực tế và rơi vào thực trạng “học cái gì cũng biết mà biết … chả ra cái gì!”
Để kết luận, chúng ta chiêm nghiệm lại câu nói nổi tiếng của thiên tài khoa học Einstein nói về giáo dục và một bức tranh minh họa. 

Trong hình biếm, một thầy giáo nói: Để đảm bảo tính công bằng, mời mọi người làm cùng một bài thi: "Tất cả hãy trèo lên cái cây kia."

Và câu nói của Albert Einstein: “Mỗi người sinh ra đều là thiên tài. Nhưng nếu bạn bắt một con cá thể hiện khả năng qua việc trèo cây, thì cả đời nó sẽ sống và tin rằng nó chỉ là một đứa ngốc.”

‘Không sợ đối thoại, không sợ tranh luận,’ thật không?

Bùi Tín -Theo VOA-24/05/2017
Nhà của nguyên tổng bí thư đảng cộng sản Việt Nam Lê Khả Phiêu. Hình minh họa.
Nhà của nguyên tổng bí thư đảng cộng sản Việt Nam Lê Khả Phiêu. Hình minh họa.
Trong cuộc họp sơ kết của ngành Tuyên giáo – báo chí ngày 18/5 vừa qua, ông Trưởng Ban Tuyên giáo TƯ Đảng Võ Văn Thưởng đăng đàn nói mạnh rằng: ‘’Chúng ta không sợ đối thoại, không sợ tranh luận, cọ sát ý kíến khác nhau để tìm ra chân lý.’’ Ông còn cho biết sắp có một chỉ thị của Ban Bí thư TƯ hướng dẫn việc đối thọai và tranh luận trong đảng và trong xã hội.
Đây là chuyện lạ, rất bất ngờ.
Tôi phải bấm mạnh vào đùi để xem mình đang tỉnh hay mê sau khi đọc tin này.
Vì có một sự thật rõ ràng là xưa nay Đảng Cộng sản rất ngại, rất sợ việc tranh luận, việc đối thoại, việc cọ sát ý kiến một cách trung thực để tìm ra chân lý.
Cái khả năng lắng nghe ý kiến người khác là gần bằng con số ‘’không.’’ Chính đây là căn bệnh kinh niên, trầm kha, chết người của Đảng Cộng Sản, con đường tử lộ của đảng, kéo theo thảm họa của nhân dân.
Có trăm nghìn sự thật nói lên căn bệnh bịt chặt 2 lỗ tai của người lãnh đạo Cộng Sản. Trước các Đại Hội X, XI, XII, có biết bao ý kiến, kiến nghị của hàng trăm trí thức, đảng viên góp ý vào các văn kiện dự thảo, nhưng đảng không thèm trả lời lấy một câu. Đó là những trí tuệ và tâm huyết mong muốn đối thọai xây dựng, nhưng đảng đã lạnh lùng không thèm đếm xỉa. Đó là thái độ kẻ cả, tự mãn, trịch thượng, vô văn hóa. Thành ra như nói chuyện với người điếc!
Ngay cả 5 bức tâm thư của ĐạiTướng Võ Nguyên Giáp về ‘’Vụ án siêu nghiêm trọng Tổng Cục II‘’ và về ‘’Khai thác bô-xit trên vùng Tây nguyên’’, gửi Bộ Chính Trị và Ban Chấp hành TƯ, cũng không có đến một câu trả lời .
Thế là không sợ tranh luận, không sợ đối thọai ư?
Gần đây Vụ án Đinh La Thăng, bao nhiêu câu hỏi dồn dập. Vụ án đã kết thúc hẳn chưa? Sao bị kết tội nặng thế mà vẫn còn là ủy viên TƯ Đảng, là Phó Ban Kinh Tế TƯ, còn là đảng viên? Còn là Đại biểu Quốc hội. Đã thật công minh, đúng người đúng tội chưa? Tài sản tham nhũng, thất thoát được thu hồi ra sao, bao nhiêu? Còn bao nhiêu người liên can trong vụ án này? Sẽ xử ra sao?
Vẫn không một ai trả lời.
Nay ông Trưởng Ban Tuyên Giáo lại tuyên bố xanh rờn, không chút ngượng ngùng, là ‘’đảng không sợ đối thọai, không sợ tranh luận’’, nếu quả thật là thế thì đây là cả một cuộc cách mạng, đoạn tuyệt với quá khứ, mở ra một thời kỳ hoàn toàn mới, may mắn, tốt đẹp cho bản thân Đảng Cộng Sản, cho toàn xã hội.
Nhân đây xin mạnh dạn gợi ý với ông Trưởng Ban Tuyên Giáo hãy sớm tổ chức một vài cuộc Hội thảo, đối thoại, tranh luận thật sôi nổi, có kết luận rõ ràng về một số vấn đề quan trọng, nóng hổi sau đây:
Về Cương Lĩnh Chính Trị của Đảng Cộng Sản. Học thuyết Mác – Lenin có còn sức sống hay không ? Chế độ độc đảng có thể là một chế độ dân chủ thật sự hay không? Chủ nghĩa Xã Hội là sự thật hay là ảo vọng?
Phương châm ‘’Đất đai, ruộng đất là thuộc quyền sở hữu của toàn dân, do Nhà nước thay mặt thống nhất quản lý’’ có nên duy trì hay không? hay nên trở lại phương châm ‘’Người cày có ruộng‘’ với các hình thức sở hữu tư nhân (là phổ biến), tập thể và công hữu, như trước năm 1960? Đâu là đúng, sai?
Có nên giữ chính sách ‘’các cơ sở quốc doanh có vai trò chủ đạo trong nền kinh tế‘’ hay không? vì theo đó các Tập đoàn quốc doanh được ưu đãi, nuông chiều quá đáng, làm ăn lỗ lớn hàng trăm nghìn tỷ đồng, lấn át, bóp chết các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ của giai cấp trung lưu đông đảo, là bệ đỡ rộng lớn làm nền cho phồn vinh kinh tế và cải thiện đời sống cho toàn xã hội?
Có nên cho phép Quân Đội và Công An làm kinh tế hay không? Có biết Trung Cộng đã cấm tuyệt đối chuyện này từ 12 năm nay, vì Quân đội làm kinh tế sẽ lao vào kiếm lợi nhuận, tay cầm súng sẽ lỏng lẻo, dễ tạo nên tham nhũng hưởng lạc, hư hỏng, đi trệch khỏi chức năng cơ bản là bảo vệ Tổ Quốc, bảo vệ nhân dân. Việc Tổng công ty Bưu Chính Quân đội Viettel cướp đất trong vụ Đồng Tâm là một điển hình sống, chưa nói đến mâu thuẫn gay gắt giữa Viettel với Tổng Cục Bưu Điện và ngành Viễn thông của Nhà nước.
Hãy tổ chức đối thoại tranh luận về 4 vấn đề lớn, nóng hổi trên đây, chưa nói đến các vấn đề hệ trọng khác, như: nên lựa chọn đường lối đối ngọai nào để có bạn tốt, đáng tin cậy; nên cải cách nền giáo dục ra sao? có nên làm như Bình Thuận xây dựng tượng cha con ông Hồ Chí Minh tốn đến 118 tỷ đồng?
Đảng Cộng Sản, Bộ Chính Trị và ngành Tuyên Huấn Trung ương chủ trương tổ chức tiến hành đối thoại thật sự là chuyện rất đáng hoan nghênh, một cuộc đổi mới gương mẫu rất có lợi cho đất nước, cho nhân dân.
Mở đầu, để tạo nên đà thuận lợi, hãy triệu tập những trí thức của đảng thường có chính kiến xây dựng, mạnh bạo, như các vị: Trần Phương, Nguyễn Văn An, Vũ Khoan, Lê Đăng Doanh, Phạm Chi Lan, Đặng Hồng Võ, Bùi Quang Vinh, Trương Đình Tuyển, Trần Quốc Thuận, Hoàng Xuân Phú, Vũ Ngọc Hoàng, Nguyên Ngọc, Phan Huy Lê, Nguyễn Huệ Chi, Trần Quốc Thước, Lê Mã Lương … Đây là một phần ‘túi khôn’ truyền thống của dân tộc.
Xây dựng thật sự và thật lòng một ‘’nền văn hóa đối thoại‘’ trong Đảng và trong xã hội là một bước tiến vượt bực trong tư duy và trong tác phong lãnh đạo của Đảng, sẽ làm lợi vô hạn cho đất nước và cho nhân dân, sẽ là một bước tiến dài để Đảng Cộng Sản thoát khỏi đà suy thoái nguy hiểm và khôi phục niềm tin của nhân dân, niềm tin mà mới đây Giáo sư - Đảng Viên Đào Công Tiến đã báo động là ‘’đã cạn kiệt’’ do Đảng đã buộc nhân dân phải trả giá quá cao cho những sai lầm của mình suốt 70 năm qua.
Trong những sai lầm ấy, có sai lầm sợ đối thoại, sợ tranh luận, không chịu nghe ý kiến phản biện, xây dựng, tự thỏa mãn… đã thành cố tật của các nhà lãnh đạo Cộng sản nước ta. Có gì đáng mừng hơn là sự tự nguyện rũ bỏ cố tật ấy.

Điều trần tại Hạ viện Mỹ về Nguyễn Hữu Tấn, chết trong đồn công an

VOA Tiếng Việt/23/05/2017 
Chị Nguyễn Thị Mỹ Phượng (trái) và em trai Nguyễn Hữu Tấn quá cố (Ảnh: Vietnam Advocacy Day Facebook và Báo Vĩnh Long)
Chị Nguyễn Thị Mỹ Phượng (trái) và em trai Nguyễn Hữu Tấn quá cố (Ảnh: Vietnam Advocacy Day Facebook và Báo Vĩnh Long)
Ngay trước khi Thủ Tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc sang Hoa Kỳ gặp Tổng Thống Donald Trump vào cuối tháng này, Quốc Hội Hoa Kỳ sẽ mở một buổi điều trần vào ngày 25/5, về tình trạng vi phạm tự do tôn giáo, nhân quyền đang diễn ra ở Việt Nam.
Dân Biểu Christopher Smith thuộc đảng Cộng Hoà, đại diện bang New Jersey, cho biết lý do điều trần trong một thông cáo: “Chính quyền cộng sản Việt Nam giới hạn tự do tôn giáo một cách nghiêm trọng, và Uỷ ban Tự Do Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ (USCIRF), vừa khuyến nghị Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đưa Việt nam trở lại danh sách Quốc gia phải Quan tâm Đặc biệt –CPC.”
Dân biểu Smith nói: “Khi Thủ Tướng Việt Nam sang thăm Hoa Kỳ cuối tháng này, chính quyền Tổng thống Trump sẽ có một cơ hội để khẳng định: người dân Hoa Kỳ sẽ không tài trợ việc đàn áp nghiêm trọng các nhóm tôn giáo, các nhà tranh đấu dân chủ, các blogger và các nhà báo.”
Tổng Giám đốc kiêm Chủ tịch BPSOS Nguyễn Đình Thắng cho biết chị Nguyễn Thị Mỹ Phượng, chị ruột của anh Nguyễn Hữu Tấn, một tín hữu Hòa Hảo chết trong khi bị tạm giam ở Vĩnh Long, sẽ từ thành phố Atlanta, bang Georgia, tới Washington dự buổi điều trần này.
Chị Mỹ Phượng, định cư tại Hoa Kỳ từ năm 1999, cho VOA biết chị và chồng sẽ có mặt ở thủ đô Washington vào ngày 25/5 để dự buổi điều trần do các dân biểu Hạ viện Hoa Kỳ tổ chức.
Chị Phượng cho biết sẽ cố gắng đòi công lý cho người em đã chết oan tại đồn công an tỉnh Vĩnh Long hôm 3/5:
"Em rất lo lắng cho gia đình, vì đang sống trong sự đe đọa: một người anh và một người em hiện đang gặp tình trạng rất nguy hiểm".Chị Nguyễn Thị Mỹ Phượng
 “Em rất lo lắng cho gia đình, vì đang sống trong sự đe đọa: một người anh và một người em hiện đang gặp tình trạng rất nguy hiểm, gia đình, ba mẹ của em rất là sợ, ủy quyền cho em để đòi công lý cho đứa em chết oan. Gia đình của em rất sợ hãi, không dám lên tiếng gì hết.”

Gia đình của ông Nguyễn Hữu Tấn ở tỉnh Vĩnh Long - Ảnh Facebook Vietnam Advocacy Day
Gia đình của ông Nguyễn Hữu Tấn ở tỉnh Vĩnh Long - Ảnh Facebook Vietnam Advocacy Day
Chị Mỹ Phượng nói trong những tuần qua gia đình ở Vĩnh Long đã bị công an áp lực và đe doạ nặng nề như tịch thu tất cả các máy điện thoại “có thể lưu trữ chứng cớ đi ngược với lời giải thích của công an về cái chết của Nguyễn Hữu Tấn.”
Theo chị Phượng, chính quyền còn đe doạ sẽ bắt giam anh trai và em trai của anh Tấn.
Trước đó, anh Nguyễn Hữu Tài, em trai của anh Tấn nói với VOA-Việt ngữ rằng gia đình không tin anh Nguyễn Hữu Tấn, người bị tạm giam theo điều 88 Bộ Luật Hình sự Việt Nam, chết do tự cắt vào cổ.
Anh Trần Thanh Hùng, chồng của chị Phượng, nói với VOA-Việt ngữ rằng công an tỉnh Vĩnh Long đã chiếu cho gia đình xem hai đoạn video khác nhau, theo đó công an cho rằng người cầm dao tự sát là anh Nguyễn Hữu Tấn.
Anh Hùng nói rõ sự khác biệt giữa video chiếu ngày 3/5 với video chiếu ngày 6/5 như sau:
“Lần đầu tiên mà ông già đến đồn công an và công an cho xem video, thì con dao cầm bên tay trái, hai tay không có bị còng, nhưng lại mặc đồ tù, chỉ thấy ngang vai, phớt qua thôi, cầm dao rạch hai, ba cái, rồi té xuống. Còn video họ đem ra chiếu lần thứ hai thì lại khác video lần thứ nhất mà ông già thấy. Trong video lần thứ hai thì hai tay bị còng, cầm dao rạch qua rạch lại mười mấy lần.”
"Video họ đem ra chiếu lần thứ hai thì lại khác video lần thứ nhất."Anh Trần Thanh Hùng
 Cũng theo anh Hùng, thông qua một nhà sư ở cùng chùa, công an địa phương đã gây áp lực với cha của anh Tấn, là một tu sĩ theo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất, phải chấp nhận lời giải thích là anh Tấn đã dùng dao rọc giấy để tự cắt cổ cho đến chết trong đồn công an ngày 3/5.
Truyền thông trong nước đưa tin rằng ngày 6/5, Công an tỉnh Vĩnh Long đã công bố đoạn phim “ghi lại toàn bộ quá trình làm việc giữa cán bộ an ninh điều tra với Nguyễn Hữu Tấn và hành động tự sát của Nguyễn Hữu Tấn tại phòng hỏi cung của Trại tạm giam - Công an tỉnh.”
Báo VietnamNet nói rằng “sau khi xem đoạn phim trên, người thân, cha ruột và vợ của Nguyễn Hữu Tấn cùng các vị chức sắc, chức việc, tín đồ các tôn giáo, đoàn thể và người dân địa phương đã công nhận việc Nguyễn Hữu Tấn tự sát là đúng sự thật, còn những thông tin khác trên các trang mạng xã hội hiện nay là bịa đặt, vu khống.”
Ông Nguyễn Đình Thắng, chủ tịch BPSOS, ông Dương Xuân Lương, đại diện Cao Đài Chơn Sanh, và Dân biểu Chris Smith, ngày 16/5/2017.
Ông Nguyễn Đình Thắng, chủ tịch BPSOS, ông Dương Xuân Lương, đại diện Cao Đài Chơn Sanh, và Dân biểu Chris Smith, ngày 16/5/2017.
Thông cáo của dân biểu Chris Smith cho biết tham gia buổi điều trần tại Hạ viện, còn có tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng, Chủ tịch tổ chức phi chính phủ BPSOS, bác sĩ Nguyễn Quốc Quân, Chủ tịch tổ chức Yểm trợ Cao trào Nhân bản, và ông T. Kumar, Giám đốc phân ban Quốc tế của Ân Xá Quốc Tế.
Theo trang Machsongmedia, Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng sẽ trình bày về các hành vi đàn áp nhắm vào các cộng đồng Phật giáo Thống nhất và Phật giáo Khmer Krom, các hội thánh Tin Lành Tây Nguyên và Tin Lành Hmong, các xứ đạo Công giáo Đông Yên và Cồn Dầu, các cộng đồng Cao Đài và Phật Giáo Hoà Hảo Độc Lập.

'Dùng FTA buộc Việt Nam cải thiện nhân quyền'

VOA Tiếng Việt/23/05/2017 biểu tình - một trong những quyền tự do - chưa được đảm bảo ở Việt Nam (ảnh tư liệu, 21/8/2011, Hà Nội)
Biểu tình - một trong những quyền tự do - chưa được đảm bảo ở Việt Nam (ảnh tư liệu, 21/8/2011, Hà Nội)
Theo kế hoạch, đối thoại nhân quyền giữa Hoa Kỳ và Việt Nam diễn ra ở Hà Nội ngày 23/5. Đến cuối buổi chiều cùng ngày, hai bên chưa có thông cáo hay phát ngôn chính thức nào về nội dung bàn thảo lần này. Một nhà hoạt động Việt Nam nói Mỹ có thể sử dụng các hiệp định thương mại để buộc Việt Nam cải thiện nhân quyền.
Bốn ngày trước khi diễn ra vòng đối thoại nhân quyền lần thứ 21, văn phòng phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Mỹ ra thông cáo cho hay đoàn Mỹ do Trợ lý Ngoại trưởng chuyên trách Dân chủ, Nhân quyền và Lao động Virginia Bennett dẫn đầu. Đối tác của bà Bennett bên phía Việt Nam là ông Vũ Anh Quang, Vụ trưởng Vụ các Tổ chức Quốc tế, Bộ Ngoại giao.
Thông cáo cho biết thêm cuộc đối thoại bao trùm nhiều vấn đề nhân quyền, trong đó có tầm quan trọng của việc tiếp tục đạt tiến bộ về các nỗ lực cải cách pháp lý; pháp quyền; các quyền tự do biểu đạt, lập hội và hội họp; tự do tôn giáo; các quyền lao động; các quyền của người khuyết tật; chống phân biệt đối xử; và hợp tác đa phương. Ngoài ra hai bên cũng sẽ bàn về các trường hợp cá biệt đáng quan tâm.
Từ Hà Nội, nhà hoạt động vì dân chủ Phạm Đoan Trang nói với VOA vào tối 23/5 rằng chị “không đặt nhiều hy vọng vào cuộc đối thoại” trong bối cảnh Hoa Kỳ có chính quyền mới, mà đứng đầu là một tổng thống cho đến nay chỉ có vài phát biểu hiếm hoi về nhân quyền.
[Mỹ] vẫn có thể sử dụng những hiệp định đó, những cam kết thương mại đó như là những công cụ để buộc chính quyền Việt Nam phải đảm bảo nhân quyền, phải đảm bảo phát triển bền vững, với điều kiện là những sáng kiến đó phải có điều khoản về nhân quyền, phải gắn nhân quyền như là một điều kiện"-nhà hoạt động Phạm Đoan Trang
 Đưa ra nhận xét “chính quyền Trump không đặt nặng ưu tiên vào nhân quyền, không quan tâm đến Việt Nam”, song chị Trang nói Hoa Kỳ vẫn có thể sử dụng quan hệ thương mại để gây sức ép với Việt Nam về nhân quyền:
“Theo tôi được biết, hiện giờ phía Việt Nam đang rất trông chờ vào những hợp tác thương mại giữa Việt Nam và Mỹ. Sau khi TPP thất bại, sau khi hiệp định mậu dịch tự do giữa Việt Nam và EU còn đang bị treo, chưa phê chuẩn được, thì họ đặt tiếp hy vọng vào những hiệp định, những nguyên tắc, những sáng kiến hợp tác thương mại song phương giữa Việt Nam và Hoa Kỳ trong thời gian tới. Vì lý do đó, tôi nghĩ rằng vẫn có thể sử dụng những hiệp định đó, những cam kết thương mại đó như là những công cụ để buộc chính quyền Việt Nam phải đảm bảo nhân quyền, phải đảm bảo phát triển bền vững, với điều kiện là những sáng kiến đó phải có điều khoản về nhân quyền, phải gắn nhân quyền như là một điều kiện”.
Bên cạnh cuộc đối thoại chính thức với các quan chức nhà nước, phái đoàn Mỹ đã lên kế hoạch gặp một số nhà hoạt động trong nước để có thông tin đa chiều về tình hình Việt Nam.
Hai nhà hoạt động Nguyễn Quang A và Phạm Đoan Trang là những người đoàn Mỹ muốn gặp vào tối 22/5. Tuy nhiên, chị Trang cho VOA biết các nhân viên an ninh của chính quyền Việt Nam đã ngăn cản thô bạo:
“Họ chặn cả hai người. Tiến sĩ Nguyễn Quang A vì cố gắng ra ngoài còn bị họ tống lên ô tô đưa về tận Hải Phòng. Đến gần tối, cuối ngày, họ đưa về. Tôi cũng bị chặn như mọi lần thôi. Nhưng lần này có lẽ là nặng hơn vì trong phía công an có sự cay cú. Hồi tháng 2 có đoàn dân biểu của Quốc hội châu Âu (EU) sang Việt Nam, thì hôm đó tôi đi thoát, gặp được phái đoàn đó và ra một tuyên bố chung đánh giá tình hình nhân quyền Việt Nam. Lần đó công an huy động lực lượng dày đặc mà không bắt được cho nên là họ rất cay cú. Có lẽ vì vậy, lần này họ giăng quân, đổ quân từ sáng sớm và có sự khiêu khích thêm”.
Nhà hoạt động cho biết thêm cao điểm của sự khiêu khích là phía an ninh nhà nước hôm 20/5 đưa hàng chục người, trong đó có những thành phần côn đồ, đến bao vây nhà chị, hăm dọa chị và những người bạn, những nhà hoạt động khác đến bảo vệ chị.
Dù không gặp trực tiếp được đoàn Mỹ, chị Phạm Đoan Trang cho biết các tổ chức xã hội dân sự Việt Nam đã gửi một bản tuyên bố đánh giá về nhân quyền ở Việt Nam đến Bộ Ngoại giao Mỹ và công bố bản tuyên bố này rộng rãi trên mạng.
"Dùng dân chống dân tức là họ huy động những người có thể là ít hiểu biết chống lại dân chủ, chống lại xu hướng thay đổi. Dư luận viên và côn đồ cũng là quần chúng tự phát cũng hoạt động rất mạnh tại Hà Nội, Sài Gòn và miền trung trong những tháng vừa qua, tấn công dữ dội những người hoạt động trên cả mạng lẫn ngoài đời. Tôi nghĩ đó là một xu hướng nguy hiểm. Ngoài ra bạo lực gia tăng cũng là xu hướng rất nguy hiểm. Nó cho thấy rất khó có cánh cửa cho thay đổi ôn hòa, cho đối thoại cả"-nhà hoạt động Phạm Đoan Trang
 Bản tuyên bố dài 7 trang viết bằng tiếng Anh khẳng định các quyền tự do báo chí, biểu đạt, tụ họp, tôn giáo ở Việt Nam vẫn bị vi phạm nghiêm trọng. Người dân cũng không được đảm bảo các quyền được xét xử công bằng hay được hưởng môi trường trong lành.
Việc chính quyền bắt 8 blogger và truy nã 2 blogger khác, tất cả đều là những người hoạt động ôn hòa, được nêu bật trong tuyên bố và bị xem là một động thái đàn áp mang tính chính sách nhắm vào cộng đồng Công giáo.
Một xu hướng đáng lo ngại được nêu trong tuyên bố là nạn bạo lực gia tăng nhắm vào những nhà hoạt động, trong đó có những vụ việc được giới hoạt động gọi là “dùng dân chống dân”.
Nhà hoạt động Phạm Đoan Trang bày tỏ lo lắng:
“Dùng dân chống dân tức là họ huy động những người có thể là ít hiểu biết chống lại dân chủ, chống lại xu hướng thay đổi. Dư luận viên và côn đồ cũng là quần chúng tự phát cũng hoạt động rất mạnh tại Hà Nội, Sài Gòn và miền trung trong những tháng vừa qua, tấn công dữ dội những người hoạt động trên cả mạng lẫn ngoài đời. Tôi nghĩ đó là một xu hướng nguy hiểm. Ngoài ra bạo lực gia tăng cũng là xu hướng rất nguy hiểm. Nó cho thấy rất khó có cánh cửa cho thay đổi ôn hòa, cho đối thoại cả”.
Việt Nam lâu nay vẫn bác bỏ những cáo buộc từ nhiều giới, tổ chức quốc tế và các nước phương tây cho rằng Việt Nam vi phạm nhân quyền.
Nhưng trong báo cáo nhân quyền do Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ công bố hồi tháng 3, phần đánh giá về Việt Nam tiếp tục khẳng định Việt Nam là “một nhà nước độc tài cai trị bởi một đảng duy nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam” và rằng Việt Nam “tiếp tục đàn áp nhân quyền” dưới nhiều hình thức.
Gần hai tuần trước vòng đối thoại nhân quyền Mỹ-Việt, hôm 11/5, nhân Ngày Nhân quyền Việt Nam lần thứ 23 tổ chức tại Thượng viện Hoa Kỳ, Thượng nghị sĩ Cornyn và Dân biểu Chris Smith kêu gọi chính quyền của Tổng thống Trump hãy tăng sức ép với Viêt Nam về nhân quyền.
Dân biểu Chris Smith đề nghị tổng thống phải nói rõ với Viêt Nam rằng việc mở rộng hơn nữa các lợi ích về thương mại và an ninh “phải đi kèm điều kiện là những cải thiện lớn về nhân quyền, tự do, dân chủ có thể xác minh được cụ thể và không thể được đảo ngược”.

Sao Đảng bỗng dưng ‘không sợ đối thoại’?

Phạm Chí Dũng
Theo VOA-24/05/2017 
Võ Văn Thưởng (thứ nhì, từ trái): "Chúng ta không sợ đối thoại, không sợ tranh luận..."
Võ Văn Thưởng (thứ nhì, từ trái): "Chúng ta không sợ đối thoại, không sợ tranh luận..."
Đối thoại chỉ thực sự đạt được kết quả dân sinh - dân chủ - dân quyền khi đảng bị ép vào chân tường - một “vách đá tài chính” về ngân sách, suy thoái dẫn đến khủng hoảng kinh tế, phản kháng và hỗn loạn xã hội, nội bộ chính trị phân rã cùng trào lưu “tách đảng”, tất cả cùng cộng hưởng.
3 kế hoạch “đối thoại”
Dù nửa đầu năm 2017 vẫn chưa qua, nhưng đã có đến 3 sự kiện “đối thoại” khiến lùm xùm dư luận.
Cuộc “đối thoại” đầu tiên thuộc về chức trách của Hội Nhà văn Việt Nam với kế hoạch “Hội nghị hòa hợp dân tộc về văn học” và “sẽ mời tất cả các nhà văn hải ngoại về nước tham dự”, dự định tổ chức vào tháng 4/2017, nhưng cho tới giờ hoàn toàn bặt vô âm tín. Nghe nói tuyệt đại đa số nhà văn hải ngoại đã cự tuyệt lời mời bị xem là quá sức mị dân từ hội đoàn bị xem là “cánh tay nối dài của đảng”.
Sự kiện đối thoại thứ hai đã diễn ra đúng nghĩa, dù là “nước đến chân mới nhảy”. Tại một địa danh lần đầu tiên xuất hiện trên bản đồ chính trị thế giới: Đồng Tâm. Lần đầu tiên, một nhân vật đại diện cho thói kiêu ngạo cộng sản của đảng cầm quyền là Chủ tịch Hà Nội Nguyễn Đức Chung phải viết cam kết nhượng bộ trước đám đông nông dân chỉ chực chờ “nổi loạn”.
Và đến ý tưởng “đối thoại” chỉ mới nảy sinh vào tháng 5/2017: hội nghị trực tuyến toàn quốc sơ kết một năm triển khai thực hiện Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” vào sáng 18/5/2017 đã bớt hẳn khí sắc nhàm chán khi Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Võ Văn Thưởng đột nhiên nhấn mạnh: “Chúng ta không sợ đối thoại, không sợ tranh luận, bởi vì sự phát triển của mỗi lý luận và của học thuyết cách mạng nào rồi cũng phải dựa trên sự cọ xát và tranh luận. Và cũng chính sự tranh luận đó tạo ra cơ sở để hình thành chân lý”.
Dấu hiệu đáng chú ý là vào năm nay, có vẻ sự việc trở nên “quyết liệt” và gấp gáp hơn. Nếu năm ngoái Võ Văn Thưởng chỉ hé ra ý định “đối thoại” mà không kèm theo kế hoạch nào và cũng chẳng làm gì sau đó, thì lần này ông Thưởng đã nhích thêm một chút (mới chỉ một chút) khi thông tin cho báo giới nhà nước: “Ban Tuyên giáo Trung ương đang chờ Ban Bí thư thông qua một văn bản hướng dẫn về việc tổ chức trao đổi và đối thoại với những cá nhân có ý kiến và quan điểm khác với đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà nước”.
Sau động thái trên của Võ Văn Thưởng, một số ý kiến trong giới phản biện tỏ ra hào hứng và vồn vã đón nhận “chủ trương đối thoại của đảng”. Một số khác trong đấu tranh dân chủ nhân quyền trong nước cho rằng kỳ này đảng có vẻ nghiêm túc hơn trong việc đối thoại, mặc dù vẫn chỉ dùng lối đảo từ theo cách ám chỉ “người khác biệt quan điểm” chứ chưa dám gọi thẳng tên “người bất đồng chính kiến”.
Nhưng tại sao từ nhiều năm qua, đã có không ít lời kêu gọi đối thoại từ giới trí thức phản biện độc lập mà đảng vẫn không chịu có “chủ trương”? Thậm chí ngay cả lời kêu gọi này xuất phát từ nhóm trí thức “phản biện trung thành” cũng không khiến đảng mảy may động lòng?
Vì sao đảng bỗng nhiên muốn “đối thoại”?
Có khá nhiều bằng chứng về thế chủ động đề nghị đối thoại đã từng thuộc về giới phản biện và bất đồng chứ không phải chính quyền.
Từ năm 2015 đến nay, “Nhóm 61” - một tập hợp mới của một số trí thức đảng viên và những người thuộc phong trào học sinh và sinh viên ở Sài Gòn trước năm 1975 - đã vài lần gửi thư yêu cầu cho Bộ Chính Trị về nhu cầu đối thoại và đề nghị “ít nhất một cuộc gặp để góp ý”. Nhưng từ Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng trở xuống, tất cả nín bặt, không một lời hồi âm.
Còn trước đó, vào năm 2014 khi nổ ra vụ hạ đặt giàn khoan HD 981 của Trung Quốc ở Biển Đông, nhiều trí thức đã yêu cầu Bộ Chính Trị phải đối thoại để xử lý dứt khoát vấn đề đối sách với Bắc Kinh. Nhưng Bộ Chính Trị đã như thể cấm khẩu.
Vào giữa năm 2016, khi cuộc biểu tình bảo vệ môi trường bùng nổ ở miền Trung và kéo theo các cuộc biểu tình liên tiếp của người dân ở hai đầu cầu Hà Nội và Sài Gòn, Ủy viên bộ chính trị Võ Văn Thưởng bất chợt tung ra một phát ngôn hàm ý về “đối thoại với dân” như một động tác xoa dịu không khí phẫn nộ trong dân chúng. Nhưng sau đó ông Thưởng đã “biệt tích” trước cảnh công an Việt Nam lộ nguyên hình hài, hùng hổ bắt bớ và đánh hội đồng không thương tiếc hàng trăm người biểu tình.
Có thể giải thích thế nào về cái cách thập thò rất thiếu chính danh như thế của “đảng ta”?
Trên phương diện tâm lý, sĩ diện của đảng là cao vời vợi, dù sắp chết đến nơi vẫn còn vời vợi cao. Tâm lý đầu tiên và luôn có là “ta đường đường là ủy viên Bộ Chính Trị, sao phải hạ mình ngồi ngang hàng và nói chuyện với mấy tay trí thức chỉ là đảng viên thường?”
Còn nếu có diễn ra một cuộc đối thoại trong mơ, cái gì sẽ được nói ra? Chẳng lẽ giới lãnh đạo đầy sĩ diện và ảo tưởng quyền lực lại chịu ngồi im để nghe “đám trí thức nhiều chuyện” răn dạy sự cần kíp phải bỏ ngay Điều 4 Hiến Pháp, chấm dứt ngay sự độc tôn lãnh đạo của đảng cầm quyền, thoát Trung và cả thoát Cộng, chống tham nhũng từ ngay trong nhà mình… Toàn những chuyện quá khó nghe và quá khó nuốt! Toàn những chuyện “bỏ đảng là tự sát!”.
Kết quả là cho đến tận giờ này, khi quá nhiều dư luận sôi sục về hiện tình “đảng nát như tương” và “đất nước nát như cám”, vẫn không có nổi một cuộc đối thoại cho ra hồn giữa một đảng vẫn tuyên xưng là chính danh với những người chẳng cần danh chính nhưng nghiễm nhiên ngôn thuận.
Không ít người trong giới phản biện nói thẳng rằng đừng hy vọng gì về “bản lĩnh đối thoại” của giới lãnh đạo ngày nay. Họ còn đang phải dành đến 99% thời gian và tâm trí để lo đối phó triệt hạ nhau trong nội bộ, lấy đâu ra hơi sức để ngồi nói chuyện với mấy ông trí thức. Mà cứ nghe đến trí thức là họ lại lắc đầu quầy quậy.
Rất có thể chỉ sau vụ Đồng Tâm tháng 4/2017, khi Chủ tịch Hà Nội Nguyễn Đức Chung phải “hạ mình” đến tận thôn Hoành để đối thoại với bà con nông dân quyết tử giữ đất, Bộ Chính trị đảng mới nhận ra là một khi đảng và chính quyền không có được tiếng nói “nhất trí” trong việc đàn áp người dân Đồng Tâm, mà ngay cả có chủ trương dùng bạo lực đàn áp thì chẳng có gì chắc chắn là lực lượng vũ trang sẽ dám ra tay, còn Đồng Tâm sẽ không biến thành một Thái Bình thứ hai để trở thành một cuộc khởi nghĩa bùng nổ dữ dội toàn miền Bắc…, mới dẫn đến phát ngôn “không sợ đối thoại” của Trưởng ban tuyên giáo trung ương Võ Văn Thưởng…
Đảng muốn gì?
Cũng như giấc mơ cộng sản chủ nghĩa trầy trật quăng quật trong những người bảo thủ nhất của đảng, cuộc gặp giữa số người này với những trí thức chẳng còn mơ màng vào chủ nghĩa xã hội vẫn là một tiến trình vô cùng chậm chạp và xen kẽ không hiếm cơn mộng du.
Trong hiện tình khốn quẫn ở Việt Nam, đối thoại chỉ manh nha thành hình ở những nơi và vào những thời điểm cực chẳng đã đối với chính quyền, ở nhũng cấp địa phương có điểm nóng như Đồng Tâm mà đảng không thể không hạ mình, chứ không phải cấp trung ương. Đối thoại với nông dân, ngư dân, tiểu thương vì bị tước đoạt kế sinh nhai cuối cùng - những người bị coi là sắp “làm loạn”, chứ không phải với những trí thức được chính quyền đánh giá là “chưa nguy hiểm lắm.”
Nhưng vụ Đồng Tâm chỉ là một mồi lửa. Còn nhiều mồi lửa khác trong dân chúng. Trong giới trí thức…
Chỉ đến lúc này, sau khi đã họp mãi và nghĩ mãi nhưng không còn cách nào khác, đảng đành lê tấm thân tàn tạ đến “những người khác biệt về quan điểm”.
Nhưng lúc này mới là bắt đầu, chỉ mới bắt đầu thôi, cho cơ chế “đối thoại”.
Còn bắt đầu từ đâu và tiếp tới như thế nào? Những câu hỏi nát óc.
Bắt đầu từ đâu để giới đối lập không có lý cớ nào cho rằng “đảng ta” sợ đối thoại?
Nhằm những mục đích và kết quả gì cho “đối thoại”?
Thuyết phục, vận động và lôi kéo như mục tiêu truyền thống chăng? Nhưng mục tiêu này liệu có đạt được khi trí thức ngày càng tan vỡ niềm tin với đảng và nguy hiểm hơn cả là ngày càng bất trị và ít sợ hãi hơn, cho dù đảng vẫn dùng công an để răn đe bắt bớ thường xuyên?
Nhiều năm qua, rõ ràng phương pháp “đối thoại trong đồn công an” bằng đủ thứ sách nhiễu, theo dõi, canh nhà, triệu tập, đánh đập và dùi cui đe nẹt của giới “công an nhân dân làm công tác dân vận” đã quá ít tác dụng, phản cảm và còn bị công luận trong và nước cùng quốc tế lên án là phản động.
Hay đảng cần chuyển qua thái độ “lắng nghe” và “chia sẻ”?
Một kiểu cách như “đảng sẽ tiếp thu ý kiến trí thức” có vẻ sẽ tạm ổn trong hoàn cảnh nước sôi lửa cháy này, ít nhất cũng đạt được mục đích mị dân. Đối với dân Việt vẫn thường bị ma mị. Nhất là với những vị trí thức mà chỉ mới nghe một chút hơi hướng “đảng mở rộng dân chủ”, chưa biết thực hư thế nào đã vội rối rít, cuống quýt “xin được đối thoại”.
Nếu chỉ nhằm mục đích xoa dịu tạm thời, không có gì cao tay hơn là đảng cứ tổ chức vài cuộc đối thoại với những trí thức hoặc nhóm trí thức được đảng xếp vào danh sách “phản biện trung thành”. Mọi việc về cơ bản sẽ diễn ra với tính chất “ngoan hiền dễ bảo” như khi đảng nói chuyện hay chỉ đạo các hội đoàn nhà nước. Sẽ chỉ ghi nhận những ý kiến góp ý về điều chỉnh chính sách, còn ý kiến nào phản bác về thể chế chính trị như điều 4 Hiến pháp thì coi như “không nghe, không biết”…
Kết thúc những cuộc đối thoại trên, đảng sẽ cho báo chí nhà nước và đám dư luận viên “tuyên truyền sâu rộng” về chủ trương và kết quả thực hiện đối thoại của đảng. Trí thức sẽ sớm thỏa mãn, theo đúng đặc tính “dễ dao động” của họ. Và biết đâu đấy, những trí thức “phản biện trung thành” lại loan truyền bài học kinh nghiệm về “thành tâm của đảng” cho đám trí thức phản biện độc lập và cả cho các tổ chức xã hội dân sự độc lập. Từ đó mới thấy đảng mở rộng vòng tay yêu thương đến thế nào, để kẻ nào còn dám nói là đảng sợ đối thoại?
Hay sâu kín hơn, lại có những nhân vật, thế lực nào đó trong đảng muốn vận dụng cơ chế đối thoại để lợi dụng một ít nhân vật bất đồng và tổ chức xã hội dân sự làm cầu nối với giới chính khách phương Tây và lấy lòng người Việt hải ngoại, tích cực thu xếp cho “hậu sự”…
Nhưng dù gì, những mục tiêu và cách thức trên mới chỉ là não trạng của đảng - một não trạng vốn rất chủ quan duy ý chí và thường sai lệch rất nhiều so với thực tiễn.
Giới bất đồng nên làm gì?
Cuộc khủng hoảng Đồng Tâm đã trở thành một bài học rất có ý nghĩa dành cho giới trí thức phản biện và giới bất đồng chính kiến: chính quyền chỉ buộc phải ngồi vào bàn đối thoại, mà thực chất là đàm phán các điều kiện dân chủ và nhân quyền với dân chúng, khi các “công bộc của dân” đã hoàn toàn bế tắc về phương pháp luận lẫn phương pháp áp chế dân.
Bởi thế, những trí thức và người đấu tranh nhân quyền muốn có được kết quả đối thoại thật sự có ý nghĩa với đảng, cần chọn đúng thời điểm và bối cảnh bế tắc của đảng. Sớm quá sẽ bị giảm hoặc mất tác dụng. Thậm chí còn bị thói kiêu ngạo của đảng nhìn từ trên xuống và chỉ dừng ở đó.
Sau vụ Đồng Tâm mang tính cục bộ, hiện thời đảng mới chỉ nguy ngập chứ chưa bế tắc toàn diện. Đây là lúc mà giới bất đồng chính kiến không cần vội vã, sốt ruột, cuống quýt, càng không cần “cầu xin đối thoại”… Những cuộc gặp gỡ vào thời gian này, tuy vẫn nên xúc tiến, nhưng chỉ có ý nghĩa “hiểu nhau hơn” mà chưa thể giải quyết những nan giải căn cơ của đất nước và bản chất chế độ.
Đối thoại chỉ thực sự đạt được kết quả dân sinh - dân chủ - dân quyền khi đảng bị ép vào chân tường - một “vách đá tài chính” về ngân sách, suy thoái dẫn đến khủng hoảng kinh tế, phản kháng và hỗn loạn xã hội, nội bộ chính trị phân rã cùng trào lưu “tách đảng”, tất cả cùng cộng hưởng. Bối cảnh chính trị - xã hội càng tiệm cận điểm cộng hưởng này, đảng mà đặc biệt là những bộ phận “muốn thay đổi” hoặc muốn tìm lối thoát trong đảng sẽ càng cần đến đối thoại, càng biến diễn “thành tâm” hơn trong đối thoại, từ đó mới có thể từng bước mở ra dân chủ, nhân quyền và thay đổi bản chất chế độ.
Nếu đã chịu đựng được vài ba chục năm, chẳng lẽ giới bất đồng chính kiến và đấu tranh nhân quyền không thể kiên nhẫn thêm một vài năm nữa?