Thursday, July 5, 2018

Việt Nam hoang mang…và im lặng

T.M.R – Trí Việt News

Tôi là một trong những nạn nhân đã bị An ninh cộng sản bắt đi vào ngày 17-6-2018. May mắn là chẳng có vết thương nào xảy ra trên da thịt tôi vào ngày ấy. Có lẽ vì khoảnh khắc bị hốt lên xe tôi khá hoang mang và khá ngoan, nên cũng chẳng bị gây khó dễ gì…
Nhưng, từ dạo ấy, những vết thương lòng trong tôi lại càng ngày càng lớn. Trong rất nhiều giấc ngủ, tôi tỉnh dậy và hốt hoảng khi thấy mình bị nhốt ở một nơi xa lạ và không ai biết mình ở đâu, bên cạnh là những người công an mặc sắc phục màu xanh lá. Cũng từ dạo ấy, tôi bắt đầu lê la vào mọi ngóc ngách cuộc sống của một người Việt, rồi nhận ra, trong trái tim tôi mang rất nhiều nỗi đau mang tên Tổ Quốc.
Tôi vẫn luôn tự hỏi, điều gì đang xảy ra trên đất nước tôi đây?
Tôi đã đi qua một chiều dài lịch sử phát triển của dân tộc mình. Đủ để được dạy về những bài học tự hào tổ quốc, và cũng đủ để trưởng thành và nhận ra một Việt Nam không đẹp như sử sách đã ghi. Đủ để nghẹn ngào vì hàng loạt những người Việt phải cúi đầu lầm lũi ở những đất nước khác. Đủ để thấy hổ thẹn với những gì đang diễn ra trên đất nước này… Rất nhiều người Việt mà tôi gặp, thường gật gù với tôi về điều ấy. Xung quanh tôi vẫn xì xào vì những điều ấy. Họ nhận ra, họ biết, họ hiểu, họ xấu hổ, họ bất mãn, nhưng họ không nói, không làm gì, thậm chí không muốn thay đổi. Họ im lặng và cam chịu.
Và…
Khi tôi bắt đầu nói, khi tôi chia sẻ những bài viết về mình bị bắt ngày hôm ấy trên mạng xã hội. Khi bài viết của tôi rất đông người like và share trên khắp các nước, tôi bắt đầu nhận được hàng loạt những lời can ngăn, hàng loạt những lời đe dọa… từ phía những người thân, và những người quen biết tôi. Ai cũng nói với tôi, hãy im lặng, hãy xóa đi, hãy yên ổn mà làm ăn, xã hội đã thế rồi không làm gì được đâu? Rằng, một cánh én chẳng thể làm nên mùa xuân, rằng, tôi còn gia đình và công việc. Rằng, tôi làm như thế thì được lợi gì cho tôi hay không? Có ai trả tiền không? Hay chỉ ôm lấy thiệt thân cho chính mình…
Tôi quả thực đã trải qua một tuần đầy kinh hoàng khi bị quá nhiều những lời góp ý từ nhiều phía sau bài viết chia sẻ sự thật. Có người nghi ngờ, có người cổ vũ, có người khen can đảm, có người thì bảo tôi làm quá…Có người lại rụt rè nhìn tôi như là một người khác, một người không giống như bao nhiêu con người lầm lũi cúi đầu, chỉ dám thốt lên vài tiếng thở dài, tặc lưỡi và mặc cho số phận đưa đẩy…
Đó cũng là những ngày, trong tôi đầy những nỗi hoang mang, không biết điều mình đang làm là đúng hay sai?
Nhưng, rồi tôi nhận ra, đất nước này có lẽ sẽ tiếp tục tệ đi khi những người tốt, hiểu biết cứ im lặng và sống cho riêng cuộc đời mình. Việt Nam của tôi rồi cũng sẽ tệ đi khi hàng loạt con người biết nhưng không nói, chỉ cam chịu và thủ phận. Như cách mọi người Việt vẫn đang im lặng với những điều bất công, xấu xí đang diễn ra trên đất nước của họ và của tôi bao nhiêu năm nay.
Ngày hôm qua, cô bé nhân viên 23 tuổi của tôi, người Sóc Trăng mặt dàn dụa nước mắt khi kể về một CSGT đã tóm cô lại và buông những lời lẽ khó nghe, miệt thị và phạt nóng 1 triệu ngay tại chỗ, dù cô không biết cô phạm lỗi giao thông gì. Cô bé chỉ biết đứng im chịu đựng, hàng loạt người bị CSGT bắt lại, cứ ngoan ngoãn đưa tiền dù không chắc họ biết họ bị bắt vì lý do gì. Như một thói quen, họ lặng lẽ dúi tiền, lặng lẽ lên xe, phóng đi, chửi rủa, rồi tặc lưỡi buông những cái lắc đầu cho một đất nước.
Những người như cô bé nhân viên của tôi, và những con người Việt đó, tôi biết, họ sẽ còn tiếp tục chịu đựng, im lặng, nhẫn nhịn như một thói quen được rèn dũa từ bao nhiêu năm qua.
Tôi vẫn hay nghĩ về câu chuyện của những chú ếch, được nấu trong nồi nước lạnh cho đến khi nước ấm, rồi đến khi nước sôi lên sùng sục. Cái chết đến từ từ nhưng những chú ếch vẫn chịu đựng vì đã quá quen với nó…! Tự hỏi, có khi nào rồi Việt Nam cũng sẽ bị nấu chín mà không hề biết.
Sài Gòn, những ngày này với tôi vẫn là những ngày của sự hoang mang. Tôi chẳng còn quá nhiều sự hồn nhiên để nhìn cuộc đời này đẹp như theo cách mà tôi đang cố gắng. Đâu đó, trong tôi vẫn là những nỗi trăn trở về một Việt Nam của tôi. Sẽ như thế nào? Và về đâu? Rằng, chúng tôi chỉ đáng được như thế? Hay chúng tôi có trí tuệ, có sự chăm chỉ, có tài nguyên và chúng tôi đáng được hơn thế.
Và rằng, chúng cần phải làm gì và làm như thế nào đây, cho một Việt Nam của tôi không còn cúi đầu lầm lũi…đầy cam chịu và im lặng.
Ôi! những câu hỏi bỏ ngỏ, đầy hoang mang…!

Thích tăng thuế là ta cứ tăng, lòng dân chẳng là cái đinh gì

Ít nhất là trên các phương tiện truyền thông, cả “lề phải” lẫn “lề trái, hầu hết các ý kiến, từ các chuyên gia tử tế, các doanh nhân, các hiệp hội nghề nghiệp, nhà báo cho đến người dân bình thường đều phản đối việc tăng thuế môi trường đối với xăng dầu lên kịch khung (4000 đ/lít đối với xăng) sau khi Bộ Tài chính đưa ra lấy ý kiến. Lý giải về sự lợi bất cập hại của việc tăng thuế này được các nhà chuyên môn trìnhbày mạch lạc, hầu hết những ai quan tâm đều thấy có sức thuyết phục. Lòng dân chính là đây chớ đâu !
Nhưng Bộ Tài chính bất chấp. Những đại biểu được coi là “tinh anh” của dân là Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng bất chấp.
Bộ máy nhà nước đã không có một động thái tiết kiệm hiệu quả nào. Trụ sở cứ xây. Xe sang cứ dùng. Công chức cấp cao vẫn đi máy bay hạng sang. Tiền của đổ vào các dự án không có hiệu quả vẫn chưa có dấu hiệu chấm dứt. Tài sản quốc gia bị các nhóm lợi ích câu kết với quan chức thoái hóa biến chất cướp đoạt ở nhiều nơi vẫn không thu hồi. Tăng thuế kiểu “ăn sẵn” như thế này là đẩy hết khó khăn cho dân và doanh nghiệp để giành lấy sự thuận lợi cho bộ máy nhà nước đang phình to ra, tiếp tục dung túng cho thói vô trách nhiệm của cán bộ, công chức.
Tăng thu ngân sách bằng khoan sức dân để nuôi dưỡng nguồn thu là chính sách phát triển bền vững của đất nước. Nhưng chính sách này rất dị ứng với bộ máy quan liêu và những kẻ làm biếng, những kẻ tư duy theo nhiệm kỳ.

Áp lực đám đông

Nguyễn Minh Tâm (Danlambao) - Để lật đổ chế độ độc tài dễ hay khó?  Trên nguyên lý, rất dễ. Chỉ cần người dân đồng lòng xuống đường cùng lúc, cùng địa điểm chiến lược thì chế độ độc tài nào cũng sụp đổ.  Chúng ta thử đi ngược lại quy luật lịch sử để tìm hiểu vấn đề này.

Lật đổ độc tài không có nghĩa là chúng ta phải giết hết quân đội hay CA, hay chính quyền. Chuyện này sẽ không bao giờ làm được, nếu có làm cũng chỉ là trứng chọi đá, vì chính quyền được trang bị những vũ khí hiện đại nhất, còn người dân chỉ có gạch đá bom xăng v.v... Do đó phải hiểu rằng để lật đổ chế độ độc tài là khi và chỉ khi người dân có đủ sức mạnh để tạo áp lực, buộc chính quyền phải ngồi vào đối thoại. Họ phải chọn lựa giữa đối thoại hay bị truất phế. 

Vậy áp lực đó đến từ đâu? Từ những cuộc biểu tình của quần chúng trên khắp cả nước làm rung chuyển xã hội, làm kiệt quệ dần dần, chính quyền thất thu về thuế, không có đủ tiền để trả lương bộ máy công quyền, không giải quyết được lạm phát. Nếu chính quyền không chịu lùi bước để đối thoại, thì người dân tiếp tục biểu tình chiếm cứ các vị trí quan trọng như đài truyền hình, ngân hàng, sân bay, kho xăng dầu... và công nhân đình công, tài xế chận quốc lộ, học sinh bải khóa, tiểu thương bải thị trên toàn quốc thì xã hội tê liệt hoàn toàn. Khi đó buộc chính quyền phải đàn áp mạnh tay, nhưng nếu quân đội hoặc CA đứng về phía nhân dân thì chính quyền sụp đổ không gì cản nỗi. 

Nghĩa là áp lực sức mạnh luôn đến từ 2 nguồn. 

1/ Từ những cuộc biểu tình rộng khắp của người dân với tất cả các thành phần. 

2/ Từ bộ máy chính quyền bất tuân, quân đội sẽ đứng dậy, hoặc phối hợp cả 2 có thêm chút tình hình quốc tế. 

Ở đây chúng ta không bàn về vai trò của quân đội, vì nằm ngoài khả năng. Chúng ta chỉ bàn đến vấn đề, làm sao để những cuộc biểu tình của quần chúng có áp lực?. Đâu phải cuộc biểu tình nào cũng có áp lực? Trước mắt, rõ ràng số lượng người là một dạng áp lực. Càng nhiều, càng đông, bất cứ chế độ tàn bạo nào cũng run sợ. Nhưng đông mà thiếu đi tính quyết liệt, dứt khoát, thì đám đông đó lại dễ bị phân tán, đàn áp, phân chia cắt khúc. Do đó, sự quyết tâm cùng một ý nghĩ, sự thống nhất cùng một mục đích lại là bản chất sức mạnh của đám đông. Gọi là ý chí đám đông. 

Khi ý chí đám đông không rõ ràng, lạc hậu so với thực tiển, không có tính hình tượng dễ lôi cuốn, đám đông đó thiếu đi một sức mạnh, nên không tạo ra một áp lực chung. Điển hình các cuộc biểu tình ở VN, hầu như không có ý chí, chỉ là phản đối mang tính số lượng nên bị đàn áp một cách dễ dàng mà chưa cần đến những trang bị chuyên dụng như vòi rồng, chó nghiệp vụ… Những cuộc biểu tình của phong trào Otpor Serbia 2011 với khẩu hiệu quyết tâm rất rõ ràng "Nó độc tài nó phải đổ", tạo nên cả sức mạnh cho đám đông. Cuộc biểu tình Hong Kong có quyết tâm có ý chí, nhưng ý chí chưa tới, chỉ dừng lại mức yêu cầu được đề cử Đặc khu trưởng, một hình tượng mơ hồ, nên làm yếu đi sức mạnh của đám đông, chỉ chống lại chính quyền chứ không tạo nên áp lực nền tảng. 

Như vậy ý chí đám đông quyết định sức mạnh đám đông. Ý chí càng cao áp lực càng mạnh. 

Nghĩa là, số lượng và quyết chí cùng một mục đích tối thượng là sức mạnh lớn nhất của đám đông. Nó sẽ tạo ra áp lực và lan tỏa rất nhanh bao trùm lên các nhóm khác nhau. Ở giai đoạn đầu để dễ lôi cuốn quần chúng vừa bước ra khỏi sợ hãi, chúng ta biểu tình ở mức độ phản đối (vẫn còn mang tâm thức nô lệ), thì áp lực đó chưa đủ mạnh, chắc chắn qua một quá trình dài nó phải đi đến đích cuối cùng: yêu cầu, rồi lật đổ. Đó mới là áp lực thật sự của đám đông. Đích cuối cùng của đám đông phải là đích có hình tượng, bởi vì bản chất của đám đông là mơ hồ, lan tỏa và triệt tiêu cá nhân tính, họ chỉ làm theo hình ảnh. Ngược lại ý chí đám đông cũng trao cho mỗi cá nhân một sức mạnh và giúp họ vượt qua nỗi sợ hãi. 

Do đó, để cho các cuộc biểu tình có áp lực, chúng ta phải làm sao để đưa người dân về một ý nghĩ cuối cùng có hình tượng: lật đổ chế độ độc tài. Ý nghĩ phản đối, yêu cầu chỉ là quá trình chuyển tiếp, nếu chúng ta sợ sệt đàn áp, lèo lái ý chí đám đông sang một hướng nhẹ nhàng hơn thì sức mạnh của đám đông cũng mềm yếu hơn. Thí dụ, cương lĩnh đợt biểu tình là: “Phản đối Luật Đặc khu, Luật ANM”, làm sao áp lực bằng “Không Đặc khu, Không ANM”. Hoặc mạnh hơn: “Phải Trưng cầu dân ý Luật Đặc khu luật ANM”. Hoặc áp lực hơn: “Không Đặc khu Không ANM yêu cầu Quốc hội từ chức”, nhưng áp lực mạnh nhất là: Không Đặc khu, Không ANM, Không Đảng CSVN! 

Kết luận: Chúng ta phải làm sao để người dân trên khắp cả nước có cùng một ý nghĩ : lật đổ chế độ độc tài, đó mới là căn nguyên tạo ra áp lực lật đổ chế độ độc tài. Còn mọi cương lĩnh khác chỉ là gián tiếp, lèo lái, sẽ làm suy yếu ý chí đám đông. Đây mới là vấn đề khó nhất, nền tảng nhất mà mọi cuộc CM phải tìm ra. 

Như vậy, với xã hội VN, để lật đổ CS, cuối cùng là làm sao để người dân trên khắp cả nước phải có cùng ý nghĩ lật đổ CS, mọi ý nghĩ phản đối, đòi tăng lương, dân oan đất đai… chỉ là ý nghĩ ban đầu chuyển tiếp để dẫn đến ý nghĩ này, khi đó mới đủ áp lực để lật đổ CS. 

Vậy cái gì để dân Việt chấp nhận xuống đường đòi quyền lợi cho mình? 

Các cuộc biểu tình lớn xảy ra ở VN gần đây: Biểu tình ngày 11/5/2014 phản đối Dàn khoan HD981, Biểu tình ngày 5/11/2015 phản đối Tập Cận Bình sang thăm nước ta, Biểu tình ngày 5/3/2017 phản đối thảm họa Formosa, Biểu tình ngày 10/6/2018 phản đối luật Đặc khu và ANM. Còn lại im re, bị đàn áp thô bạo và kiểu như không quan tâm. 

Đặc điểm gì qua những cuộc biểu tình này: 1/ Có yếu tố Trung Cộng, 2/ Chủ quyền lãnh thổ quốc gia, 3/ Đe dọa đến sự sống còn của người dân. 

Từ đó suy nghĩ, người Việt chỉ xuống đường khi họ nhìn thấy hiểm họa xâm lăng từ TC, họ yêu nước, yêu quê hương thật sự và khi và chỉ khi cảm thấy sự sống của họ bị đe dọa, còn lại họ gần như dửng dưng chí thú làm ăn, không quan tâm. Đặc biệt người Việt không xuống đường vì miếng cơm manh áo, quyền lợi sát sườn, đói mấy, khổ cực mấy họ cũng chịu được. Đập nửa căn nhà thì vun xén, sống chui rút trong nửa căn còn lại. Đất đai bị cướp bóc sành sạch, nhưng lực lượng dân oan không phải là nhiều và họ xuống đường để đòi đất chứ không phải đòi thay đổi chế độ. Bởi vì người Việt vẫn còn tư tưởng thần dân, quy phục chính quyền và sẵn sàng cạp đất mà ăn. Công nhân bải công để phản đối tiền lương, quỹ BHXH chứ không phải mục đích lật đổ chính quyền. Cho nên cả nước sẽ không hình thành những cuộc biểu tình rầm rộ, cùng mục đích. 

Vậy hỏi làm sao đủ để tạo nên áp lực thay đổi chế độ. Cả nước chưa thống nhất một luồng suy nghĩ nên chưa có sức mạnh. Không cùng một ý chí đám đông, nên biểu tình rời rạc, phản đối theo thời vụ. 

Tuy nhiên, sâu trong tâm thức, chúng ta thấy, người Việt xuống đường bằng ý chí quật khởi, chứ không phải cơm áo gạo tiền. Thật sai lầm nếu chúng ta không vinh danh đúng tâm thức của họ! 

Người Việt rất yêu nước, yêu quê hương, có lẽ dân Việt không chấp nhận mất đi hình ảnh lũy tre làng, ao ruộng, ao cá, cùng ngọn chuối ngọn tre, cùng với tình làng nghĩa xóm mà đã ăn sâu vào tiềm thức của họ từ tiếng ru của mẹ, tiếng hát quê hương. Những hính ảnh này đẹp xiết bao, đẹp đến nỗi Việt kiều xa quê hương đến 43 năm mà vẫn còn lưu luyến. 

Do đó, để tạo đủ áp lực lật đổ CS, chúng ta phải đưa người Việt về cùng một ý chí đám đông. Trải qua lịch sử đất nước, Cải cách ruộng đất, Nhân văn giai phẩm, học tập cải tạo 1975, đàn áp dân oan, cướp đất, tàn sát nhân quyền… CS đã hiện nguyên hình là con thú dữ chống lại nhân dân, bán nước bán dân tộc, cần phải loại bỏ. Cho nên tiêu chí LẬT ĐỔ CỘNG SẢN là mục đích đúng nguyện vọng nhất của ý chí đám đông Việt. Bất cứ cuộc biểu tình nào cũng nằm trong mục đích đó. Phản đối Formosa, nhưng trong thâm tâm phải hiểu rằng lật đổ CS. Phản đối Nhiệt điện Vĩnh Tân, nhưng mục đích nhắm tới cũng là lật đổ CS. Phản đối luật ANM, nhưng phải tiến thêm một bước nữa là lật đổ CS. Khi đó những hành động của người dân mới đồng loạt, đầy sáng tạo, rộng khắp, bổ sung cho nhau, và cùng tạo nên áp lực lật đổ CS.. 

Hành động của chúng ta 

Từ những phân tích ở trên, trước nhất, theo chúng tôi, Facebooker nên dẫn đầu để tạo nên cuộc CM Việt. Có thể nói hiện tại Facebook là nơi hội tụ tất cả những nười đấu tranh trong nước, anh dũng dám công khai đối đầu với bạo quyền CS. Nếu các bạn không tạo được áp lực với CS thì người dân sẽ không bao giờ. Nếu các bạn không quy về một luồng suy nghĩ lật đổ CS thì người dân cũng sẽ hoang mang chờ đợi. Nếu các bạn không vinh danh lòng yêu nước thì người dân cũng thờ ơ với xã hội… 

Đừng suy nghĩ rằng kêu gọi lật đổ CS thì các bạn dễ bị bắt hơn. Không? Với Facebook, CS muốn bắt các bạn bất cứ lúc nào cũng được, không cần 258, không cần luật ANM, không cần đến Baidu, Weibo… chúng định vị và xác đinh IP của các bạn thật dễ dàng. Nhưng lâu nay tại sao chúng không bắt. Những người bị bắt là những người có dính tới một tổ chức nào đó hoặc có yếu tố nước ngoài, nếu các bạn hoạt động độc lập, không lo gì cả. Hơn nửa, số lượng người lên tiếng nhiều quá rồi, CS không thể bắt hết, chúng chỉ nhắm vào những người dám hành động có sức ảnh hưởng lớn mà thôi. Tiếng nói yêu nước sẽ giúp các bạn đứng lên, các bạn đã phản đối chặc cây xanh, phản đối Formosa, phản đối luật đặc khu ANM... các bạn cần phải nâng lên một cấp độ nữa, mà CS cũng sẽ bó tay, không thể làm gì được, bởi họ biết dù có cầm tù các bạn cũng vô ích, bắt thì dễ nhưng thả rất khó, còn nhiều mối quan hệ đối với các nước và chỉ làm cho các bạn nổi tiếng thêm. Như vậy tại sao các bạn không nhìn thẳng trực diện vấn đề, đó mới chính là áp lực của đám đông? Tại sao các bạn không hô hào thẳng vấn đề: Quốc hội phải giải thể, Thủ tướng phải từ chức, giải thể chế độ độc tài, lật đổ kẻ bán nước, đảng phải loại bỏ, phải thay đổi cơ chế, trả quyền tự quyết về cho nhân dân… Tôi ủng hộ anh Đinh Quang Tuyến, những buổi livestream của anh hừng hực tinh thần yêu nước, kêu gọi lật đổ CS. Tại sao chúng ta không làm như anh mà lại ngồi cãi nhau Facebook hay Minds? 

Chúng ta đã chấp nhận công khai phản đối chế độ độc tài, thì chúng ta cũng nên tiến lên đòi giải thế chế độ độc tài, còn không họ sẽ nghiền nát bạn. Mọi hình thức gián tiếp, chệch hướng, ngụy trang sẽ làm cho mục đích của chúng ta mờ nhạt, yếu thế, đấu tranh lung tung, không biết đấu tranh cái gì, và như vậy sức mạnh áp lực sẽ không có, chúng ta lại chạy lòng vòng do đảng dẫn dắt như những con cừu. 

Chỉ khi nào các bạn Facebooker công khai kêu gọi lật đổ CS, khi đó chúng ta mới loại trừ những định hướng viên mà đảng cài cắm muôn màu trên web, để người dân thật sự thấy được sức mạnh của mình mà tham gia phong trào. 

Nhưng, cũng đừng nên suy nghĩ rằng, chỉ facebook mới là sức mạnh để lật đổ CS. Chúng tôi đã đi theo suốt ngày cùng với nhân dân trong đợt biểu tình ngày 10/6 để hỏi quần chúng rằng: “Làm sao các anh chị em biết cuộc biểu tình này mà tham gia.” 100% câu trả lời: “Trên mạng đó anh - Ace có chơi face không? Bọn em không chơi face, coi trên web và youtube đó”. 

Nghĩa là, không những facebooker, mà tất cả các website, youtube, blogger…, cũng phải cùng trên guồng máy áp lực này. Tất cả phải cùng trên ý chí đám đông là: LẬT ĐỔ CỘNG SẢN hoặc những hình tượng tương đương. Mọi hình thức gián tiếp, đấu tranh lung tung chỉ làm giảm đi áp lực của sức mạnh mà thôi. 

Cũng từ những nhận thức trên, trở lại chương trình BIỂU TÌNH KẸT XE LẬT ĐỔ CỘNG SẢN chúng tôi xin phép được gia cố thêm một số vấn đề như sau: 

1/ Chúng ta vẫn tiếp tục thực hiện chương trình này vào sáng thứ 7 và chủ nhật hằng tuần từ 9g- 11g. Đây là chương trình biểu tình AN TOÀN kiên trì lâu dài để tập trung phát triển lực lượng mà CS không cách nào cản trở được. Nó giúp người dân vượt qua sợ hải và dần định hình ý tưởng LẬT ĐỔ CỘNG SẢN. Khi lực lượng đã đủ đông, truyền miệng khắp nơi và hiểu cương lĩnh chương trình này thì CS bó tay, không chống đở nỗi. Người dân Đông Đức đã tuần hành IM LẶNG hàng tháng trời trong đêm khắp cả thành phố Leipzeig, để đến khi nó lan tỏa ra cả ngàn người ở các thành phố khác thì Stasi không thể đàn áp nỗi, đã hình thành nên Bức tường Berlin sụp đổ. Cho nên chúng ta hãy kiên nhẫn thực hiện chương trình này, không có chiến lược nào “mì ăn liền” mà chiến thắng bạo quyền cả. Chúng tôi vẫn cảm nhận được dòng người lưu thông nhiều hơn ở khu vực đường Trường sơn vào sáng thứ 7 và chủ nhật khoảng từ 10g30 đến 11g. Các bạn hãy đi để cảm nhận cùng chúng tôi và điều thích thú nhất vẫn là: nhìn bọn đầu trâu mặt ngựa chạy ngược chạy xuôi lo toan kẹt xe, ăn cơm hộp, ló thụt ở gốc cây mái hiên nhà mà tội nghiệp. Chúng nó phải làm việc cả ngày đến đêm, không còn vẻ sát khí như trước, ngược lại thằng nào cũng mệt mõi rệu rã, chán chường. 

2/ Khi tham gia chương trình này, BÓP CÒI là hiệu lệnh biểu tình. Hãy bóp còi thường xuyên, bóp còi là tiếng nói của những người tham gia, bóp còi là hiệu lệnh để tiến lên vượt mọi vật cản. BÓP CÒI- BIỂU TÌNH- LẬT ĐỔ CỘNG SẢN. 

3/ Hãy chọn 1 chi tiết màu vàng khi tham gia biểu tình. Hãy mặc chiếc áo màu vàng, hay đội cái mũ màu vàng, hoặc đôi giày màu vàng, hoặc bửng xe màu vàng, hay một miếng decal nhỏ dán trên xe màu vàng, hoặc bao tay màu vàng v.v... để thêm màu sắc cho vui tạo thêm áp lực khi tham gia, và nhớ rằng luôn luôn bóp còi. 

4/ ĐÚNG GIỜ. Đúng giờ là yêu cầu rất quan trọng để thực hiện chương trình này. Cùng một dung lượng nước nhưng xả lũ trong 1 ngày là lũ quét, nhưng kéo dài trong 1 tuần là tưới cây. 

5/ Nhớ rằng, không ai có thể bắt bạn ngừng xe ngoài CSGT, cho nên CSCĐ, ATTT, ANĐT, CA phường quận, chỉ đứng nhìn bạn di chuyển mà thôi. 

ĐẢNG BÁN NƯỚC, BÁN DÂN TỘC PHẢI SỤP ĐỔ 

Sài Gòn 6/7/2018 

Truyện về Tứ Trụ 1: Gu Gờ

Hồ Chí Phèo (Danlambao) - Tứ Trụ triều đình gồm Cả Lò, Đại Q, Xờ Phờ và bà Khờ Ngờ đứng đầu Đảng và Nhà nước nhưng mọi tầng lớp nhân dân thường hay ta thán, diễu cợt các chính sách hút máu, bóp cổ cũng như hoàn toàn không có lòng tin vào Tứ Trụ. Vốn là những kẻ độc tài, chuyên chế, Tứ Trụ bực mình lắm, ra lệnh cho bọn cận thần tìm mọi cách khắc phục.

Bọn này sau một thời gian điều tra, xem xét kỹ càng sự việc đã tâu trình với Tứ Trụ “Lòng dân không tin, không nghe, luôn tìm cách chế nhạo, chửi xỏ xiên Tứ Trụ là do con Gu Gờ Phê Tê Bốc được tự do chạy nhảy lung tung. Nay Đảng và Nhà nước phải có cũi sắt “An ninh mạng” để nhốt con Gu Gờ Phê Tê Bốc này vào thì Tứ Trụ mới được yên ổn". 

Không ai trong Tứ Trụ biết con Gu Gờ Phê Tê Bốc là con quái quỉ gì mà phải dùng đến củi sắt! Phải tìm hiểu ngay Gu Gờ Phê Tê Bốc là con gì? Tuy trời đã tối và khá lạ lùng, Tứ Trụ vô cùng khẩn trương theo hướng dẫn của cận thần đi ra một sân rộng, nơi con Gu Gờ Phê Tê Bốc đang đứng, để tìm hiểu con này như thế nào? 

Cả Lò thấp nhỏ người, tiến đến trước, rờ rẫm con Gu Gờ Phê Tê Bốc một lát rồi phán một cách tự tin: 

- Ối giời ơi… con Gu Gờ Phê Tê Bốc mềm mềm cong cong và dài ngoằng như vòi nước cứu hoả. Đây chính là con giun khổng lồ có đầu loe ra để hút và xịt nước. Ta phải bỏ nó vào cũi sắt, không khéo nó xịt nước, lò của mình tắt ngủm. Còn đâu Cả Lò? 

Đại Q cao người nên đưa tay rờ trúng vào đầu con Gu Gờ Phê Tê Bốc, Đại Q mừng rỡ phán: 

- Tưởng gì… con Gu Gờ Phê Tê Bốc to bè bè như hai cái nan quạt. Đây là một con bướm khổng lồ còn xót lại thời tiền sử, nên để nó ra ngoài xã hội rất nguy hiểm. 

Xờ Phờ do đầu cứ nghiên qua một phía nên rờ trúng ngay phần sau đít con Gu Gờ Phê Tê Bốc. Sau khi đưa tay rờ, đưa lên ngửi và nếm thử, Xờ Phờ không do dự phán ngay: 

- Dăm mì… Con Gu Gờ Phê Tê Bốc có mùi vị phân của một loại tê giác khổng lồ. Ta nên nhốt và khai thác sừng để xuất khẩu, giá trị kinh tế cao. 

Bà Khờ Ngờ chỉ còn dư chổ để rờ dưới bụng, phía gần đuôi con Gu Gờ Phê Tê Bốc. Không hiểu sao bà ta bật cười sung sướng khi rờ phải cái gì đó. Nhưng bất ngờ bà lại kêu lên thảm thiết, quay lăn ra đất, giãy đành đạch. 

Mặc cho bà Khờ Ngờ nằm ăn vạ, bộ ba còn lại hăng hái thảo luận xác định con Gu Gờ Phê Tê Bốc là con gì? Mỗi người một ý, không ai nhường ai nên từ cải lộn chuyển thành đánh lộn, kẻ u đầu người mẻ trán. Cuối cùng, may mắn nhờ phát huy tinh thần hoà hợp hoà giải XHCN, cả ba đều nhất trí: "Con Gu Gờ Phê Tê Bốc là con… Gu Gờ Phê Tê Bốc!". Cả ba nâng bà Khờ Ngờ dậy tuy bà ta vẫn còn sụt sùi, Tứ Trụ cùng nhất trí phải nhanh chóng đưa cũi "an ninh mạng" vào để nhốt ngay con Gu Gờ Phê Tê Bốc vì cho nó là nguyên nhân đưa đến cải lộn, đánh lộn, rên la thê thảm… Đến đây hết chuyện về con Gu Gờ Phê Tê Bốc! 

Lời bàn thêm: 

Có người đọc truyện sẽ nổi giận: "Thằng cha Hồ này viết truyện đầu đuôi chả ra đâu vào đâu! Mở đầu là con Gu Gờ, kết luận lại cũng là con Gu Gờ. Trong sáng như ban ngày, đây là con voi… Hừm... có lẽ… một con voi đực trong truyện ngụ ngôn "Thầy bói mù rờ voi"". 

Xin được thưa. Đây đúng là truyện "Thầy bói mù rờ voi" được viết lại theo kiểu cách XHCN. Trong chế độ độc tài chuyên chính CS, kẻ lãnh đạo luôn muốn tất cả mọi việc mù mờ để dễ làm việc, dễ bưng bít, dễ nói láo: mật nghị, bắ́t cóc hay đầu thú ai muốn hiểu sao cũng được, đừng mong kê khai trung thực tài sản của lãnh đạo… 

Tứ Trụ không phải thầy bói mù mắt nhưng bọn họ chỉ muốn rờ rẫm con voi to lớn trong bóng tối để tuyên truyền, để nói láo. Nhờ cái cũi nhốt con Gu Gờ Phê Tê Bốc lại thêm độc quyền nói láo. Thực ra cho dù có trời trong sáng chỉ ra đó là con voi, nhóm Tứ Trụ vẫn khăng khăng không nhận hay giả vờ không nhận là con voi vì đó là nguyên tắc để che dấu ý đồ bên trong của đảng CSVN. 

Các nước trên thế giới luôn bày tỏ e ngại về sự bành trướng của Hán tộc Tàu, mọi người dân Việt đã nhìn thấy sự hung hãn lấn áp của Tàu trong lịch sử, mưu mô chiếm trọn biển Đông hiện nay của Tập… Nhưng Tứ Trụ vẫn trơ trẽn mời gọi kẻ đã chiếm đảo mình, húc chìm tàu ngư dân mình…? Tứ Trụ như kẻ có mắt nhưng có khác gì kẻ mù? Không phải bệnh mù mắt mà mù từ trong não bộ, đen kịt trong não và như chỉ biết làm theo hướng dẫn từ một mật ước, mật nghị nào đó, hay từ một cấp cao hơn? 

Cũng xin được nhắc, Tứ Trụ rất vội vã thông qua qua các luật An Ninh Mạng và bước tới luật đặc khu. Tứ Trụ bắt buộc phải hoàn thành chỉ tiêu đã đề ra trong năm nay. Một chỉ tiêu không phải từ Tứ Trụ, nó ở một cấp nào cao hơn? Người dân sẽ chịu đựng sự đàn áp, bắt bớ, đánh đập thô bạo nhiều hơn. Sau 30/4/1975 có sự di tản hàng triệu người Việt. Sau luật an ninh mạng cũng có sự di tản người Việt từ “Facebook” sang “Minds”. Sau luật đặc khu và chế độ nô lệ hình thành ở Việt nam, sẽ còn bao nhiêu cuộc di tản khác? Thảm thương cho mẹ Việt nam, phải nuốt lệ nhìn thảm cảnh người dân Việt phải chịu đựng trên mảnh đất tổ tiên đã để lại. 


Share

Tản mạn chuyện gái đĩ còn trinh, nhân sự vụ ông Chủ tịch tỉnh Quảng Ninh "bị bôi nhọ"!

Bác Tuyên xe ôm (Danlambao) - Hôm nay, báo đăng, UBND tỉnh Quảng Ninh đề nghị BCA vào cuộc điều tra về việc chủ tịch tỉnh tỉnh này, ông Nguyễn Đức Long "bị bôi nhọ thanh danh, uy tín" liên quan đến những phát biểu của ông trong cuộc họp ngày 2/7/2017, về Đặc khu Vân Đồn, và dự luật Đặc khu! Chuyện ông Long có "bị bôi nhọ" hay "tự bôi nhọ" thì có lẽ, hơn ai hết, chính bản thân ông hiểu và cảm nhận rõ nhất! "Bạn có thể lừa gạt mọi người, nhưng không thể lừa gạt lương tâm chính mình". Việc này đã có đảng và Nhà nước lo, nên tôi không bàn luận, sẽ thừa!

Không hiểu sao, một chuyện không liên quan, nhưng làm tôi chợt nhớ, đó là sự việc nhóm 423 ĐBQH bấm nút thông qua luật ANM, mà không một ai trong số họ, dám vỗ ngực xưng tên công khai và hãnh diện nhận mình làm việc đó! Ơ hay! Nếu đó là việc tốt, là việc làm vì dân vì nước, sao họ không mạnh dạn công khai cho người dân biết, để nhân dân còn biết, mà khắc bia, lập tượng đài nhỉ? Thiệt là khó hiểu! Nhưng, có một việc rất dễ hiểu, tự ngàn xưa, phường đầu trộm đuôi cướp, hầu hết, chúng lén lén lút lút khi hành sự! Đơn giản vậy thôi mà! 

Bỏ chuyện này đi, giờ tôi xin nói về việc gái đĩ còn trinh. Ở quê tôi, lưu truyền câu chuyện, cô gái kia làm nghề bán thân nuôi con. Một ngày nọ, khách làng chơi đến, trong đêm tối, khi đang nhấp nha nhấp nhỏm bắt đầu mây mưa, thì cô gái la lên: "- Anh ơi! Từ từ, đau em quá!". Người đàn ông ngạc nhiên: "- Em phận má hồng ở chốn lầu xanh tiếp khách mà còn trinh ư?!". Cô gái ỏn ẻn: "Dạ không! Anh vội quá, cởi đồ em không hết, nên lưng em cấn chiếc nút áo!" 

Thưa quý vị! Nhiều người đem câu chuyện này để mua vui lúc trà dư tửu hậu, trong đó có tôi! Tuy nhiên, ở nhìn từ một góc độ khác, tôi quý và trân trọng cô gái phải nhuốm bụi phong trần ấy! Bởi, xét ở góc độ sự liêm sỉ, trung thực, danh dự, và lòng tự trọng của cô gái này, thì cô hơn hẳn tuyệt đối so với bộ mặt vĩ đại của giới quan chức nước nhà! Quan chức càng cao thì bộ mặt càng vĩ đại! Cứ thế, bộ mặt họ càng dày sự vĩ đại thì lại tỉ lệ nghịch với danh dự, nhân phẩm, tự trọng... nhưng nó lại tỉ lệ thuận theo cấp số nhân với sự vô liêm sỉ! Nói cách khác, liêm sỉ, xấu hổ... là những từ ngữ đã bị tuyệt chủng trong bộ não vốn dĩ không nhiều nếp nhăn của quan chức! Thế thôi! 

Trở lại sự vụ mà lâu nay, truyền thông lề đảng hay nhắc tới: quan chức bị bôi nhọ! Như trên đã nói, đều là hành động bôi nhọ, nhưng, tự bôi nhọ và bị bôi nhọ là hai chuyện khác nhau như nước với lửa! Những con chuột ngày đêm đục khoét phá hại tài sản người dân, một loài vật mà bất kì người nào cũng đều căm thù vì sự phá hoại của chúng, nên họ xua đuổi, ngay cả giết chết (nếu có thể) là điều tất nhiên, như một chân lí! Và chẳng người dân nào, muốn dây tay vào giống chuột hôi thối, bẩn thỉu đến buồn nôn ấy cả! Chẳng ai dại khờ làm điều đó bao giờ! Tất cả người dân đều hiểu và nhận thức được về sự tàn phá, bẩn thỉu của chuột. Chẳng qua, họ có nói ra suy nghĩ của mình về thực tế này hay không mà thôi! Chứ không phải, họ nói hay không nói, thì sự tàn phá, sự bẩn thỉu hôi thối của chuột tăng lên hay giảm xuống chút nào đâu! 

Ôi! Đời làm chuột thiệt nhọ mà! 

Sài Gòn, 5/7/2018 

Tương quan oan nghiệt: Thuỷ điện, phá rừng và lũ lụt

Nguyễn Hoàng Dân (Danlambao) - Trong các ngày 23/6 đến 25/6 mưa lớn liên tục và kéo dài trên khu vực núi rừng tây bắc Bắc Phần - cụ thể là tại hai tỉnh Hà Giang và Lai Châu, vũ lượng 24 giờ đo tại các trạm quan trắc liên hệ đều ở mức từ hơn 100li đến hơn 300li, có nơi đến mức 386li như tại trạm Nậm Giàng – Lai Châu, bên cạnh các hồ đập thủy điện phía thượng nguồn đều đồng loạt xã lũ với lưu lượng cực đại, khiến trận lũ quét dữ dội và sạt lở đất đá nghiêm trọng đã xảy ra tại hai tỉnh này, gây thiệt hại nặng cả về nhân mạng lẫn vật chất cho dân chúng địa phương.

Đây không phải là thiên tai thuần túy, cũng như không phải là lần mới xảy ra đầu tiên. Yếu tố nhân họa do con người trực tiếp gây nên – cụ thể là đủ mọi tầng lớp cán bộ đảng viên cộng sản Việt Nam từ trung ương xuống đến địa phương, cấu kết với các băng nhóm lợi ích, các đại gia đỏ đục khoét, chia chác, thâu tóm mọi nguồn tài nguyên quốc gia bất kể hậu quả để bỏ túi làm của riêng, mới là nguyên nhân chính đưa đến thảm họa khi tha hồ phá hoại mọi lâm phần, khai thác cạn kiệt mọi khu rừng già nguyên sinh đầu nguồn sông suối để làm thủy điện, dưới chiêu bài chuyển đổi công năng diện tích rừng tự nhiên, trong mục đích đầy ích nước lợi nhà như vì sự phát triển của địa phương, cho sự phồn vinh của người dân sở tại, hay cao cả hơn là mang lại nguồn sáng cho những nơi địa đầu tổ quốc?? và cuối cùng rất thản nhiên khi sẵn sàng mở cửa cống đập xả lũ kinh hoàng xuống dưới hạ du để cứu đập, cứu nhà máy là tài sản thứ cấp của chúng, với một thái độ trơ lì, dửng dưng và trơ tráo cãi chày cãi cối, chối tội quanh co, bao che cho nhau không có một chút gì ý thức tự trọng, lương tâm, hay liêm sĩ, còn thua cả loài cầm thú. 

1/ Thủy điện nhỏ: Thanh gươm Damocles.

Các thống kê chính thức về nguồn tài nguyên nước cho thấy Việt Nam có khoảng 2.732 con sông có chiều dài hơn 10km, trong đó 90% là thuộc loại nhỏ và một mạng phụ lưu, suối, khe, lạch, hồ, đầm chằng chịt. Đa số đều hình thành và xuất phát từ các rặng núi cao, dài và hiểm trở như cánh cung Đông Triều, Hoàng Liên Sơn (Fansifa) ở miền bắc và Trường Sơn ở miền trung, nên đều có độ dốc đầu nguồn lớn, nhiều ghềnh, thác và trong điều kiện khí hậu nhiệt đới gió mùa, vũ lượng hàng năm cao từ 1.800 – 2.000 li đã là điều kiện thuận lợi để xây dựng và phát triển thủy điện.

Tại miền nam Việt Nam, các khảo sát tiềm năng thủy điện do công ty năng lượng Việt Nam VPC (Vietnam Power Company) của chính phủ VNCH, thực hiện dưới sự bảo trợ của USAID Việt Nam trong năm 1972 khuyến cáo dù tiềm năng rất lớn, nhưng VNCH chỉ nên thực hiện trong giới hạn tối đa là 4.015MW công suất lắp máy về thủy điện. Cụ thể chỉ khai thác thủy điện trên lưu vực các sông chính từ Thừa Thiên vào đến Phú Yên khoảng 635MW, lưu vực sông Đồng Nai cùng các phụ lưu khoảng 2.300MW và trên cao nguyên khoảng 1.080MW. Không khai thác thủy điện nhỏ do hiệu quả kinh tế kém, trung bình chi phí căn bản cho 1KW trang bị đối với thủy điện nhỏ dưới 10MW cao gấp 6 lần so với các cơ sở thủy điện lớn 300MW trở lên, cao hơn cả giá khai thác điện diesel. Hơn nữa, do phần lớn địa hình miền trung nơi tập trung hầu hết tiềm năng thủy điện lại rất hẹp bề ngang, sông suối ngắn, nhưng có độ dốc rất lớn, nên cần phải duy trì thảm thực vật rừng đầu nguồn để hạn chế cường độ lũ, lụt đổ dồn về hạ lưu trong mùa mưa.

Sau năm 1975, các khảo sát đánh giá tổng trữ năng lý thuyết về thủy điện của Việt Nam là vào khoảng 35.000MW, trữ năng kỹ thuật khoảng 31.000MW, trong đó có 60% tập trung ở miền bắc, 27% ở miền trung và 13% ở miền nam. Tại bắc vỹ tuyến 17, các lưu vực đắc địa là sông Đà khoảng 6.800MW, hệ thống các sông Lô, sông Gầm, sông Chảy khoảng 1.600MW, hệ thống sông Mã, sông Chu khoảng 760MW. Tiềm năng thủy điện nhỏ (công suất lắp máy dưới 30MW) có khoảng 3.000MW cho cả toàn quốc.

Nhu cầu ngày càng lớn về điện, sự khao khát thúc đẩy bởi việc thánh hóa quan điểm của ông tổ Lenin chủ nghĩa cộng sản là chính quyền Sô Viết cộng với điện khí hóa, sự quay lưng của Trung Cộng trong các kế hoạch xây dựng nhiệt điện chạy than trong thập niên 80 ở miền bắc, quyết định ngã hẳn về Lienxo để tiến nhanh, tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội, với các viện trợ kỹ thuật, tiền bạc khá ưu ái để xây dựng thủy điện Trị An, Hòa Bình đến từ Moscow và nhất là trong điều kiện tiềm năng lớn, yêu cầu đầu tư vừa phải, có thể dể dàng lợi dụng và tập trung một lực lượng lao động không công đông đảo cho những công trường đại thủ công tiên khởi và căn bản như phá rừng, thu dọn lòng hồ, đào kinh dẫn dòng… khiến việc khai thác thủy điện trên các dòng chính ở Việt Nam đã phát triển rất mạnh trong các thập niên cuối thế kỷ 20.

Hiện nay có tổng cộng 39 nhà máy thủy điện lớn, công suất thiết kế hơn 100MW tới 2.400MW mỗi nhà máy đã xây dựng xong, hay đang được xây dựng hoàn tất, có tổng công suất thiết kế lên đến 15.838MW và do trung ương quản lý. Tiềm năng kỹ thuật và khả thi của thủy điện lớn tại Việt Nam đã được khai thác hết.

Bên cạnh đó, trong khoảng hai mươi năm trở lại đây, khi nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã biến nền kinh tế quốc dân Việt Nam thành một sân chơi hổn loạn cho chủ nghĩa tư bản hoang dã, trước nguồn lợi to lớn, dể thâu tóm, các đòi hỏi vốn đầu tư gần như bằng không, vì chỉ cần lấy mở nó rán nó (phá rừng, chặt cây và bán gỗ), cũng như quyền quy hoạch, lập dự án phát triển thủy điện nhỏ được giao về cho cấp tỉnh và sở công thương, chỉ cần có sự chuẩn thuận của ủy ban tỉnh và bộ công thương, nên hàng loạt các dự án thủy điện nhỏ đã được giới tư nhân đại gia đỏ, có sự chống lưng, hay là sân sau của giới quan chức cấp tỉnh, cấp bộ ồ ạt đầu tư thông qua các hình thức BOT (Build Operate Transfer), hoặc BOO (Build Own Operate), mà nguồn lợi nhuận khổng lồ được nhắm tới và ngay trước mắt là gỗ và cây rừng, việc xây dựng nhà máy, sản xuất và bán điện của rất nhiều cơ sở thủy điện nhỏ chỉ là phó sản của dự án. 

Tính đến cuối năm 2016 trên các hệ thống sông, suối ở mọi miền Việt Nam đã có khoảng 7.500 cơ sở hồ đập thủy điện và hồ đập ngăn nước. Trong đó mạng lưới hồ tích nước thủy điện có tổng dung lượng khoảng 56 tỷ m3, chiếm tỷ lệ 86% tổng dung tích hồ chứa nước các loại.

Tổng công suất thiết kế đang hoạt động của hệ thống các nhà máy thủy điện đã lên đến 17.022MW, chiếm tỷ lệ 44% trong toàn bộ công suất ngành điện, nhưng do tuyệt đại đa số hơn 90% đều là những cơ sở thủy điện nhỏ, chỉ có công suất trang bị từ 1MW – 30MW nên thủy điện hàng năm chỉ cung ứng được 35% tổng lượng điện thương phẩm, trong đó những cơ sở thủy điện nhỏ chỉ sản xuất ra được khoảng 29% điện năng trong tổng lượng điện thương phẩm của thủy điện. Cụ thể tính tới giữa năm 2017 có tất cả 713 dự án thủy điện nhỏ được quy hoạch trong toàn quốc, với tổng công suất thiết kế 7.217MW, trong đó có 411 dự án với tổng công suất 4.515MW đã xây dựng xong, hay đang xây dựng.

So với nhiệt điện than chiếm 32%, cung cấp 37% điện thương phẩm, nhiệt điện turbin khí chiếm 20%, cung cấp 26% lượng điện thương phẩm, rõ ràng nguyên nhân sâu xa và thực sự của việc phát triển vũ bão các cơ sở thủy điện nhỏ tại Việt Nam, không hề xuất phát từ yêu cầu cung cấp điện, mà chỉ là mượn tính hợp lý phát triển thủy điện để có cớ khai thác gỗ của các nhóm lợi ích, đầu nậu phá rừng.

Sự lì lợm, thói tham ăn và phi nhân tính cộng sản đã lên tới mức thượng thừa khi hội nghị về phát triển thủy điện vừa và nhỏ trong tháng 7/2017 do bộ công thương, hiệp hội năng lượng và tập đoàn điện lực của Hà Nội đã quyết định sẽ tiếp tục ưu tiên phát triển thủy điện, đưa tổng công suất thủy điện từ 17.000MW hiện nay lên 21.600MW vào năm 2020 và 24.600MW đến năm 2025. Trong đó không loại trừ việc nghiên cứu, khôi phục lại 300 – 400 dự án thủy điện nhỏ bị tạm thời đình động vì tiềm ẩn các nguy cơ hủy hoại môi sinh. Do đó rừng Việt Nam sẽ tiếp tục bị tàn phá để làm thủy điện. Trên đầu dân chúng tại các vùng hạ du liên quan sẽ tiếp tục bị treo các quả bom nước là các nhà máy thủy điện được xây dựng trong cẩu thả, vận hành trong sự tắc trách khinh thường mạng sống con người chẳng khác gì thanh gươm Damocles. 

2/ Rừng đã hết.

Năm 1945 tổng diện tích rừng của Việt Nam có vào khoảng 14,3 triệu ha, bao gồm nhiều loại rừng khác nhau từ rừng rậm nguyên sinh, rừng hổn giao, rừng lá kim, rừng núi đá vôi, rừng thưa, đến rừng tràm, rừng ngập mặn ven biển, với những thảm thực vật phong phú, đa dạng, có độ che phủ đến gần 44%. Rừng Việt Nam phân bố khắp ba miền, tập trung nhiều trong các vùng tây bắc, đông bắc Bắc phần, bắc Trung phần, cao nguyên Trung phần và miền đông Nam phần, đã được con dân Việt Nam ghi nhận với niềm hãnh diện là đất nước của rừng vàng biển bạc.

Đáng tiếc và phải nói ngay ra rằng chỉ sau hơn 75 năm oằn mình dưới sự cai trị ngu dốt, nhưng đầy tham lam không đáy của cái gọi là đỉnh cao trí tuệ cộng sản Việt Nam thì tín điều tốt đẹp này đã trở thành một thứ huyền thoại dân tộc xót xa, chỉ còn lưu dấu trên các trang sách vở cũ. Núp dưới thứ chủ trương lưu manh chuyển đổI công năng của rừng để phát triển kinh tế bằng các sân golf 18 lổ, các resort du lịch sinh thái và các nhà máy thủy điện, tập đoàn cán bộ, đảng viên cộng sản mafia đỏ Hà Nội, thông qua bọn đại gia đỏ chuyên nghề nhứt phá sơn lâm, đã thẳng tay tàn phá rừng Việt Nam không ngưng nghỉ, biến đủ loại danh mộc và lâm đặc sản trở thành biệt phủ ngàn tỷ và nguồn ngoại tệ đen cất giấu ở ngoại quốc. Do đó lâm phần Việt Nam theo hướng ngược lại ngày càng tàn tạ, diện tích rừng ngày càng giảm sút nhanh chóng và nghiêm trọng, cả về khối lượng lẫn chất lượng.

Năm 1995 diện tích rừng Việt Nam chỉ còn 9,3 triệu ha, trong đó có 8,253 triệu ha rừng tự nhiên và 1, 047 triệu ha rừng trồng, với độ che phủ còn 28, 2%. Theo ước tính của ngân hàng phát triển Á Châu ADB (Asian Development Bank) trong giai đoạn 1976 đến 1990 tỷ lệ mất rừng hàng năm của Việt Nam là 185.000 ha.

Trong giai đoạn từ năm 2006 tới 2013, có 386.290 ha rừng, trong đó 78% là rừng nguyên sinh bị phá hủy, để chuyển đổi công năng sang mục đích xử dụng khác cho 2.991 dự án phát triển kinh tế. Năm 2014 có 260.880 ha rừng, trong đó có 88,76% là các khu rừng nguyên sinh cũng bị chặt hạ để chuyển đổi mục đích xử dụng sang các dự án kinh tế khác.

Năm 2016 rốn rừng Việt Nam trên vùng cao nguyên coi như bị xóa sổ. Trong các năm từ 1975 đến 2013, các tỉnh cao nguyên mất khoảng 32,8% diện tích rừng già, giảm từ 3,8 triệu ha xuống còn 2,5 triệu ha, trung bình mỗi năm mất 33.600 ha rừng và tăng lên gần 50.000 ha trong những năm tiếp theo.

Tuy nhiên từ năm 2000 trở đi, các báo cáo của chính phủ Hà Nội đều thể hiện các con số diện tích rừng và độ che phủ của rừng đã liên tục có một sự gia tăng ngoạn mục. Năm 2005 theo Hà Nội thì Việt Nam có 12,7 triệu ha rừng, với 10,2 triệu ha rừng tự nhiên và 2,5 triệu ha rừng trồng, có độ che phủ 36,7%. Năm 2015 diện tích rừng tăng lên 14,06 triệu ha, trong đó có 10,17 triệu ha rừng tự nhiên và 3,88 triệu ha rừng trồng, có độ che phủ 40,08%.

Thực chất của sự việc hiển nhiên không phải là phép lạ, mà chỉ là một nỗ lực cải thiện các con số bằng sự gian xảo có chủ ý, lộng giả thành chân và đánh tráo bản chất định nghĩa rừng của Hà Nội.

Thuật ngữ rừng tự nhiên được cộng sản Việt Nam xử dụng lươn lẹo một cách quỷ quyệt, vừa cộng dồn các loại rừng giang, tre, nứa, vầu, chổm… mới được xếp luôn vào hệ thực vật rừng từ năm 2011, vừa để chỉ loại rừng thứ cấp, rừng cây tạp (đa số chỉ cao dưới 2m) và các loại cây bụi tái sinh trên đất rừng già đã bị khai thác gỗ cạn kiệt, trở thành loại rừng nghèo không còn giá trị kinh tế, cũng như đã bị mất thảm thực vật dưới rừng, không còn giá trị giữ ẩm, hay điều tiết nguồn nước. Tương tự, các diện tích trồng cây cao su, cây đặc sản trên đất lâm nghiệp, cũng được tính luôn độ che phủ, với hệ số tương đương 1,34%, trong mục đích gia tăng tỷ lệ độ che phủ cho phù hợp với con số diện tích rừng mạo nhận, hay do Hà Nội vẽ ra. Rừng trồng còn nghèo nàn hơn, tuy có thể chủ động điều chỉnh tốc độ tăng trưởng cao hơn nhiều lần so với loại rừng thứ cấp tái sinh, nhưng do là rừng độc canh với các loại cây thứ phẩm dể trồng, mau lớn như bạc hà (bạch đàn), keo, bồ đề, thông, nên vừa tàn phá đất rừng, vừa có giá trị sinh học thấp, nếu không muốn nói thảm thực vật chân rừng không đáng kể, hay hoàn toàn không có.

Theo tổ chức FAO, năm 2010 diện tích rừng Việt Nam có khoảng 13,797 triệu ha rừng, trên tổng diện tích đất rộng khoảng 31,008 triệu ha. Trong đó có 10,205 triệu ha rừng thứ cấp tái sinh tự nhiên, chiếm 74%, rừng trồng có 3,512 triệu ha, chiếm 25% và rừng già nguyên sinh chỉ có 80.000 ha, chiếm 1%. Có nghĩa là rừng Việt Nam đã hết gỗ, các đại gia trong ngành gỗ Việt Nam như Hoàng Anh Gia Lai, tập đoàn cao su Việt Nam, công ty hợp tác kinh doanh quân khu 4… đã lấn sân, bỏ vòi sang phá rừng, khai thác gỗ tại Cambodia và Lào, dưới danh nghĩa để trồng cao su và dựa vào mối quan hệ với nhiều cấp lãnh đạo trong những chính phủ liên hệ và phương châm "không có việc gì khó, chỉ sợ tiền không nhiều".

Do đó, cùng với quyết tâm mở mang cao su, tích cực xây dựng du lịch sinh thái với hệ thống resort cao cấp, hay rèn luyện thể thao đẳng cấp với sân golf, sự phát triển thủy điện nhỏ một cách lan tràn và ồ ạt ở Việt Nam hiện nay chỉ là bình phong để che đậy cho dã tâm phá rừng.

Trung bình để sản xuất ra được 1MW thủy điện phải đổi với 10 – 30 ha rừng, hay để có 1.000 ha hồ chứa nước cũng phải cạo sạch 1.000 – 2.000 ha rừng và đất rừng phía thượng nguồn. Với 411 dự án thủy điện nhỏ, có tổng công suất 4.515MW, đã được bộ công thương và ủy ban các tỉnh, thành xây dựng xong, hay đang xây dựng, thì ước tính khiêm tốn nhất cũng phải có tối thiểu 135.471 ha rừng phải sẵn sàng làm của hiến tế cho các quan chức cộng sản.

Vài ung nhọt lộ ra trong hàng trăm ung nhọt phá rừng cao nguyên miền nam núp dưới chiêu bài thủy điện cho thấy thủy điện Dak Ble công suất 5MW, nhưng đã lấy hơn 96 ha đất, trong đó có 58,5 ha rừng tự nhiên kể luôn cả 3 ha rừng đặc dụng của lâm viên quốc gia Kon Ka Kinh. Thủy điện Krong Pa 2 có công suất 15MW, lấy 52 ha đất, trong đó có 11 ha rừng tự nhiên. Hay thủy điện Chư Pông Krông công suất 7,5MW, nhưng đã lấy hết 5,5 ha rừng đặc dụng của khu dự trữ sinh quyển Nam Ka.

Tại các tỉnh miền bắc, tình hình các tỉnh thi đua làm thủy điện để tư túi, xà xẻo lại càng nhộn nhịp hơn.

Tỉnh Hà Giang lập quy hoạch phát triển đến 72 nhà máy thủy điện nhỏ khắp các sông, suối trong tỉnh. Dày đặc nhưng tổng công suất lắp máy chỉ có 768,8MW, trong đó có đến 34 dự án có tổng công suất thiết kế 80MW, tức mỗi trạm chưa tới 2,5MW. Một con sông nhỏ như sông Miện, phụ lưu của sông Lô, hay sông Nho Quế, phụ lưu của sông Gầm, phải cỏng trên dòng chảy 3 – 6 nhà máy thủy điện cũng nhỏ là chuyện phổ biến.

Tỉnh Sơn La cấp phép xây dựng nhà máy thủy điện Xuân La, công suất chỉ 4MW, nhưng đã hào phóng cho đến 28,36 ha đất, trong đó có 16,9 ha rừng đặc dụng thuộc khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Nha.

Để xây dựng 10 nhà máy thủy điện nhỏ trong giai đoạn 2006, tỉnh Yên Bái đã hy sinh cho sự nghiệp điện khí hóa đến 176 ha rừng già tự nhiên.

Tỉnh Lai Châu tính đến hết năm 2017 đã lên sơ đồ xây dựng 62 cơ sở thủy điện nhỏ, có tổng công suất 682MW. Để phục vụ cho lợi ích điện khí hóa vùng sâu, vùng xa, Lai Châu sẽ chuyển đổi 2.437 ha rừng già, rừng phòng hộ sang mục đích xử dụng khác, dù địa hình Lai Châu có đến 60% là cao nguyên cao độ trên 1.000m và hơn 90% diện tích toàn tỉnh có độ dốc trung bình hơn 25 độ, tức điều kiện tối ưu cho lũ quét hoành hành một khi không còn rừng đầu nguồn ngăn chận.

Tóm lại, làm thủy điện nhỏ để sản xuất điện và bán điện tuy cũng quan trọng, nhưng chỉ là thứ yếu, phá rừng lấy gỗ, bán gỗ mới là đỉnh điểm kích thích mạnh nhất đối với giới con buôn cộng sản, do đó, việc xây dựng các công trình thủy điện nhỏ nhiều nơi đã xảy ra những chuyện như đùa, chà đạp lên mọi nguyên tắc an toàn và coi thường quy tắc an sinh của cộng đồng liên quan.

Thủy điện Dakrong – Quảng Trị công suất 8MW bị vỡ đập chính một đoạn rộng 20m, cao 6m trong tháng 10/2012, chỉ sau khi mới bàn giao vào sản xuất được 5 tiếng đồng hồ. Người dân sở tại cho biết họ không hề bị bất ngờ, chỉ bị hoang mang lo sợ như trứng treo đầu đẳng, vì đã thấy công ty lấy ngay cát, sỏi dưới lòng sông để đắp đập và đoạn đập bị vỡ cho thấy beton có trộn lẫn với đất và gỗ mục?!!

Tháng 11/2012 đập tràn của thủy điện Dak Mek (công suất 7,5MW) trong tỉnh Kontum, chỉ bị một xe tải chở đá va quẹt, nhưng đã bị vở nát 109m thân đập trong tổng chiều dài của đập là 165m. Lý do chỉ được phát giác khi hàng tấn beton xây đập chỉ toàn cát và đá sỏi, số sắt thép rất hiếm hoi??!

Tại tỉnh Gia Lai nhà máy thủy điện Ia Krel có công suất 5,5MW có đến hai lần bị vỡ hơn 100m thân đập. Lần đầu vào tháng 6/2013 và lần thứ hai vào 8/2014, bởi "mưa lớn và nước về hồ chứa quá nhanh"?!!

Thủy điện Sông Miện 5 tại Hà Giang có công suất 16,5MW đã xây cất vượt quá sơ đồ thiết kế, cao trình đập chính vượt 3,3m, mực nước dâng lòng hồ vượt 7,7m, cao trình đập tràn vượt 6,1m… khiến dung tích hữu ích hồ chứa tăng thêm khoảng 4,5 triệu m3 nước, qua đó nhà máy dù tăng thêm lợi nhuận bán điện khoảng 15 tỷ VNĐ mỗi năm!! nhưng Sông Miện 5 sẽ là quả bom nước cho hàng chục ngàn dân thị xã Hà Giang ở hạ du cách đó khoảng 10km. 

3/ Lũ lụt và xã lũ đúng quy trình.

Nằm trong vùng gió mùa Á châu, có khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, có hệ thống núi phần lớn chạy theo hướng tây bắc – đông nam, ở miền trung núi còn ăn lan ra sát biển, nên vũ lượng trung bình hàng năm của Việt Nam khá cao - xấp xỉ 2.000 li và nhiều vùng còn hình thành ra các trung tâm mưa, vũ lượng hàng năm có thể ở mức 3.000 – 8.000 li, như tại nhiều tỉnh tây bắc, đông bắc Bắc phần, bắc Trung phần, hay cao nguyên Trung phần. Trong điều kiện rừng đã bị tàn phá đến mức hủy hoại, sự tương tác cộng hưởng của điều kiện tự nhiên và hoạt động của con người đã khiến tình hình lũ, lụt, sạt lở xảy ra tại nhiều nơi ở Việt Nam ngày càng mỗi thêm trầm trọng cả về tần suất lẫn quy mô.

Theo các nhà lâm học, rừng nhiệt đới có nhiều tầng – thường là 4 đến 5 tầng, có nhiều cây cao đến 40m, 50m vượt lên trên những tầng khác và dưới chân là thảm thực vật rừng. Do đó nếu những khi lượng mưa không lớn, nước chỉ ở trên tầng các tán lá cây mà rơi rất ít xuống đất. Những khi mưa lớn, nước trên mặt đất sẽ bị các lớp thảm thực vật, cành lá cây mục giữ lại đến 80 – 90% và thẩm thấu xuống lòng đất tạo ra các mạch nước ngầm, chỉ còn lớp nước chảy trên bề mặt khoảng 10 – 20%, nên khả năng tạo ra lũ ống, lũ quét nguy hiểm cho cộng đồng cộng sinh liên quan là không đáng kể. Các loại rừng khác, như rừng trồng chỉ có tác dụng cản lũ và thẩm thấu nước chỉ bằng 20 – 50% so với rừng nguyên sinh tự nhiên.

Trong điều kiện rừng nguyên sinh tự nhiên bị chặt hạ, việc khai thác gỗ bằng các phương tiện cơ giới hạng nặng, phải làm đường cho xe be vận chuyển thường xuyên, thì đất rừng cũng bị tổn thương rất nặng nề. Do thiếu tán cây che phủ bên trên, các thảm thực vật chân rừng hư hại rất nhanh, bởi điều kiện khí hậu nhiệt đới biến thiên cực đoan nắng nóng, mưa rào đã làm quá trình bào mòn các lớp đất mặt nhanh hơn, khiến đất rừng bị feralit hóa, với lớp vỏ phong hóa dày 3-10cm, có đặc tính không thấm nước càng làm gia tăng tốc độ dòng chảy bề mặt, lại đẩy nhanh thêm sự bào mòn, ức chế hoặc làm chậm khả năng phục hồi cây rừng và giành ưu thế cho sự phát triển các cây tạp, cây bụi, hay những trảng cỏ dại.

Bởi vậy, với các tiền đề thuận lợi như dòng chảy bề mặt lớn, độ dốc cao, khoảng cách ngắn và không còn bị thảm rừng thu hút, ngăn chận, mỗi khi đầu nguồn mưa lớn là nước đổ về hồ chứa rất nhanh. Nếu tạm thời không tính những đập thủy điện lớn do coi như có độ an toàn kỹ thuật cao, thì với hơn 300 cơ sở thủy điện nhỏ, nhiều đơn vị lại bị xây dựng chụp giựt, tắc trách, không thiết kế năng lực điều tiết, cắt lũ cho hạ lưu qua hồ chứa, không bảo đảm kỹ thuật xây dựng như Dakrong, Dak Mek, Ia Krel, Sông Miện… sẽ có bao nhiêu trái bom nước treo trên đầu dân chúng vùng hạ du? Các nhà quản trị và các ông chủ đỏ chỉ còn giải pháp "xã lũ đúng quy trình" để giải quyết thảm họa vỡ đập luôn chực chờ xảy ra và nghiễm nhiên… vô tư, vô tội trước thảm nạn lũ chồng lũ đổ lên đầu người dân.

Muốn điều tiết nguồn nước cho hạ du – một trong những ưu điểm lý thuyết khi khai thác thủy điện, hồ chứa nước nhà máy thủy điện phải có khả năng tích nước vượt dung tích hữu ích khá lớn, để điều hòa lưu lượng dòng chảy xã trong mùa khô qua cửa xã đáy, trả bớt nước cho dòng chính và cắt lũ qua hồ chứa, tức phải có dự trù dung tích phòng lũ khoảng 40 – 50% tổng dung tích hồ chứa để điều tiết lũ trong mùa mưa. Các nhà máy thủy điện hiện đang hoạt động tại Việt Nam, chỉ ngoại trừ vài cơ sở lớn, nằm ở các vị trí xung yếu, như thủy điện Sơn La và Hòa Bình có nhiệm vụ cắt lũ cho Hà Nội, mới được thiết kế và xây dựng đúng bài bản, còn lại hầu hết đều bỏ qua vai trò thiết yếu này, làm lấy có, cắt xén tối đa dung tích phòng lũ (Flood Prevention Volume of Revervoir), chỉ tập trung vào mục tiêu tích nước để phát điện, nhằm vừa hạn chế tối đa vốn đầu tư ban đầu và vừa thu lợi nhuận tối đa khi khai thác.

Chỉ tính 10 nhà máy đầu nguồn sông Vu Gia – Thu Bồn tại Quảng Nam, có tổng dung tích hồ chứa là 3,014 tỷ m3, thiết kế dung tích phòng lũ có 1,070 tỷ m3, chiếm tỷ lệ 35,5%, nhưng trên thực tế đã bị cắt xén 70 – 90% dung tích phòng lũ, chỉ còn 146 triệu m3 nên hoàn toàn không có khả năng tích nước phòng lũ và cắt lũ khi mùa mưa đến. Kết quả, trong các năm từ 2009 trở đi, lũ lụt đã hoành hành dữ dội trong nhiều vùng hạ du lưu vực Vu Gia – Thu Bồn, do các nhà máy thủy điện sợ vỡ đập đã đồng loạt xã lũ qua tràn từ 1.800 – 2.000m3/s. Mực nước sông ở hạ lưu tăng nhanh và cao hơn 3,25m, tạo ra các cơn lũ lớn hơn đỉnh lũ 1999 và 2007 đến hơn 1,5m. 

Cũng từ các năm 2009 trở đi, các nhà máy thủy điện Sông Hinh, Sông Ba Hạ tại Phú Yên, năm nào cũng xã lũ gây lũ lụt trầm trọng cho vùng đồng bằng Phú Yên và thị xã Tuy Hòa. Trong đó thủy điện Sông Ba Hạ tuy có tổng dung tích hồ chứa tới 395 triệu m3, nhưng không có thiết kế dung tích phòng lũ, do đó khi lũ lớn về đầy hồ chứa phát điện, nhà máy đã xã lũ liên tục, nhiều lần với lưu lượng hơn 6.000m3 để cứu đập, làm gia tăng mức lũ về hạ du 10 – 20% và gây ngập lụt nặng cho thị xã Tuy Hòa.

Tháng 10/2016 đỉnh điểm tai họa thủy điện nhỏ đã gây ra bởi thủy điện Hố Hô ở Hà Tỉnh. Nhà máy có công suất 13MW, tổng dung tích hồ chứa 38 triệu m3 và không có dung tích phòng lũ. Khi mưa lũ về, dù mực nước hồ đang ở gần mực nước chết, nhưng do thân đập có dấu hiệu bị nứt, nhà máy đã xã lũ bất ngờ với lưu lượng cao gấp nhiều lần so chỉ tiêu cho phép. Lượng nước xã trong một giờ lên đến 7,2 triệu m3, tức có lưu lượng xã 20.000m3/s, nên đã nhấn chìm nguyền cả huyện Hương Khê, có hơn 5.000 dân trong biển nước và gây ra tổn thất về người và vật chất rất lớn

Bản chất con buôn khi lợi nhuận tới mức 100% chúng nó sẽ chà đạp lên mọi luật lệ, tánh cách phi cầm, phi thú, phi nhân tính của cán bộ cộng sản còn bộc lộ rõ ràng việc chỉ biết chạy theo đồng tiền, sống chết mặc bây hơn, khi xây dựng thủy điện tràn lan mà số trạm quan trắc khí tượng thủy văn, cụ thể là các trạm đo vũ lượng trên thượng nguồn hay trên lưu vực các hồ chứa thì rất ít, có thể đếm chưa đầy các ngón tay và chỉ hoạt động theo chu kỳ 12 giờ, 24 giờ nên việc dự đoán tình hình mưa lũ tại mọi nhà máy thủy điện nhỏ trên thực tế gần như chỉ là nói để chơi.

Các nhà máy thủy điện vì lợi nhuận, vì không biết chắc diễn tiến mưa bão, chỉ dựa vào "trông trời, trông đất, trông mây" và sợ tổn thất đến túi tiền, nên cứ chăm chú tích nước chạy máy phát điện. Thói biển lận và coi thường sinh mạng người khác, khiến các nhóm lợi ích thủy điện chỉ biết làm phép tính đơn giản kiểu bần cố nông nếu lượng nước xã lớn hơn lượng nước đến hồ, mà không có mưa thì công suất phát điện sẽ bị hụt và lợi nhuận sẽ kém, nên không xã nước trong hồ để đón lũ. Khi mưa gió ập về tứ phía, lũ tràn về hồ đã đầy, công trình xây dựng đập thì mong manh, sợ vỡ đập thì thượng sách là xã lũ tối đa để cứu tài sản. Hai cái sợ mất tiền, mất ăn của bọn quan lại cộng sản và bọn đại gia đỏ, biến thành đại họa đổ lên đầu dân lành mỗi năm và mỗi khi mùa mưa về, nhưng đều được Hà Nội khoác lên cái áo xã lũ đúng quy trình? tức mưa lớn nước về hồ chứa nhiều thì xã? lưu lượng xã tối đa cho phép là 8.000m3/s? khi xã đều có báo trước 2 giờ đồng hồ cho vùng hạ du? Trong điều kiện địa hình, địa mạo và sự tan hoang của rừng Việt Nam, với lưu lượng xã luôn vượt quá quy định và với khoảng cách quá ngắn, phần lớn chỉ khoảng 10 – 25km, chỉ cần vài chục phút là nước lũ đã phủ trùm mọi nơi. Phận người thì mong manh, mà Thượng Đế thì quá xa.

4/ Kết luận.

Hơn 75 năm dưới ách cai trị bạo ngược, tham tàn và ngu dốt của đảng cộng sản Việt Nam đã là khoảng thời gian quá dài, hậu quả tai ương cũng đã quá chồng chất cho Tổ quốc Việt Nam. Đất nước phá sản, xã hội sa đọa và tương lai diệt vong không còn là điều để nghi hoặc. Mọi con dân Việt Nam cần phải mau chóng và quyết liệt có hành động tự cứu mình trước khi quá muộn.

7/2018.


__________________________________

Tham khảo:

FAO, Vietnam Forest Information and Data, 2011.

Phạm Thu Thủy, Moira Moeliono & các cộng sự, Bối cảnh REDD+ ở Vietnam: Nguyên nhân, Đối tượng và Thể chế, CIFOR, 2012 (REDD: Reduced Emission from Deforestation and Forest Degradation).

USAID and VPC (Vietnam Power Company), National Power Survey of the Republic of Vietnam, 1972.

Lê Anh Tuấn & Đào Thị Việt Nga, Phát triển thủy điện ở Vietnam: Thách thức và Giải pháp, 2016.

Nhà đầu tư tháo chạy hàng loạt khỏi thị trường chứng khoán Việt Nam

Làn sóng bán tháo đang diễn ra và chưa có điểm dừng tại thị trường chứng khoán Việt Nam. (Hình: Thanh Niên)
SÀI GÒN, Việt Nam (NV) – Thị trường chứng khoán Việt Nam tại phiên giao dịch hôm 5 Tháng Bảy ngập trong sắc đỏ, VN-Index chính thức rơi khỏi ngưỡng 900 điểm.
Trong phiên buổi chiều cùng ngày, áp lực bán tháo đột ngột tăng cao với “những lệnh bán giá thấp cùng khối lượng lớn.” Nhóm cổ phiếu blue-chips được ghi nhận “lao dốc rất mạnh,” nhất là nhóm cổ phiếu ngân hàng như CTG, BID, VPB, MBB, VCB, ACB,…
Kết thúc phiên giao dịch ngày 5 Tháng Bảy, VN Index mất gần 15.6 điểm, còn 899.4 điểm, quay lại mức cách đây hơn một năm.
Có ghi nhận trong 13 tuần liên tiếp, VN Index gần như một màu đỏ, với vỏn vẹn 3 tuần tăng, 10 tuần còn lại đều giảm. Điều này làm dấy lên suy đoán chiều hướng bán tháo “chưa có hồi kết” và Hà Nội không còn chọn lựa nào khác ngoài chuyện “bơm tiền cứu chứng khoán.”
Mặt khác, VN Index có thể tiếp tục rớt khi khối đầu tư ngoại quốc vẫn liên tục bán ra, thoái vốn, trong bối cảnh căng thẳng thương mại Hoa Kỳ-Trung Quốc vẫn tiếp diễn.
Báo Tuổi Trẻ cho hay nguyên do là một cổ đông nội bộ và một công ty là cổ đông thường “đã đồng loạt bán tháo 250,000 cổ phiếu HCM của Chứng Khoán thành phố Sài Gòn” trước khi diễn ra phiên giao dịch trong ngày.
Tờ báo cũng bình luận: “Hiện diễn biến thị trường nằm ngoài nhận định lạc quan của đa số các công ty chứng khoán, khi các công ty này cho rằng VN Index sẽ có sự hồi phục kỹ thuật trong một đến hai phiên nữa.”
Trong khi đó, theo báo Thanh Niên đưa ra các nguyên do khác: “Biến động không mấy lạc quan của thị trường chứng khoán thế giới gần đây; Việc bán ròng nhiều phiên của khối ngoại tại thị trường Việt Nam; Tỷ giá đô la tăng liên tục khiến tâm lý nhà đầu tư lo ngại.”
Dường như truyền thông “lề phải” ở Việt Nam loại trừ hẳn nguyên do là nhà đầu tư bất an vì những hệ lụy của Luật An Ninh Mạng và Luật Đặc Khu (nhiều khả năng vẫn được Quốc Hội CSVN thông qua vào Tháng Mười, 2018 theo chỉ thị của Bộ Chính Trị).
Việc các báo của chính quyền CSVN liên tục dẫn nhận định chủ quan, mang tính định hướng dư luận của quan chức về tình hình thị trường cũng khiến giới đầu tư tiếp tục e ngại.
Ông Trần Văn Dũng, chủ tịch Ủy Ban Chứng Khoán Nhà Nước được báo điện tử Dân Trí hôm 4 Tháng Bảy trích lời: “Tôi có cảm giác nhiều nhà đầu tư bây giờ phản ứng thái quá với những thông tin về tình hình quốc tế, nhà đầu tư nước ngoài đã rút vốn vì biến động tỷ giá tiền đồng và những thông báo kỷ luật của Ban Kiểm Tra Trung Ương cuối tuần qua, nên đã cố bán cổ phiếu bằng mọi giá.”
Trước đó, việc công bố GDP của sáu tháng đầu năm 2018 tăng 7.08% cũng được cho là “đòn gió” nhằm tăng niềm tin của nhà đầu tư rằng nền kinh tế Việt Nam “đang tăng trưởng rất tốt.”
Mạng xã hội hôm 5 Tháng Bảy cũng ghi nhận dự đoán tình hình chứng khoán Việt Nam năm 2018 “không khác gì cách đây 10 năm” – rơi tự do. Năm 2008, VN Index lên đến 1,200 điểm rồi rơi xuống 500 điểm, kéo theo thị trường bất động sản rơi tự do. (T.K.)