Sunday, November 1, 2015

Nhớ về vị Tổng Thống kính yêu của Việt Nam

Yên Tánh (Danlambao) - Đã hơn nửa thế kỷ trôi qua, hàng năm cứ mỗi độ gió lạnh bắt đầu thổi, lá xanh trên cành thưa thớt dần, thì biết bao con dân đất Việt đang còn sống ở quê hương hay phiêu bạt khắp nẻo năm châu đều ưu buồn nhớ về một biến cố đau thương khởi đầu cho những đau thương, tang tóc ngày một chất chồng và dồn dập hơn về sau cho đất nước: Cái chết tức tưởi, oan khiên của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và bào đệ Ngô Đình Nhu.

Thật vậy, sự ra đi không bao giờ trở lại của anh em Tổng Thống Diệm đã kết thúc một giai đoạn 9 năm tương đối an bình, ổn định về mọi mặt của miền Nam va đánh dấu sự khởi đầu của những bất ổn, xáo trộn, suy thoái của nó. Miền Nam, do mất đi sự lãnh đạo khôn ngoan với viễn kiến chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa, đã bị thao túng trực tiếp bởi Cộng Sản hay gián tiếp bởi họ qua những phần tử hám danh, quyền lực nhưng thiếu cái đầu tỉnh táo và tâm hồn lương thiện. Sư thay đổi liên tiếp trong một thời gian ngắn hai năm các chính phủ “cách mạng” làm người dân ngán ngẩm và mất niềm tin nơi giới lãnh đạo. Sự rạn nứt trong quân đội do sư tranh quyền lãnh đạo giữa các phe phái đã làm mất sự đoàn kết và thống nhất của nó, vì thế tiềm năng chống cộng để củng cố nền độc lập của một nửa nước bị ảnh hưởng nghiêm trọng, đưa đến khủng hoảng tưởng chừng như không giải quyết nổi. 

Người Mỹ sau sự lầm lẫn lớn lao là ủng hộ ngầm cho việc đảo chánh và sát hại anh em Tổng Thống Diệm vì thói kẻ cả, kiêu ngạo và thiếu hiểu biết về một đường lối chống cộng hiệu quả dựa trên nét đặc thù văn hóa, xã hội, dân tộc tính Việt Nam cũng như không nhìn rõ được âm mưu, sách lược mà Cộng Sản quốc tế đã giao phó cho đàn em Cộng Sản Bắc Việt thi hành, chỉ làm tình hình miền Nam mất ổn định và rối ren thêm. Họ cứ nghĩ là có đồng đô la là mua được sự phục tùng, bom đạn cứ sử dụng ào ạt là đè bẹp được ý chí chiến đấu của đối phương, họ chỉ hoạch định được kế hoạch ngắn hạn với đánh nhanh, rút gọn, kiểu tiêu diệt Cộng Sản của họ là kiểu nhổ cỏ đằng ngọn mà không phải đằng gốc. 

Người Mỹ có thừa tiền bạc nhưng lại thiếu tính kiên nhẫn, sự lương thiện và lòng trung tín với bạn bè, sự khiêm nhường cần phải có để học hỏi cái hay của người không giàu bằng mình. Hậu quả là sau này cho dầu họ có đổ hết tỷ đô la này đến tỷ đô la khác vào chiến trường miền Nam, cho dầu họ rảnh tay thao túng nội tình miền Nam, cuộc chiến đã không xoay theo chiều hướng mà họ mong muốn. Cuối cùng, họ không hổ thẹn mà sẵn sàng bội tín một lần nữa khi đã tìm được cách xoay ván cờ chống Cộng ở vùng Đông Nam Á.

Cái chết của Tổng Thống Kennedy và chẳng bao lâu sau của người em trai là biểu tượng cái giá phải trả cho sự giết hại một lãnh đạo anh minh của một nước có độc lập, chủ quyền và là điềm gỡ cho kết quả sau này của chính sách can thiệp thô bạo của Mỹ tại miền Nam. Mỹ đã gặt hái được gì từ cuộc chiến 12 năm sau hơn là một sự tháo chạy hối hả, nhục nhã dẫu rằng đã cố gắng dàn dựng từ ba năm trước một màn kịch hòa bình trong danh dự? Mỹ đã từng kiêu ngạo ở vị trí siêu cường của mình cùng với biết bao bộ óc lỗi lạc đưa ra hết sáng kiến này đến chiến lược khác, nay phải cúi đầu trước đám người man dại, lạc hậu, thua kém đủ mọi mặt, mà họ đã từng có ý định đưa về lại thời đồ đá. 

Dưới con mắt quan sát của thế giới, Mỹ giờ đây không phải là một anh chàng nhà giàu, phong lưu mã thượng mà hóa ra là một thứ con buôn chính trị, sẵn sang tráo trở, bội phản bạn bè để mua bán món hàng béo bở, đem về quyền lợi cho mình mà mặc cho bạn bè sống chết ra sao. Do vậy, những ai có Mỹ là bạn, buộc phải đánh giá lại tình bạn đó. Vì thế, Mỹ dễ có nhiều kẻ thù hơn bạn, và nếu có bạn, thì đó chỉ là bạn trên đầu môi, chót lưỡi hay bạn trong giai đoạn nhất thời mà thôi. 

Chưa hết, ngay cả cái cái món hàng Trung Quốc béo bở mà Mỹ đinh ninh nắm được trong tay khi bán đứng miền Nam để đổi lấy năm xưa, nay ngày càng lộ rõ hình bóng cơn bão tố đã được gieo bởi Mỹ 43 năm về trước.

Để nhớ về vị Tổng Thống kính yêu của miền Nam, chúng ta thử lật lại những trang sử Việt Nam cận đại vào thời điểm năm 1963.

Miền Nam, sau 9 năm dưới sự lãnh đạo của Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã có bộ mặt của một quốc gia độc lập, phấn khởi xây dựng một xã hội mới và trên đà hòa nhập vào sinh hoạt của thế giới tự do, nơi mà các quyền tự do căn bản của con người được tôn trọng và bảo đảm, nhằm tạo điều kiện phát triển tài năng, sáng tạo cá nhân để tất cả mọi người đều có điều kiện góp phần vào sự phát triển của xã hội, đất nước. Chi trong vòng 9 năm ngắn ngủi so với những thời kỳ thực dân-phong kiến truớc đó, nền đệ nhị Cộng Hòa theo sau và Cộng Sản từ 1975 đến nay, những thành tựu mà chế độ ông Diệm đạt được quả là phi thường.

Năm 1954, trong lúc tình hình chính trị, quân sự và ngoại giao rối ren với bao việc phải giải quyết, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm vẫn phải thu xếp và lập ra ủy ban đặc trách tiếp nhận cả triệu đồng bào miền Bắc do không sống nỗi dưới sự kềm kẹp dã man, tàn bạo của Cộng Sản, đã phải dứt bỏ nơi chôn nhau cắt rún để vào Nam tìm con đường sống. Cuộc đón tiếp những người tị nạn được tiến hành chu đáo và đạt kết quả mỹ mãn, họ được đối xử tử tế, chăm sóc sức khỏe ân cần, được tạo điều kiện về công ăn, việc làm và học tập. Nhờ vậy, họ nhanh chóng được an cư, lạc nghiệp ở những vùng đất trù phú, màu mỡ, dần dà hòa nhập vào đời sống miền Nam một cách thoải mái, tự nhiên. Tiếp theo sau đó là việc chính phủ phải lo đối phó với giặc Bình Xuyên, Cao Đài, Hòa Hảo để đem lại an bình cho đời sống người dân. Nhờ sự cương quyết, khôn ngoan và khéo léo, nạn giặc cát cứ đã được dẹp yên, quân đội được thống nhất về một mối và luôn được canh tân để có đủ năng lực và sức mạnh chống lại sự xâm nhập của Cộng Sản. 

Dưới thời Tổng Thống Diệm, văn hóa, giáo dục phát triển nhờ những biện pháp thúc đẩy tự do tư tưởng và sáng tác, sự gia tăng nhanh chóng nhiều trường từ tiểu học, trung học, lên đến đại học và các trường kỹ thuật, chuyên môn. Chế độ mới đã tạo điều kiện cho mọi người không kể giàu nghèo được thụ hưởng một nền giáo dục nhân bản, dân tộc và khai phóng với hai hệ thống trường công và tư mà phẩm chất đào tạo từ các trường này đều như nhau. Nhiều học sinh con nhà nghèo nhưng học giỏi vẫn có cơ hội vươn lên trong cuộc sống và đạt được tương lai tươi sáng nhờ những học bổng du học nước ngoài. Về mặt tín ngưỡng, người dân được tự do trong niềm tin tôn giáo của mình, không một ai bị trù dập, bắt bớ vì đạo giáo của mình. Thật vậy, chùa chiền, nhà thờ và các nơi phụng tự khác được tu sửa và xây dựng thêm ở khắp nơi. 

Về mặt chăm lo sức khỏe toàn dân và ngăn ngừa bệnh tật lây lan, cùng với việc tu bổ các bệnh viện đã có, chính quyền còn xây dựng thêm nhiều bệnh viện lớn ở những khu thành thị và những trạm y tế ở miền quê hẻo lánh. Dân nghèo có thể được khám bệnh và chữa trị miễn phí ở các bệnh viện công. Đội ngũ y, bác sĩ và nhân viên y tế cũng được tăng cường với số người được đào tạo tăng rất nhiều lần so với thời Pháp thuộc. Về mặt ổn định đời sống người dân ở nông thôn và phát triển nông nghiệp ở miền Nam, chương trình cải cách điền địa được tiến hành nhằm đem ruộng cho dân cầy qua việc thu mua hợp lý từ các địa chủ đề chia cho người nghèo, không có ruộng canh tác. Về mặt chăm lo cô nhi quả phụ, với những gia đình có người thân đã hy sinh mạng sống cho tổ quốc, chính phủ có chính sách trả tiền tử tuất hàng tháng để cuộc sống họ được bảo đảm và mở các trường quốc gia nghĩa tử để lo cho tương lai con em họ. 

Chính sách phát triển kỹ nghệ cũng được nghiên cứu kỹ lưỡng và thực hiện qua việc lập các khu kỹ nghệ để tiến đến khả năng tự túc về các sản phẩm may mặc, tiêu dùng hàng ngày. Chính phủ luôn kêu gọi toàn dân tiết kiệm, dùng hàng nội hóa để thúc đẩy sản xuất nội địa trên tinh thần tự lực cánh sinh, không lệ thuộc vào sự viện trợ từ bên ngoài. Chính phủ có đường hướng lâu dài về phát triển kỹ nghệ nhẹ và nông nghiệp để có thể xuất cảng, qua đó ngoại tệ thu về sẽ được dùng để xây dựng đất nước. 

Về mặt đối ngoại, nền đệ nhất Cộng Hòa đã thiết lập bang giao với hầu hết các nước lớn và có vị thế trên khắp thế giới. Vị thế của chính Việt Nam Cộng Hòa ngày càng nâng cao trên trường thế giới, đặc biệt là ở khu vực Đông Nam Á, nơi mà nhiều nhà lãnh đạo đã tỏ lòng kính trọng và ngưỡng mộ sự lãnh đạo của Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Chính Tổng Thống Eisenhower của Hoa Kỳ đã từng thán phục, hết lòng ca ngợi và xem ông như một Churchill của Á Châu.

Về công cuộc bảo vệ nền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ miền Nam khỏi sư xâm lăng của Cộng Sản quốc tế mà Bắc Việt đã tự nguyện làm tên xung kích, dễ dàng thấy rằng Bắc Việt đã sử dụng Việt Cộng như cánh tay nối dài để khuấy rối cuộc sống yên lành trước tiên của đồng bào vùng nông thôn với mục đích lũng đoạn và kiểm soát nơi này, rồi tiến tới sách lược bao vây thành thị và cuối cùng là hoạt động khuynh đảo chính quyền. Ngay từ đầu, anh em Tổng Thống Diệm đã nhìn ra âm mưu này của Cộng Sản Bắc Việt nên ra sức xây dựng nông thôn thành những đơn vị kinh tế, quân sự và hành chánh tự trị có sự giúp đỡ của nhà nước về mặt phát triển sản xuất, y tế, học tập và an ninh. Những khu trù mật, ấp chiến lược mọc lên ngày càng nhiều và lớn mạnh đã sàng lọc được Việt Cộng trà trộn vào dân để thừa cơ phá hoại thành quả xây dựng nông thôn, ám sát lãnh đạo địa phương, bắt thanh niên đi theo họ. Việt Cộng giờ đây dễ dàng lộ nguyên hình trước mặt chính quyền nên phải trốn chui nhủi, chứ không tự tung tự tác được nữa. Chính Cộng Sản sau này đã thú nhận rằng quốc sách Ấp Chiến Lược đã làm họ điêu đứng, khổ sở vô vàn và hoạt động chống phá hầu như tê liệt ở nhiều nơi. Cho đến năm 1963, Việt Cộng chỉ gây được tiếng vang qua trận Ấp Bắc xảy ra vào năm 1960 nhờ tính linh hoạt của chiến tranh du kích, tuy nhiên họ bị tổn thất về nhân mạng rất nhiều trong trận này. Tình hình quân sự ở miền Nam nhìn chung khả quan và đời sống người dân an lành, phát triển. Đã có ý kiến cho rằng nếu tình hình miền Nam vào giai đoạn này rối ren về mặt quân sự, có lẽ Tổng Thống Kennedy chưa muốn đưa quân Mỹ qua để đánh nhanh, rút gọn mà mang về chiến thắng làm bệ đỡ cho chiếc ghế Tổng Thống một nhiệm kỳ nữa.

Dựa trên những thành tựu to lớn, được thực hiện trong một thời gian ngắn kỷ lục, đủ thấy anh em Tổng Thống Diệm phải làm việc hăng say và căng thẳng như thế nào (ở đây cần nhận rõ là công việc của hai người bổ sung cho nhau và sẽ là một thiếu sót rất lớn nếu nhớ đến công lao của Tổng Thống Diệm mà không nhắc đến sự cống hiến to lớn của ông Ngô Đình Nhu - và cả của ông Ngô Đình Cẩn ở miền Trung nữa - vào việc kiến tạo và bảo vệ nền Cộng Hòa ở miền Nam), phải có một tận hiến về thời gian, sức lực và trí tuệ thì họ mới giải quyết được một cách tốt đẹp hầu như mọi vấn đề nan giải của miền Nam vào lúc đó. 

Thử tưởng tượng bao nhiêu suy tư, đắn đo trong việc chọn lựa phương sách, bao tâm huyết phải đổ ra để đối phó với nào thực dân Pháp, nào là Cộng Sản và ngay cả với đồng minh Mỹ của mình. Thực dân Pháp thì luôn hậm hực về thất bại của mình ở Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng, đang tìm cách quay lại để bảo vệ các quyền lợi béo bở của mình, họ luôn tìm cách đưa lên vị trí lãnh đạo tay sai sẵn sàng phục tùng mệnh lệnh của họ hoặc sử dụng các thành phần ly khai thân Pháp để quấy rối cả về mặt chính trị và quân sự đối với chế độ mới. Cộng Sản thì mong sao lợi dụng được những thử thách to lớn về mọi mặt mà nhà nước non trẻ này đang phải đương đầu để tiến hành xâm chiếm miền Nam bằng vũ lực. Còn Mỹ thì không muốn thấy ảnh hưởng của Pháp ở Đông Dương để toàn tâm, toàn lực thi hành kế hoạch ngăn chận sự bành trướng của khối Cộng Sản ở vùng Đông Nam Á, rồi đây có thể làm suy yếu vị thế của Mỹ trong cuộc đọ sức giữa khối Tư Bản mà dẫn đầu là Mỹ với khối Cộng Sản Quốc Tế. Tuy xem miền Nam là đồng minh trong công cuộc chống Cộng, Mỹ không quan tâm nhiều đến những quyền lợi cốt lõi, sinh tử của miền Nam trong cuộc chiến tranh này mà chỉ chú trọng đến quyền lợi riêng của mình. Sự đóng góp của anh em Tổng Thống Diệm trong việc khai sinh, bảo vệ và phát triển mọi mặt một nền Cộng Hòa tiến bộ mà lúc bấy giờ thật hiếm thấy ở Đông Nam Á, ngay cả Á Châu vì thế đã vượt qua giá trị của việc thi hành bổn phận thông thường của bậc nguyên thủ quốc gia mà hơn thế nữa, chứng tỏ rằng những việc làm của hai ông là một hy sinh vô tận cho đất nước và dân tộc.

Có lẽ chỉ đến khi miền Nam sụp đổ hoàn toàn vào tay Cộng Sản thì tất cả những ai, dù ở cương vị nào trong xã hội, hoặc trực tiếp hay gián tiếp góp phần vào việc phá hủy nền đệ nhất Cộng Hòa và sát hại những người khai sinh ra nó mới dần ý thức được trách nhiệm của mình. Lỗi là của những ai vì tham quyền lợi, danh vọng, sẵn sàng phản bội kẻ bề trên. Lỗi ở nơi những ai không nhiệt thành dùng sức lực, trí tuệ để xây dựng và bảo vệ đất nước mà trong chờ vào ngoại bang. Lỗi ở nơi những ai vì quyền lợi phe phái, tham vọng chính trị cho bản thân mà quên đi trách nhiệm đóng góp vào sự nghiệp chung, trái lại sẵn sàng đánh đổ thành quả kẻ khác tạo dựng cho đất nước để gây thanh thế cho mình. Lỗi ở nơi những ai không có ý thức về trách nhiệm công dân trong cảnh nước nhà nguy biến. Lỗi những ai không có ý thức chính trị, để cho kẻ khác độc quyền chính trị, làm thay và định đoạt số phận của mình. Lỗi nơi những người mù lòa, không phân biệt giả, chân, phải, trái…Thật đáng tiếc khi Thượng Đế ban tặng cho dân tộc Việt Nam một món quà nếu không muốn nói là một gia tài tuyệt vời mà dân tộc này không giữ được. Phải chăng người nhận quà ban tặng phải xứng đáng với nó? Một dân tộc thất bại, có thể tiến về phía trước, mở ra những trang sử sáng lạng trong tương lai nếu nhận biết lỗi lầm, rút ra được bài học và đừng để chúng tái diễn.

Anh em Tổng Thống Diệm mất đi nhưng di sản của các ông để lại thì rất lớn và còn mãi đến ngày nay. Đó là một nền dân chủ mặc dù non trẻ, chưa giàu kinh nghiệm nhưng đã đủ khả năng lèo lái con thuyền quốc gia đi đúng hướng, phát triển theo đà văn minh của nhân loại, không một lỗi lầm nào so với những lỗi lầm nghiêm trọng có ý nghĩa sinh tử mà Cộng Sản gây ra cho đất nước và dân tộc Việt Nam ngày hôm nay. Nhắc đến chế độ của Tổng Thống Diệm, người ta nghĩ đến một đất nước có luật pháp nghiêm minh, kỷ cương từ trên xuống dưới, quân đội và cảnh sát dùng để bảo vệ đất nước, nhân dân, thiết lập trật tự xã hội chứ không phải là công cụ đàn áp và kềm chế người dân trong một nhà nước độc tài, toàn trị. Nói đến xã hội thời Tổng Thống Diệm, người ta không quên một xã hội sung túc, đầy đủ về mặt vật chất, nhân ái, đạo đức về mặt tinh thần, thông minh, sáng tạo về mặt kiến thức, trí tuệ, xây dựng đất nước về mọi mặt. 

Tưởng niệm về Tổng Thống Diệm, người ta thấy rõ tấm lòng yêu nước, thương dân của ông như ánh trăng vằng vặc, sáng ngời. Cả đời ông cống hiến cho sự độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của non sông, sự ấm no và hạnh phúc của đồng bào, ông chưa bao giờ màng đến danh vọng, địa vị, của cải thế gian hay hạnh phúc riêng tư. Cái chết thê thảm của anh em Tổng Thống Diệm, dưới mắt người đời coi là nhục nhã, nhưng kỳ thực đó là cái chết rạng ngời, minh chứng cho tinh thần độc lập, bất khuất của nòi giống Lạc Hồng, không bao giờ khuất phục trước ý chí ngoại bang. Suốt cả thời gian 9 năm lãnh đạo đất nước, anh em ông luôn đề cao tinh thần tự lực, tự cường, ý chí phát triển đất nước và dân tộc dựa trên sức mình là chính, không ỷ vào viện trợ nước ngoài mà tìm cách chấm dứt điều đó càng sớm càng tốt. Thật là một trò cười cho những kẻ vu khống anh em ông là tay sai, là bán nước, là bù nhìn cho Mỹ! Liệu miền Nam có thể tồn tại chỉ bằng dựa vào sức của mình mà không liên kết với bất cứ đồng minh nào cùng mục tiêu chống cộng trong khi phe Cộng Sản quốc tế dốc toàn lực để thôn tính vùng Đông Nam Á? Anh em Tổng Thống Diệm đã chọn giải pháp đúng đắn nhất lúc bấy giờ là đồng minh với Mỹ. 

Mặt khác, sự đề cao tinh thần độc lập dân tộc nơi anh em Tổng Thống Diệm là một việc làm khôn ngoan, chứng tỏ hai ông có viễn kiến chính trị. Chúng ta nên nhớ rằng Cộng Sản quốc tế với chiêu bài giải phóng các dân tộc bị áp bức trên thế giới, luôn lên án chủ nghĩa dân tộc là hẹp hòi, ích kỷ, cần phải đấu tranh để xóa bỏ mà thực hiện vô sản hóa và đoàn kết lại toàn thế giới. Thật là một ảo tưởng vĩ đại cho những đất nước nhỏ được quyền bình đẳng với các nước Cộng Sản lớn trên thế giới: một hạt đường nhỏ cho vào một ly nước muối sẽ không bao giờ còn ngọt nữa. Cứ nhìn những nước láng giềng bị nước Nga cộng sản thôn tính thì đã rõ. Bình đẳng chỉ thực sự đạt được ở những đối tác đồng lực, đồng tài. Vậy mà Cộng Sản Bắc Việt vào thời điểm đó đã u mê tự nguyện làm chư hầu, lãnh trách nhiệm của tên lính đánh thuê cho Nga, Tàu để đưa đất nước đến chỗ hoang tàn vì chiến tranh, chia rẽ vì hận thù, đói nghèo, lạc hậu vì ngu dốt và phi nhân, lẻ loi và cô độc vì tự tách mình ra khỏi xu thế tiến bộ và văn minh của loài người!

Di sản của chế độ Tổng Thống Diệm dẫu không được nền đệ nhị Cộng Hòa thừa hưởng trọn vẹn vì một số lý do, nhưng ở nhiều mặt là nền tảng cho sự phát triển của miền Nam sau này. Sự tồn tại của hai nền Cộng Hòa mà cái trước là điều kiện cho cái sau, trong khoảng thời gian 21 năm là một ký ức đặc thù, sẽ tồn tại mãi trong lịch sử nước nhà Việt Nam như một thời kỳ phát triển đất nước còn dở dang, qua đó những ai đang thất vọng về một đất nước Việt Nam, một con người Việt Nam thật đáng hổ thẹn ngày hôm nay, được biết rằng đã có một thời đáng tự hào cho đất nước và dân tộc mà ta có thể nhìn vào đó để rút ra những bài học cho tương lai, nhìn vào đó như một ngọn hải đăng soi đường cho những con thuyền còn lao đao trong bão tố mịt mùng và bóng đêm mê muội.

Đối với những điều bịa đặt, thêu dệt thì sự thật như ánh sáng trong vùng tăm tối, như hồi chuông lanh lảnh vang xa trông không gian tịch mịch, như trầm hương thiêng liêng tỏa ngào ngạt muôn nơi, không một ai hay một thế lực nào có thể che đậy hay hủy diệt được. Sự thật đã thoát ra, vươn lên trên mọi thứ giả dối, tầm thường để phô bày rõ ràng, không một nét mơ hồ, không một vùng tăm tối, tất cả những gì thực sự xảy ra trong quá khứ. Để nhận ra nó, chỉ cần một tấm lòng vô tư, trong sáng, hướng thiện.

Anh em Tổng Thống Diệm đã sống ung dung những giờ phút cận kề cái chết vì ý thức rằng mình đã và đang thực hiện những điều đúng đắn, có ích cho quốc gia, dân tộc. Do vậy, hai ông luôn chủ động trong tư tưởng, hành động của mình, không một chút sợ hãi, không một gợn âu lo cá nhân, có chăng, là cho tương lai của đất nước và dân tộc. Có cái chết nào đẹp và cao quí hơn cái chết cho người mình yêu? Đó là đất nước và dân tộc Việt Nam hai ông hằng yêu mến và đem hết cuộc đời mình ra để bảo vệ. Vì người mình yêu mà phải chấp nhận một cái chết oan khiên, tức tưởi, tủi nhục và cô đơn. Lạ kỳ thay, cái chết đó đã tỏa hào quang của sự thánh, vượt lên trên cái chết tầm thường để sống mãi trong lòng những người kính yêu hai ông. Thân xác anh em ông đã nằm lại trong lòng tổ quốc, san sẻ từng giai đoạn đau thương của quốc gia, dân tộc, như một gắn bó sắc son. Anh em ông chết đi để cho đất nước và dân tộc mình yêu thương hết mình được sống trong chính nghĩa từ đó và mãi về sau. Chính nghĩa của nền Cộng Hòa mà hai ông sáng lập có lẽ sẽ ít ra là sáng mãi trên những trang sử dân tộc sau này nếu không là sống lại và tỏa hào quang một khi vận hội mới đến sẽ mang lại một chính thể ít nhiều đặt nền tảng trên những tư tưởng lập quốc nhân bản của hai ông.

Tưởng niệm anh em Tổng Thống Diệm để luôn nhớ về những người con ưu tú đất Việt mà sự ra đi của họ trong lúc đương còn nhiệt huyết, chí khí và hoài bão để cống hiến là một mất mát to lớn không gì bù đắp nổi cho đất nước và dân tộc. Anh em Tổng Thống Diệm đã tiếp nối con đường của cha ông thuở trước, sẵn sàng hy sinh thân mình để giữ vững nền độc lập và tự chủ của nước nhà. Máu của hai ông đổ xuống, hòa máu đào của bao đấng anh hùng, hào kiệt đã sống hiên ngang, và chết oanh liệt, hiển linh từ ngàn xưa trên dãi gấm vóc kéo dài từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau. Thử nghĩ về Việt Nam ngày hôm nay sẽ như thế nào nếu hai ông đã không thọ nạn vào cái ngày định mệnh của Việt Nam, ngày 2 tháng 11 năm 1963? Mặc dầu các ông đã không thực hiện được hết những hoài bão của mình cũng như những điều mà đất nước còn mong chờ, các ông đã hoàn thành được những gì có thể làm trong giới hạn của hoàn cảnh lịch sử một cách chu đáo và tận tụy. Giờ đến lượt chúng ta. Chúng ta phải làm gì để đáp lại lời đất nước vẫn còn đó?

2/11/2015

Tiếc thương cho nền Đệ Nhất Cộng hòa!

Trúc Giang (Danlambao) - Ngày này cách đây 52 năm (1/11/1963), dưới sự “bảo kê” của chính quyền tổng thống Mỹ Kennedy, các tướng tá “xôi thịt” của chính quyền Sài Gòn mà kẻ cầm đầu là Dương Văn Minh đã làm cuộc đảo chính lật đổ chính thể mà họ gọi là “gia đình trị” Ngô Đình Diệm. Điều tồi tệ và tàn bạo nhất là họ đã ra tay sát hại tổng thống Ngô Đình Diệm và người em trai của ông là cố vấn Ngô Đình Nhu. Cuộc đảo chánh và sát hại 2 anh em họ Ngô đã gây chấn động dư luận và góp phần khai tử nền đệ nhất cộng hòa trong nuối tiếc của người dân miền Nam và các chính khách ở khu vực và trên thế giới.

Hơn nửa thế kỷ qua, các tài liệu mật lần lượt được hé mở và các nhà nghiên cứu đều thống nhất rằng: quyết định lật đổ tổng thống Ngô Đình Diệm lúc đó của chính quyền tổng thống Kennedy là cực kỳ sai lầm. Tuy nhiên, đó là sai lầm mang tính lịch sử và ngay cả ông Kennedy cũng không có cơ hội sửa sai vì chưa đầy 3 tuần sau đó, ông Kennedy cũng bị bắn chết khi đang vận động tranh cử tại quê nhà Dallas. Không biết lúc đó chính quyền tổng thống Kennedy chịu sức ép từ hậu trường của các nhà tài phiệt vũ khí của Mỹ như thế nào nhưng việc đảo chính loại bỏ một nhân vật yêu nước và cực kỳ chống cộng thì nó chẳng mang lại lợi ích gì đối với một đồng minh như Mỹ. 

Nên nhớ, lúc sinh thời tổng thống Ngô Đình Diệm là người rất yêu nước và không muốn Mỹ đưa quân vào miền Nam tham chiến vì ông sợ khi đó sẽ không còn chính nghĩa khi chống cộng sản. Đáng tiếc tầm nhìn xa trông rộng của ông chính quyền tổng thống Kennedy không nhìn thấy và hậu quả là sau khi lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm, 3/1965 Mỹ đem quân tham chiến ở Việt Nam và một khi lý tưởng chống cộng không còn chính nghĩa vì có yếu tố nước ngoài tham chiến thì Mỹ dễ dàng bị cộng sản lợi dụng, tuyên truyền là kẻ xâm lược và hậu quả là sa lầy và tháo chạy khỏi Việt Nam là điều không thể tránh khỏi.

Thực ra, tổng thống Ngô Đình Diệm là nạn nhân của Mỹ và cộng sản mà nguyên nhân chính là do tinh thần yêu nước đến mức cực đoan mà ông bị họ gán cho cụm từ chế độ “gia đình trị” tàn ác: nào là đàn áp phật giáo, nào là áp dụng luật 10/59 “lê máy chém khắp miền Nam” như lời cộng sản rêu rao. Không cần phải nhiều lời biện hộ cho ông, chỉ biết rằng những giá trị cốt lõi nhất về giáo dục, về đạo đức của nền đệ nhất cộng hoà ngày nay vẫn được dân chúng hoài tưởng trong nuối tiếc. Khi hay tin ông bị sát hại, các ông Tưởng Giới Thạch, Lý Quang Diệu đều khóc cho nền đệ nhất cộng hòa và nói rằng cả trăm năm sau Việt Nam chưa có ai lo cho nước, cho dân và chống cộng đúng lý tưởng như ông Diệm. Còn việc nói ông tàn ác, thiết nghĩ không có bằng chứng nào rõ ràng hơn khi dẫn chứng một bài viết từ truyền thông cộng sản khi nói về nhân chứng sống - nhân vật ám sát ông ở Buôn Mê Thuộc 2/1957

Mải lo mưu sinh giật mình nhìn lại tháng 11 lại về. Vài dòng thay cho nén nhang tiếc thương tưởng nhớ đến Ông và nền đệ nhất Cộng hòa!

SG, 01/11/2015

Chuyến viếng thăm của Tập Cận Bình phải hủy bỏ lập tức

Ảnh: FB Paulus Lê Sơn 
LS Đào Tăng Dực (Danlambao) - Trong các quốc gia tranh chấp chủ quyền hải đảo và chủ quyền trên toàn bộ Biển Đông thì Việt Nam và Philippines là 2 quốc gia bị ảnh hưởng nhiều nhất. Có thể nói, Việt Nam bị ảnh hưởng nhiều hơn Philippines vì Biển Đông là cửa mở duy nhất ra vùng biển của Việt Nam, trái lại Philippines là một quần đảo và có nhiều cửa ngõ khác ra toàn vùng Thái Bình Dương.

Trong khi chính quyền dân chủ Philippines đã có hùng tâm tráng chí đứng trên quan điểm dân tộc, đưa Trung Quốc ra Tòa Án Trọng Tài Thường Trực LHQ và ngày 29 tháng 10 vừa qua, tòa án này đã chính thức chấp nhận đơn kiện của Philippines, thì chính quyền độc tài CSVN ngoan cố tiếp tục đứng trên lập trường ý thức hệ Mác-Lê, xưng huynh đệ với đàn anh ý thức hệ CSTQ và cương quyết không đưa CSTQ ra tòa án náy.

Chấp nhận đơn của Philippines là một thắng lợi lớn trên nguyên tắc cho Philippines vì điều này chỉ xảy ra khi tòa án quyết định là mình có thẩm quyền pháp lý (jurisdiction) để giải quyết và đưa ra phán xét căn cứ trên công pháp quốc tế và luật hàng hải hiện hành. Điều này cũng có nghĩa là tòa án đã bác bỏ lập luận của CSTQ là tòa không có thẩm quyền phán xét.

Nguy hiểm và hèn nhát hơn nữa là CSVN lại mời chủ tịch nhà nước TQ Tập Cận Bình thăm viếng Việt Nam như một quốc khách, trong khi sự tranh chấp pháp lý đang xảy ra và tuy Việt Nam không phải là một thành phần tham dự (party to the litigation) nhưng là một quan sát viên (observer) và thành phần liên hệ (interested party). Sự kiện Tập Cận Bình được chính quyền CSVN chính thức mời như một quốc khách, trong khung cảnh một cuộc tranh chấp pháp lý về chủ quyền tại Biển Đông, sẽ được diễn dịch như một lối hành xử (conduct) ủng hộ cho lập luận về chủ quyền của Trung Quốc, hoàn toàn bất lợi cho Việt Nam, trong những tranh chấp pháp lý tương lai. Trên phương diện pháp lý, lối hành xử (conduct) của một nguyên cáo hay bị cáo luôn được diễn giải như một phần của toàn bộ chứng cớ (body of evidence) và có thể ảnh hưởng đến sự phán xét chung quyết của một pháp đình.

Sự kiện chính quyền CSVN mời Tập Cận Bình thăm viếng chính thức Việt Nam vào lúc này là một hành động thiếu suy nghĩ, thiếu viễn kiến, di hại cho quyền lợi quốc gia dân tộc và phải bị cương quyết lên án bởi toàn dân trong lẫn ngoài nước.

Tôi cũng xin lập lại sách lược đối đầu dài hạn với CSTQ tại Biển Đông, trong khung cảnh Hiệp Ước Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương TPP mà tôi đề nghị phải như sau:

Công pháp quốc tế tuy phức tạp nhưng căn cứ trên một số khái niệm chính bao gồm: sức mạnh (force), lẽ phải (justice), tình trạng thực tế (de facto) và tính pháp lý (de jure).

Trong tương quan hoặc xung đột giữa những quốc gia tại Biển Đông, kẻ mạnh nhưng thiếu chính nghĩa như Trung Quốc, vì không có lẽ phải, nên chỉ còn sử dụng sức mạnh, chiếm cứ Hoàng Sa và Trường Sa, xây dựng căn cứ quân sự và các vùng phòng không, bất chấp lẽ phải và luật quốc tế về biển.

Trong khi đó, những kẻ vừa có sức mạnh, vừa sinh hoạt trong môi trường dân chủ như Hoa Kỳ và Nhật Bản thì sử dụng cả 2 yếu tố là sức mạnh và lẽ phải, chấp nhận sự phán quyết của các tòa án quốc tế.

Chiến thuật của kẻ mạnh và thiếu lẽ phải hoặc chính nghĩa như Trung quốc là dùng sức mạnh, biến một sự xâm lăng trắng trợn thành một tình trạng thực tế (de facto) mọi người phải công nhận, và với thời gian, nếu sự phản đối của đối thủ yếu ớt, thì sẽ chuyển thành một tình trạng có tính pháp lý (de jure) và sẽ được các tòa án quốc tế thừa nhận.

Tại một số quốc gia pháp trị tây phương có khái niệm luật gọi là “adverse possession”. Theo luật này, nếu ông A có một căn nhà. Bà B đến chiếm cứ ở và không trả tiền thuê. Nếu ông A không làm gì cả thì một thời gian dài sau (chẳng hạn 15 năm) thì Bà B có thể khai với chính phủ và chính phủ sẽ chuyển căn nhà qua tên Bà B theo khái niệm luật “adverse possession”.

Ý nghĩa cốt lũy của khái niệm này là: khi một người, hoặc một quốc gia có chủ quyền thì phải phát huy tích cực chủ quyền đó. Nếu không thì không xứng đáng giữ chủ quyền.

Trong tình huống tranh chấp giữa Trung Quốc và Việt Nam tại Biển Đông, chủ trương “không làm gì hết” của CSVN là hoàn toàn rơi vào bẫy của Trung Quốc. Sự kiện công hàm Phạm Văn Đồng năm 1958, sự kiện Lê Đức Anh và Bộ Chính Trị CSVN ra lệnh cho lính Việt Nam không được nổ súng tự vệ tại Gạc Ma 1988 hiện giờ chỉ là những biến cố có tính tình trạng thực tế (de facto). Tuy nhiên khi phối hợp với sự tiêu cực trong việc bảo vệ chủ quyền (chẳng hạn khi so sánh với Phi Luật Tân) thì trong 10-15 năm nữa, sẽ đưa đến một tình trạng công nhận chủ quyền của Trung Quốc có tính pháp lý (de jure). 

Lúc đó, thực sự như TQ tuyên bố là chủ quyền của họ là “không thể tranh cãi” trên cả hai bình diện de facto lẫn de jure.

Đảng CSVN đáng lẽ phải làm rầm rộ chiến đấu với TQ trên mọi phương diện, từ ngoại giao, quân sự (ở mức độ giới hạn nhưng phải cương quyết), kinh tế, công pháp quốc tế về luật biển và sử dụng mọi phương tiện trong tầm tay của mình.

CSVN vì lệ thuộc quá nhiều vào CSTQ để nắm quyền cai trị, đồng thời cũng kỳ vọng vào CSTQ can thiệp quân sự vào Việt Nam, cứu nguy cho chế độ, trong tình huống nhân dân đứng lên lật đổ, nên chỉ phản đối chiếu lệ bằng những lời tuyên bố vô giá trị. 

Trong khi Phi Luật Tân ngang nhiên đối đầu với TQ tại Tòa Án Trọng tài Thường Trục (Permanent Court of Arbitration) thì Việt Nam không dám nộp đơn như một nguyên cáo mà chỉ cho ý kiến, đồng thời minh thị tuyên bố tuyệt đối tuân thủ đề nghị thương thuyết song phương với TQ. 

Trong khi hải quân và không quân Hoa Kỳ ngang nhiên thử thách vùng nhận diện phòng không của TQ thì CSVN làm ra vẻ khôn lanh “tọa sơn quan hổ đấu” để chôm credit. 

Trong khi hải quân Indonesia ngang nhiên nổ súng đánh chìm tàu đánh cá TQ xâm phạm lãnh hải của mình, thì CSVN để mặc cho ngư dân Việt Nam bị tàu TQ và hải quân TQ xua đuổi và giết hại mà không dám gọi tên là tàu TQ mà chỉ gọi là tàu lạ.

Sự thiếu ý thức và trách nhiệm của họ không những phản bội di sản của tổ tiên, phương hại đến các thế hệ mai sau, mà còn triệt tiêu sinh lộ của chính đảng CSVN trong lịch sử đất nước.

Các thành phần thân Trung Quốc và thậm bảo thủ hoặc đã bán nước như các ông Lê Đức Anh, Nguyễn Phú Trọng, Phạm Văn Đồng, Phùng Quang Thanh, Phạm Quang Nghị, Nguyễn Chí Vịnh, Đinh Thế Huynh sẽ là những tội nhân thiên cổ.

Lập trường đứng đắn của một chính phủ của dân, do dân và vì dân là:

1. Theo gương hoặc cùng với Phi Luật Tân nộp đơn kiện CSTQ như một nguyên cáo trước Tòa Trọng Tài Thường Trực nêu trên.

2. Triệu hồi Đại Sứ Việt Nam tại TQ về nước, trục xuất Đại Sứ TQ tại Việt Nam và không tái lập bang giao cấp đại sứ cho đến khi TQ trao trả chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa và những lãnh thổ và lãnh hải chiếm qua những biện pháp bất bình đẳng cho Việt Nam.

3. Thương thuyết với Hoa Kỳ, Nhật Bản, Úc Đại Lợi, Phi Luật Tân, Mã Lai, Singapore và Nam Dương hầu tạo thành một liên minh quân sự chống bá quyền TQ.

4. Nhanh chóng xúc tiến tiến trình dân chủ hóa đất nước hầu mọi thành phần dân tộc (không phải chỉ có cộng sản) đều tham gia dựng nước và giữ nước.

5. Xây dựng và trang bị cho quân đội bằng vũ khí hiện đại của Hoa Kỳ, không phải của Nga Sô. Nên nhớ khi 6 triệu dân Do Thái đối đầu với hằng trăm triệu dân Á Rập. Do Thái thắng phần lớn vì họ sử dụng vũ khí Hoa Kỳ và Á Rập sử dụng vũ khí Nga. Trên chiến trường thực sự, phẩm chất của vũ khí còn quan trọng hơn cả số lượng vũ khí.

6. Cải tổ và triệt để tư bản hóa kinh tế, chú trọng nhiều hơn vào ngoại thương với Hoa Kỳ, Nhật Bản. Liên Hiệp Âu châu thay vì lệ thuộc quá nhiều vào TQ. Hiệp Ước Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) là một cơ hội tuyệt vời, với điều kiện CSVN thực tâm cải tổ xã hội dân sự và chuyển hóa dân chủ một cách sâu rộng, hầu đạt đến một nền dân chủ hiến định, pháp trị và đa nguyên chân chính.

Những phản ứng chiếu lệ và mỵ dân của đảng CSVN bây giờ, nhất là quyết định mời Tập Cận Bình thăm viếng Việt Nam trong bối cảnh tranh chấp pháp lý tại Biển Đông, hoàn toàn đi ngược lại quyền lợi của dân tộc và sự vẹn toàn lãnh thổ của tổ quốc Việt Nam.

VII - Những ngày 'Cải Cách Ruộng Đất' kinh hoàng trên quê ngoại của tôi

1- Quê ngoại Phú Minh yêu dấu của tôi

Tôi lững thững đi theo anh cả về quê ngoại vào một buổi sáng cuối đông lạnh lẽo. Hai bên đường số Một, nhiều ruộng lúa chiêm đã cấy xong, ngọn lúa xanh mơn mởn ngút ngát cánh đồng. Những đàn cò trắng bay ngang lưng trời thong thả sải cánh. Thỉnh thoảng một vài đàn cò hạ cánh xuống những ruộng lúa vừa mới cấy xong bắt tôm bắt cá.

Đường từ nhà ba mẹ tôi đến quê ngoại dài tới hơn ba mươi cây số nên chúng tôi cứ đi bộ thủng thẳng vừa đi vừa nghỉ. Đối với một cậu bé mới hơn mười tuổi đầu gần hai tháng trời nay phải chịu đói chịu khát như tôi thì đây là một chặng đường quá sức. Nhưng cứ nghĩ đến việc về quê ngoại sẽ được ăn no là tôi lại phấn chấn bước trên đường.

Qua thị trấn Nghèn của huyện Can Lộc rẽ tay phải chừng 3 cây số là đã đến xã Phú Minh, quê ngoại của tôi. Khác hẳn với quê nội tôi toàn nhà tranh vách đất, quê ngoại Phú Minh có rất nhiều nhà xây gạch lợp ngói. Quê ngoại hiện dần ra trước mắt chúng tôi là một vùng quê thanh bình bên con đường cái rộng thẳng tắp đến tận chân núi Hồng Lĩnh nối với con đường tam cấp lên tới Chùa Hương Tích trên lưng chừng núi ở độ cao 650 mét so với mặt biển. Dọc bên phải con đường cái lớn là một dòng suối nước trong veo từ trên đỉnh núi chảy về khá nhiều cá rô, cá bống.

Cụ ngoại của chúng tôi, cụ Bang Hoành là một vị thân sĩ chống Pháp nổi tiếng trong phong trào Cần Vương của Phan Đình Phùng. Cụ có nhiều người con đỗ đạt học rộng tài cao trong đó có nhà chí sĩ yêu nước Võ Liêm Sơn là ông bác ngoại đã nuôi mẹ tôi từ nhỏ nên chúng tôi vẫn gọi cụ Võ Liêm Sơn là ông ngoại, bởi ông ngoại ruột của tôi mất lúc mẹ tôi còn bé. Các cháu của cụ Bang Hoành và con cháu của cụ Võ Liêm Sơn chúng tôi đều gọi bằng cậu, bằng dì và ai cũng giàu có, nhà xây lợp ngói mấy tòa.

Mấy lần trước về quê ngoại, tôi ấn tượng nhất là ngôi nhà thờ của cụ Bang nay do một người cháu nội của cụ, cậu Chắt Thiện thờ phụng. Ngôi nhà thờ này đã có từ lâu đời rồi nên rất thâm nghiêm. Năm 1930, quê ngoại Phú Minh của tôi là một cơ sở của Xô Viết Nghệ Tĩnh nên nhà của cụ Võ Liêm Sơn và các ông bà bên ngoại của tôi đều bị bọn Pháp đốt phá và cướp hết tài sản vì họ là những người tham gia chống Pháp rất nổi tiếng. Nhưng riêng ngôi nhà thờ của cụ Bang thì hoàn toàn không bị giặc Pháp động tới. (Vậy mà trong CCRĐ vào mùa hè năm 1955, ngôi nhà thờ họ Võ của cụ Bang đã bị đập phá tan tành, toàn bộ đồ thờ cúng cùng các hoành phi câu đối đã bị đội CCRĐ đem chia quả thực cho bần cố nông trong xã).

Năm 1949 sau khi cụ Võ Liêm Sơn qua đời, cạnh bàn thờ của cụ còn dựng thêm một chiếc gậy tay cầm bằng ngà voi có khắc dòng chữ Hán của Hồ chủ tịch đề tặng. Nghe nói hồi ở Huế, cụ Võ Liêm Sơn đã học trước Nguyễn Tất Thành một lớp. Nhưng sự học của Tất Thành không được đến nơi đến chốn vì người cha làm quan phạm tội say rượu đánh chết người nên đã bị triều đình Huế thải hồi. Bởi vậy, ông ngoại tôi rất thương và đã có một thời gian cưu mang giúp đỡ. Đầu năm 1948, Hồ chủ tịch đã biên thư mời cụ Võ Liêm Sơn lên Việt Bắc gặp gỡ đàm đạo một tuần rồi tặng cụ cái gậy đó. Nhưng nghe nói trong khi đàm đạo, cụ Võ Liêm Sơn đã tỏ ra không tán thành việc Hồ chủ tịch đã quá lệ thuộc dựa dẫm vào người Tàu để đánh Pháp nên cụ nhất định đòi về. Trở về đến quê chỉ khoảng một thời gian sau là ông ngoại tôi đã bị lâm bệnh nặng rồi mất. Đó có lẽ cũng là một cái chết bí ẩn vì trước khi lên Việt Bắc, ông ngoại tôi vẫn còn khỏe mạnh bình thường. (Cái gậy Hồ chủ tịch tặng cụ Võ Liêm Sơn này cũng đã được đội CCRĐ chia quả thực cho một người cố nông mang đi chăn bò trên núi Hồng Lĩnh, sau này đã được đưa về bảo tàng Hồ Chí Minh tại tp Vinh, Nghệ An).

Đang vừa đi vừa suy nghĩ miên man như thế để cho quên chuyện đôi chân bấy giờ càng lúc càng díu lại thì cổng nhà cậu Thành, một người em ruột cùng cha khác mẹ của mẹ tôi đã hiện ra. Lúc đó đã xẩm tối nên cậu mợ tôi đã không nhận ra được hai đứa cháu xác xơ gần như ăn mày này đang ngồi bệt trước bậc thềm cổng. Mợ tôi liền hỏi vọng ra:

- Các cháu cần gì? Nhà còn khoai khô có lấy không?

Chờ mãi không thấy trả lời, cậu tôi phải ra tận cổng thì mới nhận ra chúng tôi đang vừa đói vừa mệt. Lúc đó mợ tôi mới chạy ra vừa mở cổng vừa khóc:

- Mợ xin lỗi các cháu! Vì ngày nào cũng có hàng đoàn con cháu địa chủ đi ăn xin ngồi trước cổng nên mợ không nhận ra các cháu. Trời ơi! Sao đứa nào cũng gầy xanh hốc hác thế này?

- Dạ, chúng cháu chào cậu mợ ạ! Nhà mẹ cháu bị quy địa chủ, thóc gạo khoai sắn đã bị tịch thu hết rồi. Hai tháng trời qua chúng cháu đã đi ăn xin nhiều nơi nhưng đi đâu cũng bị dân quân xua đuổi, nay không còn gì để ăn nữa. Cháu đưa thằng Văn về đi chăn trâu cho cậu mợ để kiếm cái ăn, thưa mợ!

Anh cả tôi lễ phép nói với cậu mợ Thành khi vừa vào tới trong nhà. Cậu Thành tôi lúc đó mới rơm rớm nước mắt, hỏi:

- Em út của các cháu nay mới hơn hai tuổi giờ biết lấy cái gì mà ăn để sống? Lần này thằng cả cố gắng mang gạo về để nấu cháo cho em út ăn nhé! Mẹ và các em cháu có ai làm sao không?

- Chúng cháu cám ơn cậu mợ, mọi người chỉ đói thôi ạ!

Anh cả tôi vừa nói vừa nhặt rau giúp mợ tôi chuẩn bị cơm tối. Tội nghiệp cậu mợ Thành lấy nhau đã bảy, tám năm rồi mà chưa có con nên nhà vắng tiếng trẻ con. Buồn lắm! Có mấy lần, cậu mợ Thành đã ngỏ lời xin mẹ tôi thằng em út của chúng tôi về nuôi nhưng mẹ tôi chưa đồng ý. Cậu mợ Thành ít ruộng nên không bị quy là phú nông hay địa chủ nhưng cuộc sống cũng dư dả. Lần này thấy chúng tôi về chơi lại còn xin ở lại thì mừng lắm.

Sáng hôm sau, hai anh em tôi cùng cậu Thành đã đi thăm nhà dì Quý, một người chị ruột cùng cha cùng mẹ của mẹ tôi. Ở Hà Tĩnh, các anh và các em trai của mẹ đều được gọi bằng cậu. Còn chị hay em gái của mẹ thì đều được gọi bằng dì, chứ không phân biệt chị thì gọi bằng bác, em mới gọi bằng dì như ở ngoài Bắc. Nhà dì Quý ở xóm khác nhưng không xa lắm. Nhà dì dượng Quý tôi nghèo, ít ruộng nhưng cũng đủ ăn, được quy là bần nông nên không bị đội giảm tô o ép gì cả. Gặp chúng tôi, dì đã khóc:

- Trời ơi, bấy lâu nay các cháu đói lắm phải không? Mẹ các cháu, các em cháu lấy gì mà ăn? Bảo mẹ đưa thằng út ra đây dì dượng nuôi cho không để nó chết đói mất đó! Thôi trưa nay mời cả cậu Thành ở lại để dì dượng thịt con gà cho các cháu ăn nhé!

- Chúng cháu cám ơn dì. Dì đừng bày đặt, chúng cháu ăn gì cũng được mà. Anh cả tôi nói thế nhưng nghe nói đến thịt gà thì mắt đã bừng sáng lên rồi.

Ăn cơm xong, dì Quý còn cho chục cân gạo để anh cả mang về quê. Buổi chiều cậu mợ Thành cũng cho chục cân gạo nữa mang về cho mẹ tôi để nuôi thằng út. Sáng hôm sau, cậu Thành lấy xe đạp chở anh cả tôi cùng hai chục cân gạo về tận quê nhưng còn ban ngày nên không vào nhà gặp mẹ tôi được.

Sau khi anh cả tôi về quê nội, cậu Thành mới dẫn tôi đi chào các cậu họ hàng thân thích bên mẹ tôi, nhưng không thể đến được các nhà đã bị quy là địa chủ vì đội giảm tô nghiêm cấm. Các cậu họ mà chúng tôi được đến chỉ là những gia đình mới bị quy thành phần phú nông thôi. Thóc lúa sắn khoai đã bị trưng thu để thoái tô cho tá điền rồi nên tất cả họ đều chịu cảnh thiếu ăn.

Đi loanh quanh cả buổi sáng thăm và chào hỏi các cậu Cháu Dị, cậu Chu, cậu Huấn, cậu Trì… Đi đến đâu, các cậu tôi cũng rất buồn, hỏi thăm mẹ tôi sức khỏe ra sao, ba tôi có về không… Đến thăm nhà cậu Chu, cậu ấy nói:

- Tội nghiệp mẹ cháu quá! Chưa đầy 10 tuổi đã phải mồ côi cả cha lẫn mẹ. Nếu ngày đó không có cụ Võ Liêm Sơn và bà Hàn ở Phát Não nuôi lớn thì không biết mẹ cháu sẽ thế nào. Cũng may mẹ cháu đã gặp được gia đình ông bà nội cháu là người phúc đức, thương yêu mẹ cháu như con đẻ. Nhà ba mẹ cháu nghèo vậy mà cũng bị quy là địa chủ thì đúng là hết chỗ nói rồi! Tội nghiệp anh em các cháu, nay biết lấy gì ăn để mà sống qua ngày đây?

Đến nhà cậu Huấn, thấy nhà cửa tan hoang. Chưa kịp ngồi xuống ghế, cậu ấy đã hỏi:

- Ông bà nội cháu bây giờ ra sao? Có khỏe không?

- Dạ bà nội cháu vừa bị ngã què chân mấy tháng nay nhưng ông nội cháu vẫn còn chống gậy đi ăn xin được, cậu ạ! Tôi nói lí nhí như sợ bị cậu ấy mắng vì thấy cậu có vẻ đang bực bội điều gì đó.

- Cậu đã mấy lần nói với ba cháu rồi. Đi làm cách mạng như ba cháu chỉ tổ làm khổ ông bà nội và mẹ cháu chứ có được ích gì cho người thân không? Có nuôi được các con không? Ủy viên thường vụ tỉnh ủy tỉnh Thanh Hóa thì mỗi tháng được phát mấy cân gạo nuôi con, hả? Cứ đi biền biệt như thế, ở nhà ruộng không ai cày cấy, phải phát canh thu tô nên bị quy là địa chủ phải bán hết mọi thứ trong nhà đi để thoái tô... Nhục quá! Chính ba các cháu là người đã rước voi về giày mã tổ đó, cháu có hiểu không?

- Thôi mà anh! Cháu còn nhỏ dại, anh đừng nói như thế làm cháu nó tủi thân anh Huấn ạ! Cậu Thành tôi nói vậy rồi bảo tôi chào cậu Huấn và dắt tôi đi sang nhà khác.

2- Các cậu tôi nói về chủ trương CCRĐ của Hồ chủ tịch

Cuối buổi sáng ấy, chúng tôi đến thăm cậu Chắt Thiện, người thờ phụng nhà thờ họ Võ thì tôi đã thực sự bị sốc. Cậu Chắt nhìn đứa cháu vừa gầy vừa xanh rồi quay sang cậu Thành vẻ bức xúc nói:

- Tôi không ngờ Hồ chủ tịch lại ác như thế! Ông ta đã ra tay tiêu diệt những ai? Tất cả những người đã dốc lòng ủng hộ cuộc kháng chiến chống Pháp 9 năm theo lời kêu gọi của ông ta, có đúng vậy không? Bà Nguyễn Thị Năm ở Thái Nguyên còn ủng hộ kháng chiến cả trăm cây vàng, bao nhiêu là tiền bạc, thóc gạo, còn cho cả hai thằng con đi bộ đội nữa…Vậy mà chính tay Hồ chủ tịch với bút danh C.B. đã viết bài báo “Địa chủ ác ghê” để vu cáo bà Năm những tội ác mà bà ấy không hề phạm để lấp liếm cho cái vụ xử tử hình một cách dã man người phụ nữ nhân hậu và yêu nước ấy! Thế mà nghe nói ông ta còn tìm mọi cớ để đổ lỗi cho các cố vấn Trung Quốc đã giết bà Năm! Các cố vấn Tàu do ông ta mời sang giúp, làm sao lại có thể vượt quyền chủ nhà được? Đó là luận điệu lừa bịp bọn trẻ con, lừa dối lũ nông dân mù chữ chứ làm sao bịp được thiên hạ, hả chú?

Cậu Thành tôi sợ xung quanh nghe thấy nên nhỏ nhẹ nói với cậu Chắt:

- Năm 1953 anh đang dạy học ở Thái Nguyên phải không? Anh Chắt có đi dự và chứng kiến vụ xử tử bà Nguyễn Thị Năm không mà anh nói mạnh mồm như thế? Theo tôi, chuyện này phức tạp lắm vì nó liên quan đến các cố vấn Trung Quốc, anh ạ. Biết đâu vụ án này do bọn Tàu xúi dục thì sao? Hồ chủ tịch là vị cha già của dân tộc! Có vị cha già nào lại nỡ giết oan cô con gái ngoan của mình không? Anh thử nghĩ mà xem!

- Đứa nào tôn vinh Hồ chủ tịch là cha già dân tộc, hả? Cha già dân tộc là người đã sinh ra cả dân tộc Việt Nam này à? Sinh ra cả Lạc Long Quân, sinh ra cả các Vua Hùng... và sinh ra cả bác Võ Liêm Sơn của chúng ta, người đã từng cưu mang ông ta trong lúc hoạn nạn ấy à? Hay Hồ chủ tịch còn là người đã đẻ ra cả cụ Nguyễn Sinh Sắc nát rượu từng đánh chết người ngày xưa ấy?

Cậu Thành tôi cố tìm cách ghìm cơn giận đang dâng trào trong cậu Chắt lại:

- Trần Dân Tiên là người đã tôn vinh Hồ chủ tịch “là cha già dân tộc” trong cuốn“Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ tịch” viết bằng chữ Hán anh đã đọc rồi còn gì nữa. Còn Trần Dân Tiên là ai thì lịch sử sẽ làm sáng tỏ. Nhưng theo tôi, chắc chắn hắn không phải là một người đàng hoàng. Bởi hắn viết như thế là phỉ báng cả dân tộc Việt Nam của chúng ta. Không chừng Trần Dân Tiên là một tên người Tàu cũng nên? Điều tôi muốn hỏi anh là, khi trực tiếp dự các buổi đấu tố bà Năm, anh thấy có điều gì bất thường không cơ?

- Khi nhìn thấy những kẻ đang hùng hổ đấu tố bà Năm, một bà láng giềng của bà Năm đã nói khẽ vào tai tôi: “Chúng là bọn lưu manh trong xã tôi đó. Năm đói 1945, thậm chí còn được ăn cháo phát chẩn của bà Năm nữa đấy. Nhưng tôi xin cam đoan với thầy Thiện là bà Năm không bao giờ thuê mướn bọn lưu manh này làm việc trong các đồn điền của bà ta đâu. Tất cả là bịa đặt, vu khống, thầy ạ! Chúng được ông đội trưởng đội CCRĐ hứa, ai đấu tố càng hăng sẽ được chia càng nhiều quả thực. Thế thôi!”

- Anh Chắt ơi, tôi biết anh không bao giờ nói dối. Nhưng những điều anh vừa nói là rất nguy hiểm cho tính mạng của anh và cả gia đình anh nữa. Ngày nào cũng có người rình mò quanh nhà của chúng ta. Nên nếu nhỡ chúng nghe được rồi báo cáo lên đội giảm tô thì sao? Tôi lạy anh! Anh đừng để cho thằng cháu nhà chị Trung phải nghe những điều như thế, nhỡ trẻ con dại miệng nói ra thì nó cũng sẽ bị chết oan đó anh ạ!

Khi về đến nhà, cậu Thành còn cho tôi biết thêm, cậu Chắt từng đỗ tú tài Tây toàn phần thời Pháp thuộc nhưng không ra làm quan mà xin đi dạy học. Cậu theo kháng chiến 9 năm nên cũng đã có 5 năm dạy bổ túc công nông cho kháng chiến tại huyện Đại Từ, Thái Nguyên. Tại đó cậu Chắt đã có một thời gian kết thân với bà Nguyễn Thị Năm. Do đó sau khi bà Năm bị hành hình, cậu ấy đã bỏ hẳn nghề dạy học về nhà cày ruộng. Hễ có dịp gặp người thân là cậu ấy lại nhắc đến vụ án đau thương đó bằng nỗi phẫn uất không kiềm chế được. Rồi cậu Thành xoa đầu tôi căn dặn:

- Người giận quá có thể hóa mất khôn! Cậu không biết trong cái câu chuyện mà cậu Chắt đã kể cho cậu cháu ta nghe hôm nay đã có bao nhiêu phần đúng, bao nhiêu phần sai. Nhưng việc cậu Chắt đã nói động chạm đến Hồ chủ tịch như vậy là không nên! Vì tay chân của Hồ chủ tịch có ở khắp nơi, nếu chúng tình cờ nghe được có phải là thiệt mạng rồi không? Cháu chớ có dại mồm kể lại cho bất cứ ai nghe chuyện này nhé. Tội chết đó cháu ạ!

Khoảng hơn chục ngày sau, cậu Viên Trạch ở bên thị trấn Nghèn sang chơi. Cậu Viên là một người cháu họ của cụ Ngô Đức Kế. Nghe nói anh em tôi từ Đức Lâm ra chơi nên cậu ấy sang để hỏi thăm về mẹ tôi. Đêm đó, cậu Viên đã ngủ lại nhà cậu Thành tâm sự suốt đêm. Đêm khuya tĩnh lặng, hai cậu nói chuyện với nhau rất khẽ nhưng tôi cứ cố lắng nghe nên không tài nào ngủ được. Đầu tiên, cậu Viên kể:

- Hôm nọ anh Xuân Diệu về quê chơi có ngủ ở nhà tôi một đêm. Tôi nói với anh ấy thế này: “Phần lớn con cháu của cụ Ngô Đức Kế nhà mình đều bị quy là địa chủ và phú nông rồi. Địa chủ thì khổ lắm vì không ai được tiếp tế cả. Cho nhau củ sắn, củ khoai, bát gạo cũng đều phải dấm giúi vào ban đêm. Tôi chưa thấy có thời đại nào lại tàn ác đến như thế, anh ạ. Anh xem cả dưới thời Pháp thuộc, người ta cũng đâu có dã man đến như thế! Bọn Pháp chỉ đàn áp người nào chống đối chúng. Còn thời cụ Hồ thì lại đi đàn áp tất cả những người đã từng ủng hộ cách mạng mới lạ đời chứ! Thật không thể nào tưởng tượng được. Nghe nói cụ Hồ đã ăn phải bã của bọn Tàu nên mới đổ đốn ra như thế! Hay cụ đã nghe theo lời Mao Trạch Đông chống lại cả dân tộc Việt Nam? Ở gần trung ương anh có biết gì hơn không? Hay cụ Hồ đang gặp phải sai lầm, hả anh?” Chú có biết Xuân Diệu đã nói sao không? Anh ấy nói:

- Đối với cụ Hồ, theo tôi mọi cái cụ đều đã tính kỹ. Tất cả mọi sự việc đều được diễn ra theo ý đồ của cụ từ đầu chí cuối nên không hề có cái được gọi là sai lầm đâu, chú Viên ạ! Tại sao cụ biết quá rõ bà Nguyễn Thị Năm là một người đã có công rất lớn đối với cách mạng mà cụ vẫn cho bắn? Tại sao biết bao nhiêu cán bộ đảng viên đã từng vào tù ra tội vì cách mạng mà cụ vẫn cho quy là “quốc dân đảng” rồi bỏ tù hoặc xử bắn? Vì cụ muốn thể hiện cho Liên Xô và Trung Quốc thấy, cụ cũng là một vị lãnh tụ cộng sản vĩ đại! Thắng thực dân Pháp mới chỉ là lãnh tụ giải phóng dân tộc thôi. Nay cụ còn muốn mình sẽ trở thành một vị lãnh tụ của phong trào cộng sản quốc tế lỗi lạc hơn cả Mao Trạch Đông và Stalin nữa cơ! Chú cứ nhìn vào đôi mắt Hồ chủ tịch mà xem. Đó là đôi mắt của một kẻ vĩ cuồng tham vọng tột độ. Tôi làm thơ nên tôi hay quan sát đôi mắt, cửa sổ của tâm hồn mà. Với những kẻ tham vọng tột độ như thế thì dù có bắn chết vài vạn người chứ có bắn chết cả một dân tộc để đạt được mục đích của họ thì họ cũng sẽ sẵn sàng!

- Những lời thì thầm ấy của Xuân Diệu làm tôi hoang mang quá chú Thành ạ! Cậu Viên nói tiếp: - Tôi đã bức xúc hỏi Xuân Diệu: “Vậy có hàng vạn người bị bắn oan ở các địa phương như thế, liệu cụ Hồ có biết không anh?”

Lúc đó, Xuân Diệu đã trả lời:

- Cụ Hồ biết chứ! Mỗi ngày có tới hàng trăm lá thư kêu oan gửi cho cụ, bọn thư ký đọc rồi báo cáo lại cho cụ nên cụ biết hết! Nhưng cụ Hồ không phản hồi vụ nào cả vì cụ thấy nó đang diễn ra theo ý đồ của cụ. Giả sử cụ Ngô Đức Kế, cụ Võ Liêm Sơn của chúng ta sống đến giờ và cũng bị đội CCRĐ bắn chết thì cụ Hồ cũng sẽ không can thiệp. Vì đối với những kẻ cuồng vọng như Hitler, như Stalin, như Mao Trạch Đông, như Kim Nhật Thành…thì mạng sống của người khác chỉ là như con sâu con kiến mà thôi, chú ạ!

Cậu Viên thổn thức kể tiếp:

- Tôi quá ngạc nhiên trước những đánh giá về Hồ chủ tịch của Xuân Diệu nên mới hỏi anh ấy: “Tôi nghe nói cụ Hồ quý anh và Cù Huy Cận lắm, mà sao anh lại đánh giá về cụ Hồ như thế?” Lúc đó Xuân Diệu mới phân bua:

- Ngoài Tố Hữu và một số văn nghệ sĩ cơ hội ra, cụ Hồ rất dị ứng với những văn nghệ sĩ chính trực nên làm gì có chuyện cụ Hồ quý chúng tôi! Chú biết vì sao không? Vì cụ sợ bọn văn nghệ sĩ sẽ đọc được những ý nghĩ thâm hiểm của cụ. Cụ Hồ là người không có tình yêu gia đình, không có tình bạn thuở ấu thơ, không có tình yêu nam nữ và thiếu thốn cả rất nhiều thứ tình yêu khác. Cụ duy nhất chỉ có một thứ tình yêu tột độ, đó là muốn được trở thành vị lãnh tụ lỗi lạc của giai cấp vô sản thế giới, nhưng cụ đã cố che đậy rất khéo. Cụ rất sợ những ai có thể đọc được thứ tình yêu sâu thẳm đó của cụ.

Cuối cùng, không ngờ cậu Viên Trạch đã nói với cậu Thành như những lời khẳng định:

- Những điều anh Xuân Diệu đã nói với tôi về Hồ chủ tịch tôi không tin lắm vì giới văn nghệ sĩ đôi khi rất đồng bóng. Khi yêu ai thì họ tâng người ta lên tận mây xanh còn khi ghét ai thì lại bôi nhọ người ta xấu xa hơn cả Việt gian bán nước, mặc dù họ chẳng có lấy một cứ liệu xác đáng nào cả.

Hôm sau tôi phải đi chăn trâu sớm nên không rõ cậu Viên Trạch đã ra về lúc nào. Trong quá trình đi chăn trâu trên quê ngoại, tôi đã quen một cô bé tên là Võ Thị Tần con gái lớn của ông Võ Nhân Cung ở xóm Năm vừa đẹp người vừa đẹp nết. Bé Tần cũng gọi cậu Thành của tôi bằng chú nên chỉ một thời gian ngắn sau là chúng tôi đã khá thân nhau.

3 - Đội CCRĐ đã về trên quê ngoại của tôi

Cậu mợ Thành biết đội CCRĐ cùng với cố vấn Trung Quốc đã về phát động nông dân tại quê ngoại của tôi cả tháng nay nhưng tôi và Tần không hề hay biết. Xã Thiên Lộc là tên mới của xã Phú Minh do đội CCRĐ vừa đặt. Đó là tên ghép của hai đảng viên đảng cộng sản Đông Dương đã bị Pháp xử tử hình ngay tại Phú Minh năm 1930. Thiên là tên một người quê ở Nghệ An, còn Lộc chính là tên người chú ruột Võ Quê thân yêu của mẹ tôi.

Phú Minh là một trong những cái nôi của Xô Viết Nghệ Tĩnh năm 1930 nên các cố vấn Trung Quốc đã rất đặc biệt chú ý. Họ đã hướng dẫn đội cải cách ruộng đất cách tìm rễ, xâu chuỗi để âm thầm phát động quần chúng. Sau này tôi mới được biết, việc đầu tiên của đội CCRĐ là giải tán các tổ chức chính quyền tại địa phương rồi họ sẽ lập ra các tổ chức của chính quyền mới nằm dưới quyền kiểm soát của đội CCRĐ. Họ sẽ không dựa vào toàn dân mà chỉ dựa vào đội ngũ cốt cán, chuỗi rễ được chọn ra từ những gia đình cố nông không có ruộng đất, càng cầu bơ cầu bất lưu manh trộm cắp càng tốt. Còn các cán bộ cũ của xã trong cuộc kháng chiến 9 năm, người thì bị bắt, người thì bị đuổi việc vì nghe nói họ đều theo quốc dân đảng phản động cả.

Và cái ngày phải đến đã đến. Một buổi tối mùa hè năm 1955, UBND xã Thiên Lộc đã long trọng tổ chức một buổi mít tinh để phát động cuộc CCRĐ long trời lở đất này. Ông chủ tịch mới của xã do đội CCRĐ vừa chỉ định đã lên đọc diễn văn. Ông này người gốc xã khác, bao năm nay dân làng không biết họ tên nên vẫn quen gọi là Chôm. Chôm theo tiếng địa phương có nghĩa là “chôm chỉa” vì hắn chuyên ăn trộm gà vịt nổi tiếng cả xã. Hắn bắt trộm gà vịt rất giỏi nhưng mồm mép tép nhảy, có bắt được quả tang hắn cũng chối bay chối biến ngay được. Thậm chí cái tên Chôm cũng đã được UB xã dùng chính thức bằng văn bản để gọi đi khám bộ đội hoặc đi dân công hỏa tuyến. Lần này lên chức chủ tịch xã, hắn được đổi tên thành Chồm. Chồm chủ tịch cha mẹ mất sớm, chỉ đi làm thuê cuốc mướn và ăn trộm gà vịt rồi cũng có một ả tên là thị Lan góa chồng ở cuối xóm Năm lấy làm chồng. Nguyên là vào một đêm trời mưa rả rích, Chôm đến ăn trộm gà nhà ả. Gã đã bắt được gà trong tay nhưng không ngờ ả còn thức chạy ra giằng được áo gã. Gã đã nhanh trí ném con gà vào bóng đêm rồi ôm chầm lấy ả. Thế rồi trong một đêm khát tình, thị Lan đã trao thân cho gã và từ đó hai người đã về sống với nhau như vợ chồng không cần cưới hỏi hôn thú gì cả. Thị Lan đẹp nhưng nghèo, đã có một đứa con trai còn chồng thị thì đã chết cách đó vài năm. Thế mà lại bỗng dưng có người đòi lấy làm vợ đã là phúc tổ bảy mươi đời rồi. Dân làng còn rỉ tai nhau, không biết cái việc Chôm được làm chủ tịch xã có phải là do thị Lan đã trổ tài “ngoại giao” với ông đội trưởng đội CCRĐ hay không nữa?

Đứng trên cái sân khấu mới dựng đầu sân vận động và trước hàng trăm người dân trong xã bị đội cải cách bắt đến dự, Chồm chủ tịch mới học xong lớp “xóa nạn mù chữ” âm a đọc mấy câu đã được ông đội trưởng viết sẵn: “Xã Thiên Lộc của chúng ta nhiệt liệt chào mừng đội CCRĐ do bác Hồ cử về để đòi lại ruộng đất cho dân cày từ tay bọn địa chủ cường hào gian ác. Trong đợt phát động quần chúng giảm tô, xã ta đã quy được một số tên địa chủ nhưng theo các cố vấn Trung Quốc thì xã ta còn bỏ sót nhiều lắm. Vậy trong đợt này, đội đề nghị bà con bần cố nông, cốt cán, chuỗi rễ hãy tìm thêm ra, tố thêm ra những tên địa chủ bóc lột gian ác mà xã ta còn bỏ sót”. Rồi Chồm chủ tịch chỉ tay lên trời hô lớn:

- Hồ chủ tịch muôn năm! Mao chủ tịch muôn năm!
- Đả đảo bọn địa chủ cường hào gian ác!
- Có khổ nói khổ, nông dân vùng lên! 
- Ruộng đất phải về tay dân cày!
- Thà đánh nhầm còn hơn bỏ sót!...

Các cụ già trong làng chưa quen hô khẩu hiệu nên chỉ nhìn cái mồm của Chồm chủ tịch mà than: “Thằng Chồm mà làm chủ tịch xã thì dân xã mình sẽ biến thành lưu manh tất! Không hiểu vì sao ông Võ Ký Sơn, cháu cụ Võ Liêm Sơn, bao nhiêu năm làm chủ tịch xã tốt như thế mà nay lại bị bắt? Nghe đồn ông ta đã đi theo bọn quốc dân đảng phản động gì gì đó thì phải!”

Từ hôm đó trở đi, xã Thiên Lộc bỗng tưng bừng một khí thế long trời lở đất đến khắp mọi đường làng, ngõ xóm. Đêm nào cũng đánh trống ngũ liên hết hồi này đến hồi khác. Rồi từng đoàn người lớn, trẻ con hàng trăm, hàng ngàn người kéo đi hết làng trên xóm dưới đánh trống cà rùng, mang cả thanh la não bạt và soong chảo vừa gõ cheng cheng vừa hô to các khẩu hiệu mà Chồm chủ tịch đã đọc trong buổi mít tinh chào mừng đội CCRĐ và các cố vấn Trung Quốc đã về xã Thiên Lộc của chúng tôi. Đặc biệt những hôm đầu, đêm nào cũng chiếu phim “Bạch mao nữ” của Trung Quốc không bán vé ngoài sân vận động đã làm cho khí thế căm thù địa chủ của nông dân bốc lên ngùn ngụt. Tiếp theo là bắt đầu các buổi diễn tập đấu tố trong một số nhà bần cố nông cốt cán của xã do ông đội trưởng hoặc các đội viên chủ chốt trực tiếp huấn luyện. Chỉ tiếc rằng tôi là trẻ lạ nên không được đến xem.

Đã vào hè nên học sinh các trường được nghỉ học. Chúng cứ vô tư tung tăng đi viết khẩu hiệu, treo cờ đỏ sao vàng khắp các cổng nhà dân ven đường trục chính của làng. Đêm đến chúng lại tập trung học hát hoặc xem phim “Bạch mao nữ” của Trung Quốc và các phim tài liệu về CCRĐ ở các tỉnh khác tại sân vận động của xã. Những đêm khác thì đi biểu tình cùng dân làng và đi xem các buổi diễn tập đấu tố địa chủ hoặc đấu tố thật tại các xóm do đội cải cách tổ chức cho các cốt cán chuỗi rễ. Một tuần sau khi được nghỉ hè vẫn không thấy Tần đi chăn nghé mà chỉ thấy em trai cô ấy đi chăn thay. Tôi không dám hỏi nhưng đồ rằng cô ấy đã bị ốm. Hóa ra cô ấy đã bận những việc như thế của đội thiếu niên nhi đồng của xã. Tôi không phải là thiếu niên của xã nên không được phép tham gia bất cứ một hoạt động nào cả. Đến hôm Tần đi chăn nghé trở lại, gặp tôi cô ta mừng ra mặt. Tôi lo lắng hỏi:

- Dạo này đang nghỉ hè, em ốm hay bận gì mà không đi chăn nghé?

- Bấy nay em bận đi xem các buổi diễn tập đấu tố địa chủ và các buổi đấu tố thật sự tại các xóm. Cha mẹ em là thành phần bần nông nên em đến xem ở đâu và lúc nào cũng được. Em sẽ kể cho anh nghe nhiều chuyện hay lắm.

Thế rồi Tần đã kể cho tôi nghe về các buổi diễn tập và đấu tố thật đó. Cô ấy nói: “Chú Hòa của em là cố nông vì không có ruộng nên được đội xâu chuỗi. Nhà chú em lợp tranh nhưng khá rộng nên được chọn làm một trong những nơi diễn tập. Hôm thì chú em đóng vai địa chủ để người khác lên đấu tố mình, hôm thì chú em là người đấu tố còn bác họ em hay một người khác đóng vai địa chủ. Mọi lời tố khổ địa chủ đều do cán bộ đội chỉ bảo tỉ mỉ nhưng cách nói, cách vạch mặt địa chủ như thế nào thì nhiều người phải làm đi làm lại chục lần mà vẫn còn nhầm lẫn. Các bà hay xắn váy quai cồng chửi đường chửi chợ tiếp thu và vào diễn tập rất hoàn hảo. Bà nào càng ngoa ngoắt hay xưng xưng mọc khẩu đặt điều cho người khác càng được ông đội khen ngợi. Đàn ông những người nào du thủ du thực hay kiếm chuyện chửi hàng xóm láng giềng thì khi diễn tập, ông đội rất hài lòng. Thậm chí có lần một tay say rượu lên diễn tập đấu chú em còn lỡ tay tát cả vào mặt chú Hòa chảy máu mũi nhưng ông đội cũng không nhắc nhở gì cả. Ông đội còn nói: “Ai đấu tố càng hăng thì sẽ được càng nhiều quả thực như trâu bò, lợn gà, nhà cửa, ruộng vườn, bàn ghế vật dụng trong nhà… bà con rõ chưa?”

Tần cứ thế nói tiếp: “Từ ngày đội về, cách gọi tên và xưng hô cũng khác hẳn. Có lần ông đội gọi cha em: “Võ Nhân Cung!” Cha em thưa: “Gì thế ạ?” Ông đội nói trả lời như thế là không được mà phải nói ngay: “Có tôi!” Rồi ông ấy đã giải thích: “Đây là tác phong mới do bác Hồ đào tạo từ ngày bác còn chỉ đạo vụ án bà Nguyễn Thị Năm ở Đại Từ, Thái Nguyên đấy. Bác Hồ đã dạy, nông dân ngày nay phải khôn ngoan, phải can đảm đứng lên dứt khoát đạp đổ giai cấp địa chủ phong kiến. Dù có phải nói quá lên mà có thể đánh đổ được bọn chúng, thì đều đáng được hoan nghênh”. Nhưng đấu địa chủ mà như lời ông đội nói, toàn đặt điều vu khống như thế thì ác quá! Không biết là rồi kết cục sẽ đi đến đâu, hả anh?” Tần lo lắng hỏi tôi.

Nhớ lại lời cậu Thành đã có lần dặn “Động đến cụ Hồ là phạm tội chết đó, cháu rõ không?” nên tôi đã phải lựa lời để nói cho Tần được yên lòng:

- Tần ơi, em phải tin tưởng vào bác Hồ chứ! Những gì mà bác Hồ đã dạy bảo thì chỉ có đúng thôi! Bác Hồ là cha già của dân tộc Việt Nam cơ mà. Cha già làm sao lại dạy sai được, hả em?

Nhưng cô ấy vẫn lo lắng và tiếp tục hỏi:

- Nhưng trong các buổi đấu tố địa chủ thật sự tại các xóm, nhiều lần em đã nghe ông đội khẽ nhắc “Phải dồn bọn địa chủ vào chân tường. Khi không quy kết được chúng vào tội gì nữa thì phải hét vào mặt chúng: Mày là một tên quốc dân đảng phản động ngoan cố, mày có nhận tội để được đội CCRĐ khoan hồng không? Hay là mày muốn chết, hả?” Vậy “quốc dân đảng phản động” là gì mà lại được “khoan hồng”, anh Văn có biết không?

- Cái này thì anh cũng chưa biết, để về anh hỏi lại cậu Thành của anh đã nhé! Hẹn em vài hôm nữa, anh sẽ trả lời cho em, có được không?

Tối hôm đó tôi về hỏi cậu Thành. Do cậu ấy từng có mấy năm liền làm việc tại Mặt Trận Liên Việt của huyện nên cậu đã giải thích cho tôi rành rẽ: “Quốc Dân Đảng là một tổ chức yêu nước do ông Nguyễn Thái Học lãnh đạo đã đứng lên chống Pháp bằng cuộc khởi nghĩa Yên Bái năm 1930. Dù đã 25 năm qua rồi nhưng nhân dân Việt Nam vẫn còn nhớ và yêu mến. Còn hai chữ “phản động” có lẽ là do đội cải cách cố tình nối thêm vào để làm một cái bẫy. Ai không chú ý tới hai chữ “phản động” đã được nối thêm vào đó, lập tức sẽ bị sập bẫy. Nghe nói đây là ý kiến chỉ đạo của đoàn cố vấn Trung Quốc và ông Hồ Viết Thắng phó ban CCRĐ từ trên trung ương xuống. Vì ở bên Trung Quốc, bọn địa chủ đều theo quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch. Sau năm 1949, Trung Quốc đã tiến hành CCRĐ thì cố nhiên làng nào, xã nào cũng có thể tìm ra được các địa chủ theo quốc dân đảng phản động. Còn ở Hà Tĩnh mình từ sau 1930, chỉ có đảng cộng sản chứ làm gì còn Quốc Dân Đảng của ông Nguyễn Thái Học nữa. Nhưng nông dân ta phần lớn là mù chữ nên bất cứ ai là đảng viên, họ cũng đều xem là “quốc dân đảng phản động”. Cán bộ, đảng viên của Miền Bắc qua 2 năm CCRĐ đã có tới hàng vạn người bị xử bắn hoặc bị tù oan cũng vì sự chỉ đạo mập mờ này của Hồ Viết Thắng và các cố vấn Trung Quốc đó, cháu ạ!

Rồi nhờ những lời kể chân thật của Tần mà tôi đã biết được, song song với các buổi đấu tố diễn tập là các buổi đấu tố thật sự tại các xóm. Trong lúc đấu, các địa chủ của từng xóm lần lượt bị các cốt cán chuỗi rễ trắng trợn dựng đứng lên các tội mà họ không hề phạm nhằm thể hiện những điều vừa được học từ các buổi đào tạo diễn tập của các ông đội. Đồng thời qua các cuộc đấu tố đó còn nhằm tố khống thêm các địa chủ mới và những tên quốc dân đảng phản động mới. Thời gian này ở Thiên Lộc có xóm phải mất tới mươi, mười lăm ngày đêm. Với tinh thần ai vu cáo được càng nhiều tội của địa chủ thì càng được chia nhiều quả thực, nên các bần cố nông đêm nào cũng tích cực đi đấu tố địa chủ như đi trẩy hội. Chính nhờ các cuộc đấu xóm này mà xã Thiên Lộc đã phát hiện thêm được hàng chục gia đình địa chủ bóc lột và quốc dân đảng phản động còn bị lọt lưới.

4- Những cuộc đấu địa chủ kinh hoàng trên quê ngoại

Xong các vụ đấu xóm rồi đến các cuộc đấu xã và liên xã ác liệt và kinh thiên động địa mà sau này lớn lên tôi mới hiểu được rằng, có lẽ chỉ ở các nước độc tài như Đức Quốc Xã, Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam DCCH…mới xẩy ra. Bởi tôi chưa từng biết có một nơi nào khác mà các cuộc xử án và bắn người đã không hề được xét xử theo tình tự của luật pháp. Đặc biệt các vụ xử tử hình đều chỉ căn cứ vào sự chỉ đạo áp đặt theo tỷ lệ phần trăm của các cố vấn Trung Quốc. Các vụ đấu xóm, đấu xã và liên xã này dù ở địa phương nào trên Miền Bắc cũng đều na ná giống vụ án xử bà Nguyễn Thị Năm ở Thái Nguyên do Hồ chủ tịch trực tiếp chỉ đạo như một khuôn mẫu. Quý vị có thể tìm thấy những miêu tả chi tiết các vụ án như thế trong các tiểu thuyết đã in thành sách như “Ác Mộng” của nhà văn Ngô Ngọc Bội, “Ba người khác” của nhà văn Tô Hoài, “Ngày long trời lở đất” của nhà văn Trần Thế Nhân hay gần đây nhất là hồi ký “Đèn cù” đăng trên mạng của nhà báo Trần Đĩnh. Vì trong phạm vi của những trang viết ngắn, tôi không thể nào mô tả chi tiết các cuộc đấu tố đó được. Ở đây, tôi chỉ xin nhắc lại một vài tình tiết đặc biệt trong cuộc đấu tố cấp xã của người cậu kính yêu, cậu Chắt Thiện của tôi mà tôi đã được trực tiếp chứng kiến mà thôi.

Mới lưng lửng chiều, mặt trời còn mấy cây sào nữa mới khuất non Hồng mà bọn trẻ con chăn trâu bò đã hối hả dong trâu bò về làng. Chúng vừa về vừa dục nhau: “Về nhanh lên để còn tìm chỗ ngồi vì có tới hàng ngàn người dự. Chiều nay mở màn vụ đấu xã tên Võ Thiện Sơn, chúng bay đã biết chưa?” Cha mẹ Tần cũng từng cấy rẽ ruộng của cậu Chắt Thiện nên sau khi nghe bọn trẻ trâu nói vậy, người Tần co rúm lại rồi vừa run vừa lau nước mắt:

- Chúng ta đừng đi anh ạ. Đến đó cũng chỉ phải nghe người ta dựng chuyện vu cáo thôi. Cả xã này ai chẳng biết cậu Chắt Thiện của anh là một người thầy giáo hiền lành như Bụt. Cậu ấy còn có bao nhiêu đóng góp cho cách mạng từ năm 1930 đến nay nữa. Chiều nay còn lâu mới hết buổi, anh hãy nán lại nói cho em biết “quốc dân đảng phản động” là gì, có được không?

- Anh phải đi vì cậu Chắt là người thân yêu của anh, Tần ạ. Còn “quốc dân đảng phản động” là gì thì cậu Thành đã giải thích cho anh rồi, để mai mốt anh sẽ nói cho em rõ, Tần nhé! Anh còn được cùng chăn trâu với em lâu mà!

Khi tôi và Tần về tới sân vân động thì cuộc đấu cậu Chắt Thiện đã bắt đầu một lúc rồi. Từ xa chúng tôi đã nghe thấy những tiếng hô dậy trời:

- Đã đảo địa chủ Võ Thiện Sơn ngoan cố!
- Hồ chủ tịch muôn năm! Mao chủ tịch muôn năm!

Những tiếng hô “đã đảo” và “muôn năm” của hàng ngàn người cứ thế kéo dài, lan xa tới cả núi Hồng Lĩnh rồi vọng lại. Cậu Chắt Thiện của tôi mới bị đôn lên địa chủ từ các cuộc đấu xóm gần đây vì nhà cậu ấy cũng nghèo. Ngoài cái nhà thờ họ Võ bề thế của cụ Bang để lại ra thì nhà cửa của cậu ấy cũng tuềnh toàng. Cậu ấy suốt đời đi dạy học đâu biết tới ruộng vườn, hai người con của cậu mợ ấy còn nhỏ và mợ Chắt lại đau yếu luôn.

Không còn kịp dắt trâu về nhà, tôi và Tần vội buộc trâu và nghé vào một bờ cây gần sân vận động rồi cả hai đứa leo lên một cây lộc vừng cạnh sân đấu để nhìn xuống vì người đông quá đứng tràn ra cả ngoài sân vận động. Sau khi đã tìm được một chỗ ngồi vững chắc trên cành chạc ba của cây lộc vừng, chúng tôi nhìn xuống sân đấu thấy cậu Chắt đang quỳ dưới đất, trông xa tưởng là một vị Phật sống đang thiền định. Xung quanh chỗ cậu ấy quỳ là một khoảng đất trống rộng hình tròn có đặt hai bộ bàn ghế, một cho ông đội trưởng và đội phó đội cải cách ngồi. Bàn còn lại giành cho Chồm chủ tịch và hai người thư ký của cuộc đấu. Cạnh chiếc bàn của Chồm chủ tịch ngồi là ba anh dân quân cầm súng chĩa thẳng vào chỗ Cậu Chắt đang quỳ. Rồi vòng quanh khoảng đất trống đó là hàng ngàn người phía trước ngồi, phía sau đứng bừng bừng khí thế. Khi chúng tôi đến thì cuộc đấu tố cậu Chắt đã diễn ra được một lúc nên lúc này đang tiếp tục. Tiếng ông đội trưởng sang sảng:

- Xin mời cốt cán Hòa ở xóm Năm lên đấu!

Tần bất ngờ thấy ông chú của mình lên đấu thì lo thót cả tim, mồm cứ lẩm bẩm “Chú ơi, thầy Chắt Thiện làm gì có tội mà chú lên đấu tố người ta?” Ông chú của Tần cứ đi như chạy tiến về phía địa chủ Chắt rồi bất ngờ ngã lăn quay ngay giữa sân đấu như đã bị vướng phải một vật gì đó. Ông Hòa đang lóp ngóp bò dậy thì bỗng nghe tiếng ông đội trưởng như bị nghẹt lại:

- Ông bị ngã đau chứ? Ông còn nhớ tối qua tôi đã dặn ông những gì không?

- Thưa ông đội trưởng! Những lời ông dặn tôi phải đấu địa chủ Chắt như thế nào thì đêm qua tôi đã học thuộc lòng. Nhưng vừa rồi do bị ngã nên tôi đã quên hết rồi, ông ạ. Vậy tôi kính xin được ông đội trưởng tha tội!

Những người đến dự buổi đấu hôm ấy buồn cười quá nhưng không dám cười thành tiếng, còn Tần thì hởi lòng hởi dạ: “Cháu rất cám ơn chú Hòa nhân hậu và khôn ngoan của cháu!”

Ông đội trưởng lại tiếp tục nói như ra lệnh:

- Xin mời cốt cán Doan ở xóm Ba lên đấu!

Một người phụ nữ tuổi sồn sồn ngoài bốn mươi lả lướt bước lên. Cốt cán Doan mặt rỗ, hai cái gò má thì cao quá mang tai, mấy cái răng cửa của ả vẩu chìa ra ngoài trông vừa thâm vừa ác. Nhưng bù lại ả biết ăn diện, dáng đi gợi tình, đôi mắt biết cười và tài ăn nói của ả thì hết chê. Vừa giáp mặt cậu Chắt, ả đã chỉ tay vào mặt cậu tôi quát lớn:

- Địa chủ Võ Thiện Sơn! Mày có biết tao là ai không, hả?

- Là bà Doan ạ! Năm 1948, bà có bế con gái hộ vợ chồng con mấy tháng ạ!

- Vậy mày có nhớ là mày đã cưỡng hiếp tao mấy lần rồi không, hả? 

- Con chưa bao giờ cưỡng hiếp ai, đặc biệt với những phụ nữ nhan sắc như bà thì lại càng không. Xin bà nhớ lại cho, chắc là bà đã có sự nhầm lẫn?

- Tao không nhầm đâu. Này nhé, hè năm 1952 trong khi vợ mày đi chợ, mày đã đè tao ra giường sàm sở rồi làm cái chuyện ấy, mày còn chối nữa không?

- Năm 1952, con đang dạy học ở Thái Nguyên suốt cả năm không về nhà thì làm sao con có thể đè bà ra giường được khi ở cách bà tới hơn 4 trăm cây số? Bà cứ hỏi bà con láng giềng xem năm đó con có về nhà không?

- Ừ thì cứ cho là tao đã nhớ nhầm năm. Nhưng hè 1953 mày đã về nhà nghỉ hè rồi hiếp tao ở nhà bếp hai lần trong khi vợ mày về bên ngoại, mày còn chối được nữa không hỡi cái đồ ăn có nói không Võ Thiện Sơn kia?

- Hè năm 1953 con phải ở lại Thái Nguyên để theo dõi vụ đấu tố địa chủ Nguyễn Thị Năm ở Đồng Bẩm, Đại Từ nên không được về. Vậy làm sao con lại có thể hiếp bà ở dưới bếp được. Hay là bà đã nhầm con với ông Thám ở xóm Năm, thưa bà?

- Mày đừng có lắm chuyện! Đời đàn bà của tao chỉ duy nhất một mình mày đã làm hại thôi chứ chẳng có ai vào đây cả! Còn tháng Năm 1954, mày hiếp tao trong nhà thờ cụ Bang khi mày lừa tao vào đó để lau dọn nhà thờ, nhớ chưa? Sau vụ đó về tao đã có chửa. Bây giờ mày còn chối được nữa không?

- Tháng Năm năm ngoái, 1954, con phải đi phiên dịch lấy khẩu cung của tù binh Pháp ở Điện Biên Phủ đến tháng Chín mới được về nên dịp đó con không có mặt ở nhà, chắc bà lại nhầm nữa rồi!

- À thằng này khốn nạn! Vậy năm ngoái tao có chửa, thằng con của tao vừa đẻ ra đã giống hệt mày mà mày còn dám chối, hả? Bà con ơi, nó là một tên địa chủ khốn nạn định gắp lửa bỏ tay người. Con nó rành rành ra đấy mà nó còn ngoan cố không chịu nhận để định đổ thừa cho người khác, phải không?

- Thưa bà Doan, con biết ngày nay nhất đội nhì trời! Nhưng trên tất cả chúng ta vẫn còn có Đức Phật và Thánh Thần. Bà có chửa với ai không phải là việc của con, nhưng Đức Phật và Thánh Thần sẽ chứng giám cho con là con chưa bao giờ động chạm vào thân thể ngọc ngà của bà. Vậy đứa con đó hoàn toàn không phải là của con. Nếu con nói sai, xin Đức Phật và Thánh Thần hãy trị tội con! Nam Mô A Di Đà Phật!

- Đã đảo địa chủ cường hào gian ác Võ Thiện Sơn ngoan cố! Kiên quyết bắt nó phải nhận là cha đẻ của con trai cốt cán Doan!

Chồm chủ tịch liền đứng dậy hô lớn và hàng ngàn tiếng hô “Đã đảo! Đã đảo! Đã Đảo!”, “Kiên quyết! Kiên quyết! Kiên quyết!” cứ thế vang xa mãi.

Trong khi hàng ngàn người đang bận hô khẩu hiệu thì Tần tranh thủ nói qua về cốt cán Doan cho tôi nghe. Cốt cán Doan chuyên đi bế trẻ thuê, đã có một đời chồng và một đứa con gái nhưng năm 1951 chồng ả say rượu rồi cảm chết. Tưởng mẹ góa con côi thì khổ nhưng ả có tài cưa trai để kiếm cái này cái nọ. Ba năm nay, ả đi lại với ông Thám ở xóm Năm. Ông này thọt chân bị vợ bỏ nhưng làm nghề thợ rèn nên kiếm được khá tiền. Cũng phải xài tiền của ông Thám thoải mái vài năm rồi ả mới có chửa. Được đứa con trai, ông Thám mừng lắm nhưng ả kiên quyết không nhận ông Thám là cha đẻ của con ả mà đi đâu ả cũng rêu rao đó là con của cậu Chắt. Vì ả mê cậu Chắt như điếu đổ từ lâu rồi. Ả mê cậu Chắt bởi cậu là người hiền lành, đẹp trai lại có học nhất xã. Vì thế, ông đội trưởng đã dùng ả để quyết đánh gục cậu Chắt, bởi đàn ông ai bị tố cáo chuyện mình đi hiếp dâm thì sẽ xấu hổ không dám cãi lại. Nào ngờ, cậu Chắt là người đã ngộ Phật nên cậu đã bình tĩnh vạch được bộ mặt gian trá của ả Doan. Quá bất ngờ, ông đội trưởng lại phải dùng tới con bài khác.

Tiếng ông đội trưởng lại vang lên:

- Xin mời cốt cán Được lên đấu!

Cốt cán Được vốn là thợ cày của nhà cậu Chắt, tính hiền lành, cha mẹ mất sớm nên cậu mợ Chắt đã đứng ra cưới vợ làm nhà cho Được ở ngay phía sau nhà cậu. Ông đội trưởng liền chọn Được làm cốt cán và giao nhiệm vụ cho Được “ngày đêm phải theo dõi địa chủ Chắt và các khách khứa đến thăm vì nó là một tên trùm phản động nguy hiểm”. Lúc đầu, Được không dám nhận lời, nhưng ông đội nói: “Hoặc là anh giúp đội, đội sẽ chia cho anh nhiều quả thực, hoặc là anh từ chối thì anh sẽ bị đi tù cùng với địa chủ Chắt”. Vì sợ ông đội trưởng bắt đi tù nên Được đã nhận lời theo dõi cậu Chắt.

- Địa chủ Chắt! Mà..à..y có biết ta…o…o là ai không?

- Dạ, con biết ông là ông Được, một người thợ cày hiền lành ạ!

- Mày có nhận rằng, hễ có ai đến chơi nhà, mày lại đưa chuyện địa chủ Nguyễn Thị Năm ở Thái Nguyên bị bác Hồ xử bắn oan ra kể không?

- Không! Con chỉ nói vụ án địa chủ Nguyễn Thị Năm ở Thái Nguyên là do Hồ chủ tịch trực chỉ đạo thôi ạ!

- Mày nói như thế là đã xúc phạm đến bác Hồ rồi, mày có nhận không?

- Con chỉ nói cái sự thật mà con biết thôi chứ không dám xúc phạm ai cả ạ!

Ông đội trưởng hơi thất vọng bởi cốt cán Được đã gần như quên hết những lời ông đã dạy trong buổi đấu tố diễn tập, nên ông đã quyết định phải dùng tới con bài cực độc của mình. Sau khi đã trấn tĩnh, ông đội lại dõng dạc gọi:

- Mời cốt cán Chồm lên đấu!

- Có tôi! Tôi sẽ cho địa chủ Chắt biết thế nào là lễ độ ạ!

Tần rỉ vào tai tôi, Chồm chủ tịch ngày xưa đã có lần bắt trộm cả chuồng gà nhà cậu Chắt đang vỗ béo để ăn Tết. Chẳng may bị người nhà cậu Chắt bắt được nên hắn đã bị dẫn ra trụ sở UB xã. Tại đó hắn đã bị ông Võ Ký Sơn lúc đó đang làm chủ tịch xã trói lại rồi cho người giải đi vòng quanh khắp làng để nhắc nhở bà con cảnh giác với hắn. Biết đây là thời cơ để trả mối thù đó cho nên hắn đã nhận lời với ông đội trưởng sẽ quyết đấu địa chủ Chắt đến cùng. Đứng sát trước mặt cậu Chắt của tôi, cốt cán Chồm hét lớn:

- Địa chủ Võ Thiện Sơn! Mày có biết tao là ai không?

- Dạ thưa, ông là Chồm chủ tịch của xã ta ạ!

- Tốt! Tao nghe nói năm 1930, mày đã đưa bọn quốc dân đảng phản động về xã ta lập ra làng Xô Viết Nghệ Tĩnh để giày xéo quê hương mình, đúng không? Mày có nhận tội để được hưởng khoan hồng không, hả?

- Không đúng! Ngày đó tôi đã đưa các đảng viên đảng cộng sản Đông Dương về xã để lập ra làng Xô Viết Nghệ Tĩnh chứ không phải quốc dân đảng phản động đâu ạ!

- Câm ngay mồm! Đảng cộng sản Đông Dương chính là quốc dân đảng phản động mà mày còn cãi à? Nước ta chỉ có duy nhất một đảng là đảng lao động Việt Nam chứ làm gì có đảng cộng sản Đông Dương, hả? Rồi năm 1945, mày lại đưa bọn quốc dân đảng phản động về xã ta để dựng ra cái chính quyền thối nát này và mày đã giao cho thằng em Võ Ký Sơn của mày làm chủ tịch. Chính tên Võ Ký Sơn đã bắt dân xã ta phải đóng thuế nông nghiệp quá cao, có gia đình phải bán cả nhà đi mới đủ tiền để đóng thuế. Tên Võ Ký Sơn còn bắt dân xã ta phải đi bộ đội, đi dân công hỏa tuyến làm bao bà mẹ phải mất con, bao người vợ phải mất chồng, mày còn dám cãi nữa không?

- Thưa ông, ngày đó tôi theo Việt Minh. Tôi đã đưa Việt Minh về lập ra chính quyền này chứ không phải là bọn quốc dân đảng phản động lập đâu ạ!

- Mày còn dám cãi cùn hả? Chính Việt Minh là bọn quốc dân đảng phản động đấy! Chỉ có bọn quốc dân đảng phản động như Việt Minh mới bắt dân làng đóng thuế nông nghiệp cắt cổ như thế! Chỉ có bọn quốc dân đảng phản động Việt Minh mới bày trò tặng bằng liệt sỹ cho các gia đình mất chồng mất con. Mạng người mà chúng bay chỉ đổi cho họ bởi một mảnh giấy mỏng như thế thôi sao? Trả lời đi hỡi tên quốc dân đảng phản động Võ Thiện Sơn!

- Thưa ông, đó là do sự lãnh đạo của Hồ chủ tịch từ trung ương chứ không phải do chủ tịch Võ Ký Sơn tự ý bày ra đâu ạ! Kính mong ông suy xét lại!

- Câm cái mồm thối của mày lại ngay! Lại Hồ chủ tịch! Cái gì mày cũng đổ lỗi cho Hồ chủ tịch, thuế nông nghiệp cắt cổ cũng do Hồ chủ tịch, giết con Năm ở Thái Nguyên cũng do Hồ chủ tịch… Mày là thằng quốc dân đảng phản động hết thuốc chữa rồi. Tôi khẩn thiết đề nghị ông đội trưởng và các đồng chí cố vấn Trung Quốc hãy xử tử hình tên Võ Thiện Sơn ngoan cố này!

- Tôi vô tội! Tôi vô tội! Cứu tôi với bà con ơi!

- Cứu này! Cứu này! Chồm chủ tịch vừa nói vừa đấm một cái trời giáng vào mặt cậu Chắt làm cho cậu ấy gẫy mất mấy cái răng, hộc cả máu mồm, máu mũi và từ từ ngã gục xuống. Rồi bỗng ai đó đã buột mồm hô lớn:

- Chồm chủ tịch muôn năm! Mao chủ tịch muôn năm! Chồm đứng thẳng lên ngửng cao đầu hãnh nhìn hàng ngàn người dân trong xã đang tung hô mình.

Thấy cậu Chắt bị đánh trọng thương, Tần sợ quá ôm chặt lấy tôi khóc nấc lên, bảo tôi dìu cô ấy xuống gốc cây rồi ngất đi. Tôi chật vật lắm mới đưa được cô ấy lên nằm trên lưng trâu, rồi tôi đã dắt cả trâu lẫn nghé về tận nhà ông Cung. Mẹ của Tần vừa khóc vừa bế cô ấy từ trên lưng trâu xuống rồi nhìn tôi âu yếm như đang thầm cám ơn tôi.

Còn nhiều cuộc đấu xã kinh hoàng như thế ngày nối đêm được diễn ra trên sân vận động của xã đối với các cậu của tôi như cậu Cháu Dị, cậu Trì, cậu Chu, cậu Huấn vừa mới bị đôn lên địa chủ trong đợt vừa rồi và nhiều địa chủ khác nữa. Nhưng Tần nhất định không đi dự các cuộc đấu xã nữa vì theo cô ấy “Dựng ngược lên vu cáo người ta như thế mà cũng có tới hàng ngàn người hưởng ứng thì không thể nào chấp nhận được!” Cô ấy vừa nói vừa khóc. Lúc đó tôi đã muốn giải thích cho Tần hiểu được rằng, chỉ có một số ít người vì tham lam quả thực hoặc chức này tước nọ mới ủng hộ các cuộc đấu tố vô nhân đạo đó chứ không phải hàng ngàn người dân trong xã ta đâu! Nhưng đứng trước một cô bé vô tư và trong sáng như Tần thì mọi lời giải thích đều vô nghĩa vì trái tim nhân ái của cô ấy đã bị rỉ máu mất rồi!

Và một điều bất ngờ ngoài dự đoán đã ập đến. Sau khi cậu Chắt Thiện và các cậu khác của tôi bị đấu xã thì cậu Thành của tôi cũng bị bắt và đưa ra đấu xã vì cậu ấy đã bị quy là địa chủ phản động mặc dù nhà cậu ấy cũng nghèo và ít ruộng. Mấy hôm sau nữa đi chăn trâu thì tôi mới gặp lại Tần, nhưng Tần chỉ chơi với lũ trẻ chăn trâu con nông dân chứ không đến chuyện trò với tôi như trước nữa. Tôi nghĩ chắc do cậu Thành đã bị quy là địa chủ phản động nên ông bà Cung sợ bị liên lụy đã không cho Tần chơi với tôi nữa. Khoảng gần trưa, bỗng một thằng bé chăn bò con nhà nông dân hô lên:

- Hãy đánh chết thằng Văn con cháu nhà tên địa chủ Thành đi bay ơi!

Thằng đó vừa dứt lời thì có bốn đứa khác xấn lại đánh vào đầu tôi túi bụi. Tôi chưa kịp trở tay thì chính cái thằng hô đòi đánh tôi đó đã xô tôi ngã xuống một cái vực khá rộng và sâu cạnh đường cái. Tôi bị choáng nên không bơi được nữa và đã bắt đầu uống nước thì một cành cây khô được ném xuống và thấy Tần cũng nhảy xuống ôm lấy cành cây bơi nhanh về phía tôi. Rồi Tần bám vào cành cây dìu tôi vào bờ. Vừa trèo lên được trên bờ, Tần nói khẽ vào tai tôi: “Anh hãy dong trâu về nhà thay quần áo ngay đi!” Tôi nhìn thấy Tần cũng ướt như chuột lột mà sao cô ấy chỉ lo cho mình tôi? Tôi vừa dong trâu về nhà vừa băn khoăn không hiểu vì sao Tần đã liều mạng để cứu tôi? Và cái ơn cứu mạng này biết đến bao giờ tôi mới trả được cho em?

Tôi về đến nhà thì đã xế trưa. Sau khi thay quần áo và ăn trưa xong thì bỗng thấy hàng chục người hùng hổ tiến vào sân có cả hai dân quân mang súng. Một người mặc quần áo đại cán, đội mũ cát quát lớn:

- Cô Thành là ai ra đây ngay! Chúng tôi nhân danh đội CCRĐ hôm nay sẽ tịch thu tài sản của địa chủ Thành phản động. Cô hãy trao cho bà con toàn bộ chìa khóa nhà và các loại chìa khóa hòm tủ mau lên!

Lú đó mợ tôi mới nói như van xin:

- Ông đội ơi, nhà tôi nghèo mong ông đội tha cho vợ chồng tôi!

Mợ tôi chưa dứt lời nói thì họ đã khênh hết bàn ghế, giường tủ ra sân rồi. Một mụ tầm tuổi mợ tôi đã giằng chiếc chìa khóa buồng từ tay mợ tôi và kéo mấy người nữa vào trong buồng khênh ra mấy cái hòm cũ đựng quần áo và các thứ linh tinh khác mặc cho mợ tôi đang ngồi bệt xuống sân khóc thảm thiết. Chỉ chưa đầy nửa tiếng đồng hồ, toàn bộ ngôi nhà đã trống không kể cả thóc gạo khoai sắn họ cũng đã lấy sạch. Ông đội còn tuyên bố:

- Ngôi nhà này và con trâu kia đã có chủ! Cô phải có trách nhiệm giữ gìn cẩn thận! Vài hôm nữa người chủ mới của ngôi nhà và con trâu sẽ đến. Nếu có gì sơ suất thì địa chủ Thành sẽ phạm tội chết, cô rõ chưa?

Như một cơn lốc xoáy, đoàn người đã mang vác hết mọi thứ đi ra đường cái rồi đi về đâu tôi không rõ, mặc cho mợ tôi khóc gào hết cả nước mắt:

- Rồi mợ cháu mình lấy gì mà ăn Văn ơi? Biết lấy gì để nuôi cậu trong trại giam cháu ơi! Kiếp trước chúng con đã phạm tội gì mà trời đã phạt vợ chồng con như thế, trời ơi!

Thấy mợ tôi mệt quá, tôi vội quét nhà, trải manh chiếu rách xuống nền nhà cho mợ tôi nằm tạm rồi tôi thấy mợ tôi cứ thế nằm thiếp đi. Tôi đi tìm lọ dầu để bôi cho mợ nhưng lọ dầu khuynh diệp người ta cũng đã lấy đi rồi!

Tối hôm đó, tôi mò ra phía sau vườn đào củ dong riềng để luộc ăn tối cho đỡ đói. Đào cả tiếng đồng hồ mới được nửa rổ khoai, tôi mang xuống hồ rửa sạch cạo vỏ ngoài rồi luộc lên thơm phức. Lúc đó đã khuya lắm, hai mợ cháu tôi đang ngồi ăn dong riềng luộc thì nghe như có ai đó ngoài cổng. Tôi chạy ra thì thấy dì Quý dúi qua cổng vài cân gạo rồi đi ngay không nói với tôi một lời nào. Tôi biết là dì dượng Quý của tôi cũng đang bị theo dõi. Vì mặc dù là thành phần bần nông nhưng cũng có thể trở thành một tên “quốc dân đảng phản động” bất cứ lúc nào nếu có người tố cáo và ông đội muốn.

Sáng hôm sau rồi hôm sau nữa tôi không dám dong trâu lên đồng cỏ ven núi Hồng Lĩnh nữa vì sợ sẽ bị bọn con nông dân lại đánh mà chỉ dong trâu ăn lòng vòng ở khu ruộng hoang gần làng. Nhưng ngày nào tôi cũng mong được gặp Tần để cám ơn về cái hôm được Tần cứu mạng ấy. Hôm đó trời đã về chiều, tôi đang đói nên nằm trên lưng trâu ngủ thiếp đi. Bỗng có ai đó cầm chân tôi gọi khẽ: “Anh Văn, em bảo cái này!” Tôi choàng tỉnh dậy thì đã thấy Tần đứng ngay bên cạnh. Tôi nhảy xuống rồi hai đứa cùng ngồi bệt xuống bãi cỏ. Tần vừa mở một gói gì đó ra vừa nói:

- Anh đói lắm phải không? Ăn đi này! Em mang oản chùa Hương Tích về cho anh đây. Hôm nay là ngày Rằm tháng Bảy, lễ Vu Lan và là ngày xóa tội vong nhân mà anh không nhớ nữa sao? Anh quên lời hẹn cùng đi thăm chùa Hương Tích với em rồi à? Em đi cùng mẹ nhưng đã cố đi nhanh về trước để mong gặp được anh đấy. Tần chưa nói dứt lời thì đã đầm đìa nước mắt.

Tần đang vừa lau nước mắt vừa nhìn tôi ăn oản thì bỗng nghe một tiếng kêu thất thanh cùng những tiếng roi vun vút đập vào lưng Tần:

- Cái con ranh này! Cha mẹ đã dặn con không được trò chuyện với cái thằng con địa chủ ấy nữa mà con dám cãi lời cha mẹ hả? Đi về nhà ngay! Chuyện này ông đội mà biết được thì bố con sẽ thành “quốc dân đảng phản động” đi tù mọt gông, con có biết không? Bà Cung vừa réo vừa cầm tay Tần lôi đi.

- Mẹ ơi, mẹ buông tay con ra! Anh Văn đang là trẻ con mà mẹ!

- Trẻ con gì! Chính vì phát hiện ra nó là con trai của một đại địa chủ ở Đức Lâm mà chú Thành con mới bị quy là địa chủ phản động đó con ạ! Nó là một thằng hủi, con hãy tránh xa nó ra nếu không muốn cha con cũng phải đi tù, rõ chưa? Mẹ của Tần vừa la vừa đánh roi vun vút vào người Tần làm tim tôi như bị thắt lại. Tần là con gái lớn nên được ông bà Cung cưng chiều lắm. Có lẽ đây là lần đầu tiên trong đời, Tần đã bị mẹ trừng phạt nặng đến thế.

Cứ thế, Tần vừa bị đánh roi vừa bị lôi đi không còn dám quay đầu lại nhìn tôi nữa. Và những tiếng kêu thất thanh “Mẹ ơi, mẹ buông tay con ra!” cứ xa dần, xa dần…rồi mãi mãi đã chôn sâu vào trong ký ức tuổi thơ của tôi.

Vì sợ liên lụy tới cha mẹ Tần, nên ngay đêm đó, Rằm tháng Bảy năm Ất Mùi ấy, tôi đã xin mợ Thành cho tôi được một mình quay trở về Đức Lâm. Dưới ánh trăng sáng, tôi đã đi bộ suốt đêm qua ba cái cầu bắc qua ba con sông rộng. Qua cầu nhìn xuống lòng sông tôi chỉ thấy bóng trăng nơi đáy nước chứ không thấy một con ma nào cả. Về đến nhà gặp lại thằng em trai út 3 tuổi, tôi vẫn còn một cái oản chùa Hương của Tần cho để làm quà tặng em trai nữa. Và từ đó, do bận về CCRĐ bên quê nội nên tôi không còn hay biết gì về những điều đã xẩy ra sau đó bên quê ngoại Phú Minh của tôi nữa.

Mười ba năm sau, Tần cũng lại bị trừng phạt một lần nữa nhưng có lẽ đó là lần bị trừng phạt cuối cùng của cuộc đời cô! Nghe nói hôm trước, tiểu đội TNXP của Tần đã bị một thiếu sót nhỏ nào đó, nên chiều 24/7/1968, tiểu đội của cô đã bị trừng phạt, bị bắt phải ra san đường sớm hơn một giờ đồng hồ trước khi mặt trời lặn như mọi ngày. Lo lắng cho sự an toàn về tính mạng của đồng đội, Tần đã xin được ra mặt đường muộn hơn một tiếng nhưng ông đại đội trưởng chỉ nghĩ tới thành tích “san đường bất chấp lửa đạn” của đại đội TNXP của mình, nên đã không đồng ý! Và các cô ấy đã phải ra mặt đường vào lúc còn mặt trời nên đã bị máy bay của Mỹ phát hiện.

Và thời điểm 5h15 chiều ngày 24/7/1968 oan nghiệt ấy đã cướp đi mười cô gái chưa chồng tại Ngã Ba Đồng Lộc trong đó có Võ Thị Tần, một người bạn tuổi thần tiên yêu dấu của tôi (*). Những tượng đài, tháp chuông, bia mộ lộng lẫy nơi khu tưởng niệm Ngã Ba Đồng Lộc chỉ để giành cho những kẻ cơ hội chạy chức chạy quyền thôi! Còn đối với Tần và các đồng đội của cô ấy bây giờ đây tất cả đều đã trở thành hư không. Lúc đang sống, Tần luôn muốn được lên thăm chùa Hương Tích nên tôi chỉ có một mơ ước, là một ngày nào đó tôi sẽ được rước mười vong của các cô gái Ngã Ba Đồng Lộc về vãng sanh nơi cõi Phật tại chùa Hương Tích trên quê ngoại Thiên Lộc mến yêu của tôi.

Nam Mô A Di Đà Phật!

Hà Nội, Hè 2015