Thursday, February 8, 2018

Nông sản tươi Việt Nam xếp hàng ‘chờ chết’ ở biên giới Trung Quốc

Khánh An-VOA/07/02/2018  
Xe nông sản ùn tắc, xếp hàng dài tại cửa khẩu Tân Thanh ngày 4/2/2018.
 Xe nông sản ùn tắc, xếp hàng dài tại cửa khẩu Tân Thanh ngày 4/2/2018.
Hàng trăm xe tải chở các loại hoa quả tươi Việt Nam xuất sang Trung Quốc đang bị kẹt lại ở cửa khẩu Tân Thanh, Lạng Sơn, nhiều ngày liên tiếp. Nguyên nhân được cho biết là do phía Trung Quốc chỉ cho thông quan khoảng 250 xe/ngày, trong khi lượng xe chở hoa quả mỗi ngày đến cửa khẩu lên đến khoảng 700-800 chiếc vào dịp cận Tết.
Tình trạng ùn tắc bắt đầu diễn ra từ ngày 2/2 khi gần cả ngàn xe tải chở dưa hấu, thanh long, xoài, chuối… từ các tỉnh đổ đến cửa khẩu Tân Thanh để chờ làm thủ tục sang Trung Quốc bán.
Đó là vấn đề ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc, thương lượng với nhau thế nào để bảo đảm quyền lợi cho người xuất khẩu tại Việt Nam.
Chuyên gia Bùi Kiến Thành.
Đồn trưởng Biên phòng Tân Thanh, Thượng tá Nông Quang Tám, được Tiền Phong trích lời cho biết mặc dù lực lượng chức năng đã tăng thêm 2 giờ làm việc nhưng vẫn không giải quyết được tình trạng dồn ứ xe nông sản, dẫn đến gần cả ngàn xe nối đuôi nhau hàng chục cây số nằm chờ tại cửa khẩu nhiều ngày.
“Vì mùa này là mùa trái cây xuất đi nhiều, gần Tết mà. Nguyên nhân là do bên đầu của mình dồn ứ nhiều quá nên hải quan thủ tục làm chưa được, nên phải xếp đuôi” chủ một hãng vận tải chuyên đưa hàng lên cửa khẩu Tân Thanh nói với VOA tối 6/2.
Tân Thanh là cửa khẩu duy nhất mà Trung Quốc cho nhập nông sản tươi. Do vậy, dù bị kẹt lại nhiều ngày, các chủ hàng vẫn phải chờ đợi để được phép qua bên kia biên giới bán hàng tại chợ Pò Chài.
Được biết, Trung Quốc có chính sách cửa khẩu và thu thuế riêng cho từng vùng nên doanh nghiệp Việt Nam buộc phải tuân theo chính sách “phân vùng” này. Chẳng hạn, Trung Quốc ra quy định mặt hàng dưa hấu chỉ được phép nhập khẩu qua cửa khẩu Pò Chài và thị trấn Bằng Tường của Trung Quốc, dẫn đến các chủ hàng Việt Nam chỉ có thể xuất hàng qua cửa khẩu Tân Thanh mà không thể đưa sang cửa khẩu nào khác mỗi khi xảy ra ùn tắc.
Xe đông lạnh mà nổ [máy] dầu một ngày thì chết tiền. Một ngày tốn từ 1,5 triệu đến 2 triệu.
Chủ một hãng vận tải.
Một số chuyên gia kinh tế của Việt Nam cho rằng đây không chỉ đơn thuần là vấn đề về chính sách kinh tế, mà còn là “vấn đề ngoại giao hai nước”, nhất là khi tình trạng dồn ứ sản phẩm nông sản đã diễn ra nhiều năm qua, dẫn đến thiệt hại nặng nề cho thương nhân Việt.
Chuyên gia Bùi Kiến Thành nói: “Nếu Trung Quốc chỉ cho một cửa khẩu thì chúng ta bị kẹt ở khâu đó. Đó là vấn đề ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc, thương lượng với nhau thế nào để bảo đảm quyền lợi cho người xuất khẩu tại Việt Nam”.
Một số thương nhân cho biết giá nông sản Việt Nam thường bị ép mỗi khi lượng hàng đổ sang Trung Quốc nhiều. Đôi khi chủ hàng phải bán đổ bán tháo, chấp nhận lỗ vốn để đưa xe về vì nguy cơ nông sản bị hỏng và chi phí trong lúc chờ đợi cao nếu ùn tắc kéo dài nhiều ngày.
“Xe đông lạnh mà nổ [máy] dầu một ngày thì chết tiền. Một ngày tốn từ 1,5 triệu đến 2 triệu”, chủ hãng vận tải không muốn tiết lộ danh tính nói với VOA.
Chi cục Hải quan Tân Thanh nói một phần nguyên nhân của tình trạng ứ đọng hàng nông sản là do thời tiết giá lạnh ở Trung Quốc khiến việc phân phối và tiêu thị hoa quả chậm, dẫn đến chủ hàng Trung Quốc chọn hàng rất kỹ. Báo Thanh Niên dẫn lời Phó chi cục Đoàn Tuấn Anh cho biết với mặt hàng dưa hấu, phía Trung Quốc thường trả về 1-2 tấn hàng mỗi xe.
Nếu họ cứ đơn phương làm như vậy thì Việt Nam phải có cách giải quyết. Nếu không thì buộc phải ứng xử tương ứng.
TS. Nguyễn Đức Thành.
Tiến sĩ Nguyễn Đức Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và chính sách của Trường Đại học Kinh tế-ĐHQG, cho rằng vì là thị trường tiêu thụ lớn của hàng xuất khẩu Việt Nam và các nước xung quanh, Trung Quốc hay có cách làm “độc đoán” và “khó dự báo trước”, gây thiệt hại cho các quốc gia nhập khẩu vào nước này, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp thực phẩm.
“Trung Quốc họ hay làm khó dễ với nhiều nước nhập khẩu hàng vào. Có lẽ đó cũng là một hình thức họ hạn chế nhập khẩu, hoặc cũng có thể do có vấn đề về mặt kỹ thuật của sản phẩm nông nghiệp của mình”.
TS. Nguyễn Đức Thành nói đây là “cái dở” khi giữa hai nước không có “thiện chí thực sự”.
“Việc này thực ra là do quan hệ của mỗi nước, giữa hai nước với nhau. Nếu họ cứ đơn phương làm như vậy thì Việt Nam phải có cách giải quyết. Nếu không thì buộc phải ứng xử tương ứng”, TS. Nguyễn Đức Thành nói.
Ngày 6/2, Ban quản lý Khu kinh tế cửu khẩu Đồng Đăng, Lạng Sơn, đã phải cử đoàn công tác sang Quảng Tây để kiến nghị phía Trung Quốc tăng thời gian làm việc và rút ngắn thủ tục thông quan để giải quyết tình trạng ứ đọng hàng tại cửa khẩu Tân Thanh.
Thời gian qua, Việt Nam cũng đã cử các đoàn công tác sang Trung Quốc để kiến nghị nước này cho phép xuất khẩu nông sản sang các cửa khẩu khác ngoài Tân Thanh, nhưng việc này vẫn chưa mang lại kết quả.

TTg Phúc: Chính phủ do dân, vì dân và Việt Kiều cũng là dân

 VOA Tiếng Việt /08/02/2018 
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tiếp đón kiều bào về nước đón Tết tại Phủ Chủ tịch ở Hà Nội hôm 7/2. (Ảnh chụp trang web Diễn Đàn Doanh Nghiệp)
 Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tiếp đón kiều bào về nước đón Tết tại Phủ Chủ tịch ở Hà Nội hôm 7/2. (Ảnh chụp trang web Diễn Đàn Doanh Nghiệp)
Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc nói với đại biểu kiều bào về thăm quê hương và đón Tết rằng “Tổ quốc luôn lắng nghe hơi thở của bà con” và kêu gọi họ “chung tay xây dựng Tổ quốc.”
Truyền thông trong nước cho biết người đứng đầu chính phủ Việt Nam đã thân mật tiếp đoàn Kiều bào Việt Nam về nước đón Tết theo chương trình “Xuân quê hương 2018” tại Trụ sở Chính phủ ở Hà Nội hôm 7/2.
Tổ quốc luôn lắng nghe hơi thở của bà con.
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nói qua trích dẫn của truyền thông trong nước
Thủ Tướng Phúc nói ông đánh giá cao những đóng góp của kiều bào trong nhiều lĩnh vực và những đóng góp tri thức cho sự phát triển của Việt Nam.
Trang mạng VietNamNet và Diễn Đàn Doanh Nghiệp dẫn lời ông Nguyễn Xuân Phúc nói tại buổi gặp mặt: “Chính phủ do dân, vì dân, trong đó Việt kiều cũng là người dân.”
Cộng đồng người Việt ở nước ngoài hiện nay ước lượng vào khoảng 4.5 triệu người đang sinh sống, lao động, học tập tại 109 nước và vùng lãnh thổ trên khắp thế giới, theo ghi nhận của Hà Nội Mới. Trong số này có khoảng 400.000 chuyên gia, trí thức có trình độ học vấn cao. Ước tính khoảng 80% người Việt thành đạt ở nước ngoài đang sống ở các nước phát triển.
Việt kiều Hà Lan Trịnh Vĩnh Bình đã phải bỏ trốn khỏi Việt Nam vì bị tuyên án 13 năm tù về tội “vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ đất đai” và tội “đưa hối lộ.”
Việt kiều Hà Lan Trịnh Vĩnh Bình đã phải bỏ trốn khỏi Việt Nam vì bị tuyên án 13 năm tù về tội “vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ đất đai” và tội “đưa hối lộ.”
Chính sách của nhà nước Việt Nam khẳng định “Người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không thể tách rời và là một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam”.
Chính phủ Việt Nam trong nhiều năm qua luôn tìm cách thu hút người Việt ở hải ngoại trở về làm việc và đầu tư trong nước. Hàng năm, kiều bào Việt Nam gửi hàng tỷ USD về giúp người thân và đầu tư.
Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị ban hành cách đây hơn 1 thập kỷ được cho là nhằm mục đích này.
Tuy nhiên, theo Tiến sĩ Phạm Chí Dũng, một nhà báo độc lập trong nước, nhận định chính sách này không thành công.
“Có một tri thức hải ngoại nói với tôi rằng ông đã làm một tổng kết và kể từ năm 2003 khi nghị quyết 36 của Bộ Chính trị về công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài, thì cho tới nay cực kỳ ít ỏi trí thức ở hải ngoại được trọng dụng và có đất dụng võ ở Việt Nam. Nói chung họ không có vai trò gì đáng kể.”
Theo TS Dũng, có nhiều người “đã về nước để hít thở bầu không khí ở đây nhưng sau một thời gian hít thở thì họ thấy căng thẳng quá, và cuối cùng đã phải bỏ Việt Nam để trở về nơi họ đang sinh sống."
Một trong số những Việt kiều về Việt Nam đầu tư nhưng gặp rắc rối là ông Trịnh Vĩnh Bình. Ông Bình về Việt Nam đầu tư nhưng bị chính phủ Việt Nam tuyên án 13 năm tù về tội “vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ đất đai” và tội “đưa hối lộ.” Sau đó ông Bình kiện chính phủ Việt Nam ra tòa án quốc tế với mức bồi thường ít nhất 1,25 tỷ USD.
Giáo sư Phạm Minh Hoàng, Việt kiều Pháp, bị trục xuất khỏi Việt Nam vì bị cáo buộc có các “hoạt động phạm pháp và có liên hệ tới đảng Việt Tân
Giáo sư Phạm Minh Hoàng, Việt kiều Pháp, bị trục xuất khỏi Việt Nam vì bị cáo buộc có các “hoạt động phạm pháp và có liên hệ tới đảng Việt Tân
Giáo sư Phạm Minh Hoàng cũng là một trong nhiều Việt kiều đã trở về Việt Nam làm việc và sinh sống. Ông về Việt Nam vào năm 2000 sau 30 năm định cư tại Pháp. Tuy nhiên, Giáo sư Hoàng sau cùng bị tước quốc tịch Việt Nam và trục xuất ra khỏi nước vào năm 2017 với cáo buộc là có các “hoạt động phạm pháp và có liên hệ tới đảng Việt Tân, một tổ chức bị Hà Nội coi là một nhóm “khủng bố.”

Đà Nẵng hủy lệnh đòi kiểm duyệt báo chí do bị phản ứng

VOA Tiếng Việt/08/02/2018  
Chất lượng cán bộ Đà Nẵng bị nghi ngờ sau sự cố "công văn đòi kiểm duyệt báo chí"
Chất lượng cán bộ Đà Nẵng bị nghi ngờ sau sự cố "công văn đòi kiểm duyệt báo chí"
Sở Thông tin và Truyền thông thành phố Đà Nẵng hôm 8/2 thông báo thu hồi lại một công văn đòi kiểm duyệt báo chí đóng tại địa phương trước khi họ đăng bài, chỉ một ngày sau khi công văn được gửi đi và chịu nhiều chỉ trích từ báo giới lẫn người dân.
Sở TT-TT Đà Nẵng ra văn bản quy định như thế gây cho tôi cảm giác rất kinh hoàng, rất là bất ngờ
Nhà báo Võ Văn Tạo
Công văn ký ngày 6/2 của sở đề nghị báo Đà Nẵng và báo Công an Đà Nẵng “phối hợp, hỗ trợ cung cấp thông tin về nội dung tin, bài trước thời gian in ấn và phát hành”. Đối với Đài Phát thanh-Truyền hình của thành phố, sở đề nghị “phối hợp kịp thời cung cấp các thông tin nổi cộm, cần các cơ quan đơn vị phản hồi thông tin báo nêu”.
Về phần các cơ quan báo chí trung ương và các địa phương khác đóng ở Đà Nẵng, Sở TT-TT thành phố đề nghị họ “cung cấp kịp thời đường dẫn trên báo điện tử hoặc trang thông tin điện tử của báo các thông tin nổi cộm liên quan đến TP Đà Nẵng cần các cơ quan, đơn vị phản hồi thông tin báo nêu”.
Các nhà báo và công chúng đã nhanh chóng chia sẻ thông tin về công văn, gọi Đà Nẵng là “một mình một luật” và chất vấn về tính hợp pháp của nó. Nhiều người cũng bình luận rằng nó “kỳ cục”, “ngoài sức tưởng tượng” và đưa Đà Nẵng quay ngược về quá khứ cả nửa thế kỷ. Nhà báo kỳ cựu Võ Văn Tạo nói với VOA:
“Nó quá lạc hậu rồi. Trước đây nhà nước Việt Nam cũng có chuyện đó. Nhưng mà sau này đã bỏ hết những cái đó rồi. Sở TT-TT Đà Nẵng ra văn bản quy định như thế gây cho tôi cảm giác rất kinh hoàng, rất là bất ngờ”.
Nhà báo có gần 2 thập niên kinh nghiệm nói thêm từ khoảng 30 năm nay, chính quyền Việt Nam đã thay việc một cơ quan trung ương kiểm duyệt trước khi đăng bài bằng hình thức các cơ quan báo chí tự kiểm duyệt.
Ông Tạo nói rõ hơn rằng lâu nay ban biên tập các cơ quan báo chí tự quyết định đăng những nội dung gì. Nhưng nếu các cơ quan quản lý như Bộ TT-TT, hoặc an ninh văn hóa của chính phủ, hay Ban Tuyên giáo của Đảng Cộng sản “không hài lòng” về tin, bài nào đã đăng, họ sẽ “nhắc nhở, phê bình, hoặc phạt”.
Vài thập kỷ trở lại đây, công tác cán bộ quá kém. Chuyện con ông cháu cha, rồi chạy chọt mua chức mua ghế, dốt nát, bằng giả, v.v… cho nên cái đó chính là cái đẻ ra những cái văn bản quái đản như thế
Nhà báo Võ Văn Tạo
Phản ứng của báo giới và người dân trong một ngày qua dường như đã dẫn đến việc Sở TT-TT Đà Nẵng rút lại công văn gây tranh cãi. Tin trên báo chí trong nước hôm 8/2 nói sở này trong cùng ngày đã thu hồi công văn vì họ thấy rằng nó “không phù hợp với các quy định của Luật Báo chí”.
Nhà báo Võ Văn Tạo đánh giá về động thái mau lẹ của chính quyền địa phương:
“Họ rút lại là một điều tốt. Đấy là một động thái biết lắng nghe phản ứng của công chúng. Nhưng nếu họ không rút, tôi tin rằng cấp trên cũng phải yêu cầu họ rút. Nếu cộng đồng, công chúng phản ứng dữ dội, cơ quan chính quyền cao nhất ở trung ương người ta thấy chối tỉ quá, người ta cũng phải yêu cầu Đà Nẵng rút”.
Một mặt cho rằng tư tưởng muốn quản lý báo chí còn rất nặng nề, không chỉ ở cấp địa phương như thể hiện trong sự việc vừa qua ở Đà Nẵng, mà kể cả ở cấp nhà nước, song mặt khác, ông Tạo nhận định “sự cố” của Sở TT-TT thành phố còn có nguyên nhân ở chất lượng nhân sự. Ông giải thích:
“Các quan chức của Việt Nam bây giờ tôi không hiểu trình độ của họ đến đâu, tư duy họ thế nào, cho nên là lâu lâu lại có những văn bản quái đản tương tự như thế. Cách đây khoảng vài chục năm, họ làm công tác cán bộ còn tàm tạm được. Họ không đến nỗi có những văn bản quái đản như thế này. Vài thập kỷ trở lại đây, công tác cán bộ quá kém. Chuyện con ông cháu cha, rồi chạy chọt mua chức mua ghế, dốt nát, bằng giả, v.v… cho nên cái đó chính là cái đẻ ra những cái văn bản quái đản như thế”.
Báo chí Việt Nam cho hay cùng với việc rút lại công văn đòi kiểm duyệt trước khi báo chí đăng bài, Sở TT-TT Đà Nẵng cũng “thành thật xin lỗi với các cơ quan báo chí”.

Để kỷ niệm 50 năm thảm sát Mậu Thân

Một góc nhìn (không toàn diện) "bên thắng cuộc" trong thời chiến

Huỳnh Chánh (Danlambao) - Trong chiến tranh: Tết lại sắp đến, người dân miền Nam không ai có thể quên thảm sát Mậu Thân 1968! Xin kể lại một chuyện ít người biết:

Ba tôi là bạn học với chú Henry tại trường "Cao Đẳng Vô Tuyến Điện" (1) kế cận trường Petrus Ký. Dĩ nhiên trường có tên gọi và học trình bằng tiếng Pháp. Trường đào tạo chuyên viên vô tuyến điện (đánh Morse). Chú Henry là con trai của luật sư Trịnh Đình Thảo (tốt nghiệp tiến sĩ luật tại Pháp). Ông Trịnh Đình Thảo nổi tiếng nhờ 2 việc: một thời làm bộ trưởng tư pháp của Chính phủ Trần Trọng Kim và là luật sư biện hộ cho cụ Phan Chu Trinh. 

Tết Mậu Thân 1968 "bên thắng cuộc" tấn công Sài Gòn, đến tận nhà ông Thảo trao bức thư tay của Hồ Chí Minh mời hợp tác (đúng ra là bắt cóc vô bưng, bởi vì không đi thì chỉ có bị giết). Sau đó ai ai cũng biết ông Trịnh Đình Thảo từ trong bưng "lập ra" Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam. Năm 1975 ba tôi đến thăm ông tại Sài Gòn, ông kể cho nghe nhiều chuyện, đầy chán chường... Ông cho biết chuyện bị bắt cóc, bị bắt buộc lập liên minh, chuyện miền bắc thí Mặt trận Giải phóng Miền Nam ra sao, đợt 1 tổng công kích chết gần toàn bộ MTGPMN, thế mà chỉ 3 tháng sau lại ra lệnh tổng công kích đợt 2, mượn tay địch giết cho hết những tên ương ngạnh, khó dạy miền Nam... Trong đợt này thượng tá Tám Hà, người có quân hàm cao nhất ra hồi chánh trong ngao ngán "tình đồng chí"!

Sau Mậu Thân tại Huế, người dân miền Nam biết rõ hơn chủ trương "dân sống trong vùng địch kiểm soát được xem như kẻ địch". Gần 5 ngàn thường dân bị chôn sống. Năm 2007 vợ và chị vợ của người viết đi một chuyến Sài Gòn-Hà Nội, đến Huế họ nói với nhau về thảm sát, cô tour guide khoảng 23, 24 tuổi, người Huế hỏi vặn: "hai cô bị Mỹ/Ngụy tuyên truyền, cháu được dạy chính họ mới là thủ phạm giết dân" Vợ tôi chỉ nói nhẹ: "cháu hãy hỏi ông bà của cháu, những người có sống tại Huế lúc Tết Mậu Thân."

Trên chiến trường thì sao? Với chủ trương "chính trị chỉ đạo đời sống" với chính ủy mới nắm thực quyền. Họ chỉ mong sao thắng trên chiến trường, đạt được thế chính trị cho dù chết bao nhiêu cũng mặc kệ! Hàng hàng lớp lớp thanh niên miền Bắc với lệnh xung phong biển người làm bia đỡ đạn đã bị nướng trên chiến trường. Họ được dạy căm thù, lòng thù hận đã khiến họ không còn là người... Ngược lại, bên thua cuộc ra trận tiết kiệm xương máu binh sĩ đến mức tối đa, họ đối xử với nhau bằng tình thầy trò, chiến hửu. Họ không mang lòng thù hận, và nếu bên kia buông súng hồi chánh, họ được đối xử bình đẳng, nhân đạo, không có trả thù. 

Tại nông thôn thì sao? Một anh bạn cùng chung 5 năm tại trường tiểu học Đổ Hữu Phương, sống với người dì, ngay bên cạnh nhà tôi ở cư xá Lữ Gia. Anh có người cha bị lăng trì trước mặt vợ con tại xã Bình Phục Nhì, tỉnh Gò Công. Bác chỉ là một nông dân khá giả, không hề là viên chức chính phủ. Chỉ vì thù oán cá nhân, du kích kết án bác 36 tội, mỗi tội bị đâm một dao, dao cuối cùng mới đâm chết. Họ gom dân kể cả vợ, con nạn nhân chứng kiến! Không thể hời hợt nói rằng đó không là chủ trương của trung ương, chỉ là địa phương sai lầm! CSVN từ 1930 đã là một chi nhánh nhận lệnh từ Nga, Trung Cộng. Họ cai trị dân bằng khủng bố, tạo sợ hãi, cải cách ruộng đất, Mậu Thân 1968 là chứng minh. Cái tàn ác là chủ trương từ lý thuyết, có hệ thống, chính vì vậy chúng ta thấy giống nhau sự giết người man rợ của các đảng CS Nga, Tàu, Miên, VN... Họ che đậy hành động dã man bằng "cứu cánh biện minh cho phương tiện" (độc lập, hạnh phúc biện minh cho cải cách ruộng đất cho Mậu Thân). Thời chiến khắp miền nam không biết bao nhiêu vụ giết người khủng bố rồi phá hoại đào đường, giật sập cầu, pháo kích...

Có người nghĩ, sau khi thắng trận, 50 năm đã qua kể từ 1968, tình trạng có thay đổi? những kẻ giết dân năm xưa ăn năn? Hiền hơn? Trở về với tình dân tộc đồng bào? Xin thưa: không đâu. Hãy nhìn họ đối với nhau, đồng chí với đồng chí. Hảy nhìn họ đối với bên thua cuộc, hảy nhìn họ đối với dân. Xã hội 2 giai cấp: thống trị và bị trị, hai luật pháp: luật đảng và "luật rừng" dành cho dân. Sau năm 1975, người dân miền Nam càng thấy rỏ hơn khi được biết những "bài thơ" đầy tính nô lệ đến trơ trẻn của Tố Hửu, những giọng ca the thé, chói tai y chang Tàu Cộng... Chẳng có gì là khó hiểu vì từ 1930 bên thắng cuộc đã nhận lệnh của Nga, Tàu. Một viễn ảnh bán nước là điều thấy rỏ!!! Thật đau xót cho dân Việt với truyền thống hiền hòa, đoàn kết, yêu thương nhau... Tết lại sắp đến, hảy cùng nhau thắp nén hương hy vọng bóng tối sớm qua, cái ác không thể tồn tại mãi.

08.02.2018



________________________________

Chú thích:

(1) Người Pháp có một nghịch lý là các đại học đều tập trung tại Hà Nội thay vì Sài Gòn: luật, y, dược, văn khoa... trong khi miền nam là xứ thuộc địa (con ruột) trung và bắc là xứ bảo hộ (con nuôi). Dân miền nam chỉ được đào tạo đến cấp cán sự. Sau trung học chỉ có 2 cách tiếp tục: hoặc sang Pháp, hoặc ra Hà Nội. Mấy ai đủ giàu để tiếp tục? Đó cũng là lý do rất nhiều người bắc di cư 54 tốt nghiệp đại học trong chính quyền miền nam (miền nam không đủ người tốt nghiệp đại học)... Sự việc hoàn toàn thay đổi, chỉ trong 21 năm (54-75) miền nam đã thành lập 3 viện đại học lớn: Sài Gòn, Huế, Cần Thơ và đại học cộng đồng ở Tây Ninh, Mỹ Tho, Long Xuyên. Trình độ dân trí tiến không ít. Nếu không bị chiến tranh, ai ai cũng thấy miền Nam không thể thua Nhật, Nam Hàn.

*

Những bài liên quan về tội ác của cộng sản trong Mậu Thân Huế đã đăng trên Danlambao:

Chúng vẫn múa, hát trên những xác người
Để kỷ niệm 50 năm thảm sát Mậu Thân
Những phiên tòa của nền văn minh
Những hố chôn người trong cuộc thảm sát Mậu Thân tại Huế
- Biến cố Mậu Thân: Cuộc thảm sát tại Khe Đá Mài - Hồi ức của một chứng nhân
50 năm cuộc thảm sát Mậu Thân (1968-2018)
Mật lệnh tấn công tết Mậu Thân
Cuộc tấn công Mậu Thân 1968 trong hoàn cảnh chính trị lịch sử thế giới
Đã bị hố vì Triển lãm Đấu Tố, còn cả ngố khi Kỷ niệm Mậu Thân
Tội ác bí ẩn của Thảm sát Mậu Thân
Toàn cảnh trước biến cố Mậu Thân (1968)
Đón xuân này nhớ xuân xưa
Hát trên những xác người
"Tám Nẻo Đường Thành"
50 năm máu vẫn chưa khô trên thành phố Huế (1968-2018)
Những người lính Bắc Việt bị xiềng vào súng trong cuộc tổng tấn công Mậu Thân
Tổng kết cuộc chiến tết Mậu Thân (1968)
Nén hương tưởng niệm những nạn nhân Tết Mậu Thân Huế
50 năm Tội ác Mậu Thân Huế
50 năm - Mậu Tuất (2018) uất nghẹn Mậu Thân (1968) (Từ tiết lộ của người trong cuộc… Nguyễn Đắc Xuân)
Tại sao đổi lịch tết Mậu Thân?
Cuộc chiến Mậu Thân trên toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng Hoà
So sánh giữa vụ khủng bố 9-11 của Al Qaeda tại Mỹ và vụ khủng bố của cộng sản Bắc Việt vào dịp Tết Mậu Thân
Lệnh tấn công tết Mậu Thân của cộng sản
Chuyên đề Mậu Thân - Bài 1 - Cộng sản tự hào về thảm sát ở Huế
Chuyên đề Mậu Thân - Bài 2 - Một vụ thảm sát bình thường vào đầu xuân 1968...
Chuyên đề Mậu Thân - Bài 3 - Tất cả đều bị đập bể đầu 
Chuyên đề Mậu Thân - Bài 4 - Đã tìm thấy ngót 2.000 xác
Chuyên đề Mậu Thân - Bài 5
Chuyên đề Mậu Thân - Bài 6
Chuyên đề Mậu Thân - Bài 7 - "Khi năm Tuất đến, Huế vẫn còn khóc cho Tết năm Thân..."
Thảm sát Mậu Thân 1968
Mậu Thân 68: CSVN đang lấy “mỡ lợn rán thịt heo”!
Tiếng tù và Mậu Thân của Lê Phong Lan
Lê Phong Lan và đồng bọn có còn là con người nữa không?
Gửi bà Lê Phong Lan và đồng bọn!
Lê Phong Lan: láo xác chết, lừa người sống
Đồng bào Huế gửi “quà Xuân” cho nữ đạo diễn Lê Phong Lan
Lê Phong Lan và bộ phim: “Chạy tội cho CSVN”
Mậu Thân 1968: “Guinness” nói láo của CSVN
Vị Thẩm Phán Cuối Cùng: Lương Tâm
Mậu Thân 1: Đòn đánh nhá của Tướng Giáp
Mậu Thân 2: Độc thủ của Bác
Mậu Thân 3: Công lao của Bác
Phong Lan - con đường Bi-đác
Mậu Thân 1968: Kẻ đồ tể & Nhân chứng sống (Cập nhật)
Kỷ vật Mậu Thân
Xác nào là em tôi, dưới hố hầm này!?
Nỗi đau Tết Mậu Thân chưa có phút nào nguôi!
Phim Mậu Thân 1968 - một canh bạc bịp
45 năm sau Mậu Thân - Máu vẫn chưa khô trên thành phố Huế
Mậu Thân trong tâm khảm một nhà thơ
Nghệ thuật dối trá
Những sự thật không thể chối bỏ (phần 14) - Ai làm cho Huế đau thương?
Hãy nói trước ngày chết
Mậu thân Huế - Câu chuyện của Nguyễn Thị Thái Hòa
Những con tắc kè ảo vọng
Biến cố Tết Mậu Thân 1968: Trường hợp Lê Văn Hảo
Quanh việc chối tội tham gia thảm sát trong biến cố tết mậu thân của Hoàng Phủ Ngọc Tường qua bài phỏng vấn của bs Nguyễn Đức Tùng
Hãy lột mặt nạ CSVN tẩy rửa Wikipedia

Biến cố Mậu Thân: Cuộc thảm sát tại Khe Đá Mài - Hồi ức của một chứng nhân

Trong toàn bộ biến cố Tết Mậu Thân, có lẽ những gì xảy ra tại Huế là đau thương và đánh động hơn cả. Nhưng trong những gì xảy ra tại Huế, thì có lẽ cuộc thảm sát tại Khe Đá Mài là rùng rợn, dã man và thê thảm nhất. Tiếc thay, theo sự am hiểu của chúng tôi, hình như người ta chỉ biết đến kết cục của nó là hàng trăm bộ hài cốt dồn lại một đống dưới khe sau khi thịt thối rữa bị nước cuốn đi lâu ngày, từ đó suy diễn ra sự việc hơn là biết rõ diễn tiến của toàn bộ sự việc kể từ lúc các nạn nhân bắt đầu bị dẫn đi đến chỗ hành quyết. Lý do là vì chỉ có hai con người duy nhất trong đoàn tử tội đã chạy thoát được trước khi thảm kịch xảy đến, họ nắm được một ít chi tiết nhưng lại chẳng biết rõ địa điểm, do vụ việc xảy ra giữa đêm khuya trong rừng già; họ lại còn quá trẻ rồi sau đó đăng lính, mất hút vào cơn bão chiến tranh, khiến mãi tới ngày 19-09-1969, tức gần hai năm sau, nhờ khai thác tù binh Việt cộng, chính phủ VNCH mới biết đó là Khe Đá mài trong vùng núi Đình Môn, Kim Ngọc, thuộc quận Nam Hòa, tỉnh Thừa Thiên (xã Dương Hòa, huyện Hương Thủy ngày nay) và mới tiến hành việc tìm kiếm hài cốt các nạn nhân xấu số. Thời gian sau, một trong hai người đã chết trận, đem theo bí mật xuống đáy mồ. Chúng tôi may mắn gặp được chứng nhân duy nhất còn lại, nay gần lục tuần. Ông đã tường thuật mọi việc cho chúng tôi khá tỉ mỉ. Nhưng vì lý do an ninh của đương sự, chúng tôi viết theo dạng tự thuật để khỏi nêu tên ông. Chúng tôi cũng xin phép bỏ đi nhiều chi tiết có thể giúp CS lần hồi dấu vết của ông để báo thù.  - Linh mục Phêrô Nguyễn Hữu Giải và Linh mục Phêrô Phan Văn Lợi

*

Hồi ấy tôi mới 17 tuổi, đang là học sinh trung học đệ nhị cấp. Vì tình hình bất an, gia đình tôi đã từ quê chạy về thành phố, cư ngụ tại giáo xứ Phủ Cam, thôn Phước Quả, xã Thủy Phước, tỉnh Thừa Thiên (nay gọi là phường Phước Vĩnh, thành phố Huế) từ mấy năm trước. 

Sáng sớm mồng một tết Mậu Thân, tôi cùng gia đình đi thăm bà con thân thuộc và du xuân với các bạn đồng trang lứa, trong một khung cảnh tạm an bình, vắng tiếng súng, nhờ cuộc hưu chiến mà hai miền Nam Bắc đã cam kết tuân giữ. 

Bỗng nhiên, khuya mồng một rạng mồng hai tết, nhiều tiếng đại bác và súng lớn súng nhỏ vang rền khắp xứ đạo của chúng tôi. Sáng hôm sau, tôi nghe nói Việt Cộng đang tấn công vào toàn bộ thành phố Huế và đã chiếm nhiều nơi rồi. Hoảng hốt, cả gia đình tôi cũng như rất nhiều giáo dân chạy đến nhà thờ (lúc ấy mới hoàn thành phần cung thánh và hai cánh tả hữu) để ẩn trú, vì đó là nơi an toàn về mặt thể lý (xây vững chắc, tường vách dày, trần xi măng rất cao) cũng như về mặt tâm lý (có thể trông cậy vào ơn phù hộ của Chúa và đông đảo người bên nhau thì bớt hãi sợ…). Tôi thấy đủ hạng: nữ nam già trẻ, linh mục tu sĩ, ngồi chen chúc nhau cả mấy ngàn người (giáo xứ Phủ Cam lúc đó lên tới 10.000 giáo dân). Đang khi ấy, ở bên ngoài, lực lượng địa phương quân, nhân dân tự vệ cùng các quân nhân chính quy về nghỉ phép hợp đồng tác chiến, chống giữ không cho Cộng quân tiến vào giáo xứ từ hướng An Cựu, Bến Ngự, Nam Giao, Ngự Bình... Cuộc chiến đấu xem ra rất ác liệt!

Thế nhưng, đến chiều mồng 6 Tết, do lực lượng quá nhỏ, lại không có tiếp viện (vì mặt trận lan khắp cả thành phố Huế và tỉnh Thừa Thiên), các chiến sĩ đang bảo vệ giáo xứ đành phải rút lui, bỏ chạy. Thế là VC tràn vào! Khuya hôm đó, lúc 1g sáng, chúng mang AK và đèn đuốc xông vào nhà thờ Phủ Cam để gọi là “bắt đầu hàng” và lục soát mọi ngõ ngách. Sau này tôi mới biết chúng có ý lùng bắt cha xứ mà chúng nghi là người chỉ huy cuộc kháng cự, lùng bắt tất cả những ai mà chúng nghĩ đã chống cự lại chúng trong 5 ngày qua, cùng mọi cán bộ viên chức chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, như xảy ra tại nhiều nơi khác trong thành phố Huế lúc ấy.

Thấy chúng vừa xuất hiện, tôi liền lợi dụng bóng tối, nhanh chân chạy đến cầu thang sắt phía cánh trái nhà thờ (gần mộ Đức Cố Tổng Giám mục Nguyễn Kim Điền hiện nay), leo lên trần xi măng, sát mái ngói. Từ trên đó, qua mấy lỗ trổ sẵn để gắn đèn cao áp (nhưng chưa gắn), tôi mục kích khá rõ sự việc diễn ra bên dưới. Tôi thấy lố nhố VC địa phương (du kích nằm vùng) lẫn bộ đội chính quy miền Bắc. Chúng lật mặt từng người, chỉ chỏ bên này bên kia. Một câu nói được lặp đi lặp lại: 

- Đồng bào yên tâm! Cách mạng đến là để giải phóng! Các mẹ, các chị, các em có thể ra về. Còn các anh được mời đi học tập, chỉ 3 ngày thôi! Không sao đâu!!!

Thế là mọi tráng niên và thanh niên từ 15 đến 50 tuổi đều bị lôi đứng dậy và dẫn đi, dù là học sinh, thường dân hay công chức... Tiếng kêu khóc thảm thiết vang động cả nhà thờ. Con khóc cha, vợ khóc chồng, cha mẹ khóc con. Ai nấy linh cảm chuyến đi “học tập” này sẽ chẳng có ngày đoàn tụ. Sau này tôi biết thêm là linh mục quản xứ chúng tôi, cha Nguyễn Phùng Tuệ, nhờ ngồi giữa đám nữ tu dòng Mến Thánh Giá với lúp đội trên đầu, nên may mắn chẳng bị VC nhận diện. Bằng không thì bây giờ ngài đã xanh cỏ. VC ở lại trong nhà thờ suốt đêm hôm đó vài tên, còn những tên khác đi lùng khắp giáo xứ để bắt thêm một số người nữa, cũng từ 15 đến 50 tuổi, thành thử có nhiều thanh niên hay học sinh gặp nạn.

Sáng hôm sau, lúc 8 giờ, bỗng có hai tên VC theo thang sắt trèo lên trần và khám phá ra tôi. Một đứa tên Hồ Sự, du kích gốc Long Hồ, vừa được đồng bọn giải thoát khỏi nhà lao Thừa Phủ (là nhà lao nằm giữa lòng thành phố Huế, ngay sau lưng tòa hành chánh tỉnh). Tên kia là Đỗ Vinh, sinh viên, người gốc làng Sịa. Sau khi lôi tôi xuống, chúng hỏi tôi tại sao lại trèo lên núp (nấp). Tôi trả lời là vì nghe con nít khóc ồn ào, chịu không nổi, phải trèo lên đấy để nghỉ. 

Chùa Từ Đàm, nơi Việt cộng đặt bản doanh năm Mậu Thân

Chúng dẫn một mình tôi -lúc ấy chẳng còn hồn vía gì nữa- đi xuống dốc nhà thờ, nhưng đến chắn xe lửa thì quẹo trái, men theo đường xe lửa tới chắn Bến Ngự. Từ đây, chúng dẫn tôi lên chùa Từ Đàm là nơi VC đang đặt bản doanh. Chúng rất đông đảo, vừa sắc phục vừa thường phục, vừa bộ đội miền Bắc vừa du kích nằm vùng miền Nam. Vào trong khuôn viên chùa, tôi nhận thấy ngôi nhà tăng 5 gian thì 4 gian đã đầy người bị bắt, đa số là giáo dân giáo xứ Phủ Cam của tôi. Gian thứ 5 (đối diện với cây bồ đề) còn khá trống, để nhốt những người bị bắt trong ngày mồng 7 Tết. Tôi cũng trông thấy ông Tin, chủ hiệu ảnh Mỹ Vân, người rất đẹp trai, đang bị trói nơi cây mít. Một tên VC nói:

- Thằng ni trắng trẻo chắc là cảnh sát, bắn quách nó đi cho rồi!

May thay, có một người trong nhóm bị bắt đã vội lên tiếng:

- Tội quá mấy anh ơi, đây là ông Tin chụp ảnh tại Bến Ngự, cảnh sát mô mà cảnh sát!

Nhờ thế ông Tin thoát nạn, được cho về. Tiếp đó, VC đưa cho tôi một tờ giấy để làm bản lý lịch. Chúng bảo phải khai rõ tên cha, tên mẹ, tên mình, nguyên quán ở đâu, cha mẹ làm chi, bản thân bây giờ làm chi. Khai rõ ràng chính xác, Cách mạng sẽ khoan hồng. Khai tơ lơ mơ, khai dối láo là bắn ngay tại chỗ. Lúc ấy không hiểu sao Chúa cho tôi đủ sự thông minh và điềm tĩnh nên đã khai hoàn toàn giả, giả từ tên cha mẹ đến tên mình, và giả mọi chi tiết khác, như nghề của cha là kéo xe ba gác, nghề của mẹ bán rau hành ở chợ Xép, bản thân thì đang học trường Kỹ thuật!?! May mà bọn VC chẳng kiểm tra chéo bằng cách hỏi những người cùng giáo xứ bị bắt đêm hôm trước. Bằng không thì tôi cũng rồi đời tại chỗ!

Chúng tôi ngồi tại chùa Từ Đàm suốt cả ngày mồng 7 Tết, không được cho ăn gì cả. Lâu lâu tôi lại thấy VC dẫn về thêm một số tù nhân, trong đó tôi nhớ có cậu Long, 16 tuổi, học sinh, con ông Nguyện ở xóm Đường Đá giáo xứ Phủ Cam. Thỉnh thoảng chúng lại trói ai đó vào gốc cây bồ đề, bắn chết rồi chôn ngay trong sân chùa. Sau này người ta đếm được có 20 xác, trong đó có anh Hoàng Sự, vốn là cảnh sát gác lao Thừa Phủ, bị đám VC khi được thoát tù đã bắt đem theo lên đây. 

VC cũng cho một vài kẻ về nhắn thân nhân bới cơm nước lên cho người nhà, nhưng với điều kiện: nhắn xong phải đến lại trong ngày, bằng không bạn bè sẽ bị chết thế. Thế là một số anh em Phủ Cam lên tiếng xin thả ông Hồ (khá lớn tuổi, làm nghề hớt tóc, nhà ở gần cabin điện đường Hàm Nghi) để ông về lo chuyện tiếp tế thực phẩm. Tay VC liền hỏi: “Ai tên Hồ?” thì có một cậu thanh niên nào đó nhảy ra nói: “Hồ đây! Hồ đây!” Thế là nó được thả về và rồi trốn luôn, thoát chết. Một vài bạn trẻ cùng tuổi với tôi cũng được cho về nhắn chuyện bới xách rồi quyết không lui, nhờ vậy thoát khỏi cơn thảm tử. Còn ai vì hãi sợ hay thương bạn mà lên lại Từ Đàm thì cuối cùng bị mất mạng như tôi sẽ kể. Các “sứ giả” về thông báo với bà con là ai có thân nhân “đi học tập” hãy bới lương thực lên chùa Từ Đàm. Vậy là vài hôm sau, người ta ùn ùn gánh gồng lên đó gạo cơm, cá thịt, muối mắm, bánh trái ê hề (Tết mà!)… Họ chẳng thấy thân nhân đâu mà chỉ gặp mấy tên cán bộ VC bảo họ hãy an tâm trở về nhưng để đồ ăn lại. Nhờ mưu mô thâm độc này mà VC tạo được một kho lương thực khổng lồ để ăn mà đi giết người tiếp!!

Lân la dò hỏi và nhìn quanh, tôi thấy trong số thanh niên Phủ Cam bị bắt có rất nhiều người bạn của tôi: anh Trị tây lai con ông Ngọc đàn ở nhà thờ, con trai ông Hoàng lương y thuốc Bắc ở chợ Xép, hai con trai ông Thắng nấu rượu, hai con trai ông Vang thổi kèn, anh Thịnh con ông Năm, hai anh em Bình và Minh con ông Thục mà một là bạn học với cha Phan Văn Lợi… Tôi cũng nghe nói có hai thầy đại chủng viện mà sau này tôi mới biết là thầy Nguyễn Văn Thứ, nghĩa tử của cha Nguyễn Kim Bính và bạn cùng lớp với cha Nguyễn Hữu Giải, rồi thầy Phạm Văn Vụ, đồng nghĩa phụ với cha Lợi… 

Khi trời bắt đầu sẫm tối, VC bắt chúng tôi ra sân xếp hàng và một tên tuyên bố: 

- Anh em yên tâm! Như đã nói, Cách mạng đưa anh em đi học tập 3 ngày cho thấm nhuần đường lối rồi sẽ về thôi! Bây giờ chúng ta lên đường!

Rồi chúng bắt đầu dùng dây điện thoại trói thúc ké từng người một chúng tôi, trói xong chúng xâu lại thành chùm bằng một sợi dây kẽm gai, 20 người làm một chùm. Tôi nhớ là đếm được trên 25 chùm, tức hơn 500 người. 

Khi chúng tôi bị lôi ra đường (đường Phan Bội Châu hiện giờ), chừng 7g tối, tôi thấy có một đoàn cố vấn dân sự Hoa Kỳ khoảng 14 người cũng bị trói nhưng sau đó được dẫn đi theo ngã khác hẳn. Áp giải chúng tôi lúc này không phải là VC nằm vùng, địa phương, nhưng là bộ đội miền Bắc, khoảng 30 tên. Bọn nằm vùng ở lại để đi bắt người tiếp. Bỗng một kẻ mặc áo thầy chùa xuất hiện, đến cạnh chúng tôi mà nói:

- Mô Phật! Dân Phủ Cam bị bắt cũng nhiều đây! Chỉ thiếu Trọng Hê và Phú rỗ!

Trọng (con ông Hê) và Phú (mặt rỗ) là hai thanh niên công giáo, nhưng lại là “tay anh chị” khét tiếng cả thành phố. Về sau tôi được biết đa phần những thanh niên bị bắt đêm mồng 6 Tết tại nhà thờ Phủ Cam và sau đó bị giết chết đều là học sinh, sinh viên, thanh niên nhút nhát hiền lành. Còn hạng can đảm, có máu mạo hiểm hay hạng “du dãng, anh chị” đều đã đi theo binh lính, dân quân để chiến đấu tự vệ hoặc nhanh chân trốn chạy, không tới nhà thờ trú ẩn, nên đều thoát chết. Sự đời thật oái oăm!
Hết đường Phan Bội Châu, chúng tôi đi vào đường Tam Thai (bên trái đàn Nam Giao), sau đó men theo đường vòng đan viện Thiên An, xuôi về lăng Khải Định (xin xem bản đồ). Từ con đường trước lăng Khải Định, VC dẫn chúng tôi bọc phía sau trụ sở quận Nam Hòa (lúc đó chưa bị chiếm), ra đến bờ sông Tả Trạch (thượng nguồn sông Hương). Chúng tôi lầm lũi bước đi trong bóng tối, giữa trời mờ sương và giá lạnh, vừa buồn bã vừa hoang mang, tự hỏi chẳng biết số phận mình rồi ra thế nào, tại sao VC lại tấn công vào đúng ngày Xuân, giữa kỳ hưu chiến!?! 



Tới bờ sông, VC cho chặt lồ ô (nứa) làm bè để tất cả đoàn người vượt qua phía bên kia mà sau này tôi mới biết là khu vực lăng Gia Long, thuộc vùng núi Tranh hay còn gọi là vùng núi Đình Môn Kim Ngọc. Lúc ấy vào khoảng 9g tối. Từ đó, chúng tôi bắt đầu đi sâu vào rừng, lúc lên đồi, lúc xuống lũng, lúc lội qua khe, lần theo con đường mòn mà thỉnh thoảng lại được soi chiếu bằng những cây đèn pin hay vài ngọn đuốc của 30 tên bộ đội. Tôi thoáng thấy tre nứa và cây cổ thụ dày đặc. Trời mưa lâm râm. Đến khoảng 11g rưỡi đêm, chúng tôi được cho dừng lại để tạm nghỉ ăn uống. Tôi đoán chừng đã đi được hơn chục cây số. Mỗi người được phát một vắt cơm muối mè, đựng trên lá ráy (môn rừng). Hai cánh tay vẫn bị trói. Ít người ăn nổi. Riêng tôi làm hai vắt. 

Đường vào Khe Đá Mài (hình chụp tháng 11-2007)

Ăn xong thì được cho ngủ. Chúng tôi ngồi gục đầu dưới cơn mưa, cố gắng chợp mắt để lấy lại sức. Bỗng nhiên như có linh tính, tôi chợt choàng dậy và thấy rung động toàn thân hết sức dữ dội. Máu tôi sôi sùng sục trong đầu. Có chuyện chẳng lành rồi đây! Quả thế, tôi thoáng nghe hai tên VC gần kề nói nhỏ với nhau: “Trong vòng 15–20 phút nữa sẽ thủ tiêu hết bọn này!” Tôi nghe mà bủn rủn cả người! Nghĩ mình đang là học sinh vô tội, lại còn trẻ trung, thế mà 15 phút nữa sẽ bị giết chết, tôi như muốn điên lên. Dù thế tôi vẫn cầu nguyện: “Lạy Chúa, từ lâu Chúa dạy con phải hiền lành thật thà, không được làm hại ai, vậy mà giờ đây lại có người muốn giết con và các bạn của con nữa. Xin Chúa ban cho con mưu trí, can đảm và sức mạnh để tự giải thoát mình…”. Tôi ghé miệng vào tai thằng bạn bị trói ngay trước mặt: “Tụi mình ráng mở dây mà trốn đi! Mười lăm phút nữa là bọn hắn bắn chết hết đó!”. Chúng tôi quặt ra tay sau, âm thầm lần múi dây trói. Nhờ trời vừa mưa vừa tối, dây điện thoại lại trơn nên chỉ ít phút sau là nút buộc lỏng, vung mạnh cánh tay là sẽ bung ra. Chúng tôi cũng mở múi buộc dây thép gai đang nối mình với những người khác. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn giữ vị thế bị trói thúc ké, để bọn VC khỏi nghi ngờ. Tôi dặn thằng bạn tiếp: “Hễ tao vỗ nhẹ sau lưng là tụi mình chạy nghe!” 

Đánh thức chúng tôi dậy xong, một tên lên tiếng nói lớn cho cả đoàn:

- Chúng ta sắp đến trại học tập rồi. Vậy trong anh em ai có một là vàng, hai là tiền, ba là đồng hồ, bốn là bật lửa thì nộp lại để Cách mạng giữ cho, học xong 3 ngày sẽ trả. Kẻo vào trại, ăn cắp lẫn nhau rồi lại đổ lỗi cho Cách mạng, nói xấu cán bộ!

Thế là mọi người riu ríu và khổ sở móc ra những thứ quý giá còn giữ trong người. Ai chậm chạp hoặc ngần ngừ thì mấy tên bộ đội tới “giúp” cho. Bọn chúng lột sạch và cho tất cả vào mấy cái ba lô vải. Lúc đó tôi mới để ý thấy tay bộ đội áp giải chùm của tôi đang mang trên hai vai và cột quanh lưng ít nhất cả chục cái radio lớn nhỏ mà chắc hắn đã cướp được của dân dưới thành phố. Với khẩu AK trên tay lại thêm từng ấy máy móc trên người, hắn bước đi lặc lè, chậm chạp, khá cách quãng mấy tên khác. 

Khe Đá Mài hiện nay (hình chụp tháng 11-2007)



Chúng tôi lại bắt đầu đi xuống dốc. Tôi nghe có tiếng nước róc rách gần kề. Lại một khe nữa! Được vài bước, tôi vỗ nhẹ vào lưng thằng bạn. Cả hai chúng tôi vung tay, dây tuột, và nhanh nhẹn phóng ra khỏi hàng. Lấy hết sức bình sinh, tôi đá mạnh vào gót rồi vào dưới cằm tên bộ đội áp giải (tên mang cả chùm radio ấy!). Hắn ngã nhào. Hai chúng tôi lao vào rừng lồ ô. Bọn VC tri hô lên: “Bắt! Bắt! Có mấy thằng trốn” rồi nổ súng đuổi theo chúng tôi. Chạy khoảng mấy chục mét, thoáng thấy có một lèn đá -vì trời không đến nỗi tối đen như mực- tôi kéo thằng bạn lòn vào trong mất dạng. Tôi dặn hắn: “VC nó kêu, nó dụ, tuyệt đối không bao giờ ra nghe! Ra là chết!” Một lúc sau, tôi nghe có tiếng nói trong bóng đêm: “Bọn chúng chạy mất rồi, nhưng rừng sâu thế này khó mà thoát chết nổi! Thôi đi tiếp!!!”. 

Khi nghe tiếng đoàn người đi khá xa, chúng tôi mới bò ra khỏi lèn, đi ngược lên theo hướng đối nghịch. Chừng 15-20 phút sau, tôi bỗng nghe từ phía dưới vọng lên tiếng súng AK nổ vang rền và lựu đạn nổ tới tấp, phải mấy chục băng và mấy chục quả. Một góc rừng rực sáng! Chen vào đó là tiếng khóc la khủng khiếp –chẳng hiểu sao vọng tới tai chúng tôi rõ ràng– khiến tôi dựng tóc gáy, nổi da gà và chẳng bao giờ quên được. Hai chúng tôi đồng nấc lên: “Rứa là chết cả rồi! Rứa là chết cả rồi! Trời ơi!!!” Lúc đó khoảng 12 đến 12g30 khuya đêm mồng 7 rạng ngày mồng 8 Tết. Tôi bàng hoàng bủn rủn. Sao lại như thế? Các bạn tôi dưới ấy đều là những người hiền lành, chưa lúc nào cầm súng, chưa một ngày ra trận, chẳng hề làm hại ai, họ có tội tình gì? Bọn chúng có còn là người Việt Nam nữa không? Có còn là người nữa không? Sau này tôi mới biết đấy là vụ thảm sát khủng khiếp nhất trong cuộc chiến Quốc-Cộng. Địa danh Khe Đá Mài –mà lúc ấy tôi chưa rõ– in hằn vào lịch sử nhân loại và cứa vào da thịt dân tộc như một lưỡi dao sắc không bao giờ cùn và một thỏi sắt nung đỏ chẳng bao giờ nguội.

Xương cốt các nạn nhân nằm dồn dưới khe (hình chụp tháng 10-1969)

Chúng tôi tiếp tục chạy, chạy mãi, bất chấp lau lách, gai góc, bụi bờ, vừa chạy vừa thầm cảm tạ Chúa đã cho mình thoát chết trong gang tấc nhưng cũng thầm cầu nguyện cho những người bạn xấu số vừa mới bị hành quyết quá oan ức, đau đớn, thê thảm. Sáng ra thì chúng tôi gặp lại con sông. Biết rằng bơi qua ngay có thể gặp bọn VC rình chờ bắt lại, chúng tôi men theo sông, ngược lên thượng nguồn cả mấy cây số, đến vùng Lương Miêu thượng. Tới chỗ vắng, tôi hỏi thằng bạn:

- Mày biết bơi không? 

- Không! 

- Tao thì biết. Thôi thì hai đứa mình kiếm hai cây chuối. Mày ôm một cây xuống nước trước, tao ôm một cây bơi sau, đẩy mầy qua sông. Rán ôm thật chặt, thả tay là chìm, là chết đó. Trời lạnh này tao không lặn xuống cứu mày được mô!

Đúng là hôm đó trời mù sương và lạnh buốt. Thời tiết ấy kéo dài cả tháng Tết tại Huế. Có vẻ như Ông Trời bày tỏ niềm sầu khổ xót thương bao nạn nhân vô tội ở đất Thần Kinh này. Vừa bơi tôi vừa miên man nghĩ tới các bạn tôi. Máu của họ có xuôi theo triền dốc, hòa vào giòng nước sông Tả Trạch này chăng? Oan hồn họ giờ đây lảng vảng nơi nào? Có ai còn sống không nhỉ? 

Sông Tả Trạch ở Lương Miêu

Chúng tôi cập gần bến đò Lương Miêu. Từ đây, xuôi dòng sẽ về trụ sở quận Nam Hòa, hy vọng gặp binh lính quốc gia, nhưng cũng có nguy cơ gặp bọn VC chặn đường bắt lại. Thành thử chúng tôi nhắm hướng nam, tìm đường về Phú Bài. Thằng bạn tôi, do suốt đêm bị gai góc trầy xước, đề nghị đi trên đường quang cho thoải mái. Tôi gạt ngay: 

- Ban đêm thì được, chớ ban ngày thì nguy lắm. Chịu khó lần theo đường mòn!

Chúng tôi thấy máu và bông băng rơi vãi nhiều nơi, chứng tỏ có trận đánh gần đâu đó. Đang đi, tôi đột nhiên hỏi thằng bạn: 

- Chừ (=bây giờ) gặp dân thì mày trả lời ra răng (=thế nào), nói tao nghe. 

- Nhờ anh chứ tôi thì chịu! 

Lúc khoảng 9g, chúng tôi gặp 3 thằng bé chăn trâu. Tôi lên tiếng nói:

- Hai anh là học sinh ở đường Trần Hưng Đạo dưới phố (con đường chính của khu buôn bán, không nói là Phủ Cam). Cách mạng (không gọi là Việt cộng) số về đánh dưới, số còn trên ni. Hai anh vừa mang gạo lên chiến khu hôm qua cho họ. Nay họ cho hai anh về, nhưng ướt cả áo quần lại đói nữa. Mấy em biết Cách mạng có ở gần đây không, chỉ cho hai anh, để hai anh kiếm chút cơm ăn, kẻo đói lạnh quá! 

- Hai anh qua khỏi đường này thì sẽ thấy mấy ông Cách mạng đang hạ trâu ăn mừng!

Thế là chúng tôi hoảng hốt tuôn vào rừng lại. Chạy và chạy, chạy tốc lực, chạy như điên, không dừng lại để nghỉ. Một đỗi xa, chúng tôi mới hướng ra lại đồng bằng. Bỗng một đồn lính xuất hiện đằng xa, đến gần thấy bên trong lố nhố mũ sắt. Phe ta rồi! Lần này thì vô đây chứ không đi mô nữa cả. Nhất định vô! Lúc đó khoảng 10 giờ trưa. Đây là đồn biên phòng của một đơn vị quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Chúng tôi nghe từ trong đồn có tiếng dõng dạc vang vọng: “Hai thằng VC muốn về hồi chánh hả? Vào đi! Nhớ để tay lên đầu. Thả tay xuống là bắn đó!”

Chúng tôi nhất nhất tuân theo. Vào được bên trong, hoàn hồn, chúng tôi mới nói: 

- Hai đứa em là học sinh ở dưới Phủ Cam, Phước Quả, bị VC bắt lên rừng từ tối hôm qua với mấy trăm người khác. Nghe tụi nó định giết hết, hai đứa em đã liều mở dây trói, đánh thằng VC rồi bỏ chạy. Còn mấy người kia chắc là chết hết cả rồi! Giờ tụi em chỉ có một nguyện vọng : xin đồn phát súng cho bọn em đánh giặc với, chớ không thể đi ra khỏi đồn nữa. 

Viên sĩ quan chỉ huy cất tiếng: “Tổ quốc đang lâm nguy! Đứa con nào trung, đứa con nào hiếu lúc này là biết liền. Thôi, mấy em thay áo quần, xức thuốc xức men, ăn uống thoải mái rồi ở lại với mấy anh. Tội nghiệp!!!”

Họ hỏi chúng tôi về chỗ xảy ra cuộc hành hình nhưng chúng tôi hoàn toàn không thể trả lời được. Giữa rừng rậm lại đêm khuya, biết đâu mà lần. Gần nửa tháng sau tôi mới gặp lại gia đình họ hàng, bằng hữu thuộc giáo xứ Phủ Cam đang chạy về lánh nạn tại Phú Lương và Phú Bài. Hai chúng tôi quyết định bỏ học để đăng lính. Phải cầm súng bảo vệ tổ quốc thôi. Phải báo thù cho anh em bạn bè bị VC giết quá ư dã man, tàn ác, vô nhân đạo. Tôi nhập bộ binh. Thằng bạn tôi đi nhảy dù. Nhưng vài năm sau, tôi nghe tin nó chết trận! Tội nghiệp thật, nhưng đó là cái chết ý nghĩa!

Đến gần tháng mười năm 1969, nhờ bắt được và khai thác mấy tù binh VC, chính phủ VNCH mới biết địa điểm tội ác chính là Khe Đá Mài, nằm trong rừng Đình Môn Kim Ngọc thuộc quận Nam Hòa (nay là xã Dương Hòa, quận Hương Thủy). Nơi đây không thể vào được bằng xe vì đường đi không có hoặc không thể đi lọt, mà chỉ vào được bằng lội bộ. Cây cối chỗ này rất cao, lá dày và mọc theo kiểu hai tầng, tầng thấp gồm những bụi tre và cây nhỏ, tầng cao gồm những cây cổ thụ, với những nhánh lớn xoè ra như lọng dù che khuất đi những gì bên dưới. Bên dưới hai tầng lá này, ánh sánh mặt trời không chiếu sáng nổi. Đúng là nơi có thể giết người mà không cần phải chôn cất. Công binh đã phải bỏ hai ngày, dùng mìn phá ngã các cây cổ thụ để tạo ra một khoảng trống lớn đủ cho máy bay trực thăng đáp xuống, và tiểu đoàn 101 Nhảy Dù Quân lực VNCH đã phụ trách việc bốc các di hài nạn nhân. Các binh sĩ đã tìm thấy cuối một khe nước chảy trong veo (về sau mang thêm tên Suối Máu, Phủ Cam Tử bộ), cả một núi hài cốt, nào sọ, nào xương sườn, nào xương tay xương chân trắng hếu, nằm rời rạc, nhưng cũng có những bộ còn khá nguyên. Xen vào đó là dây điện thoại và dây thép gai vốn đã trói chúng tôi thành chùm. Rồi áo quần (vải có, da có, len có) nguyên chiếc hay từng mảnh, lỗ chỗ vết thủng. Rồi tràng chuỗi, tượng ảnh, chứng minh thư, ống hít mũi, lọ dầu nóng… vương vãi trên bờ, giữa cỏ, dưới nước. Nhờ những di vật này mà một số nạn nhân sẽ được nhận diện. Khi tất cả hài cốt, di vật được chở về trường tiểu học Nam Hòa (nay gọi là Thủy Bằng) bên hữu ngạn sông Hương, đem phân loại, thân nhân đã ùa đến và không ai cầm nổi nước mắt. Tất cả òa khóc, nghẹn ngào. Có người cầu nguyện, có người nguyền rủa, có người lăn ra ngất xỉu khi khám phá vật dụng của người thân. Cái chủ nghĩa nào, cái chế độ nào, cái chính đảng nào đã chủ trương dã man như thế? đã tạo ra những con người giết đồng bào ruột thịt cách tàn nhẫn như thế? 

Hài cốt các nạn nhân được quy tập ở trường tiểu học Nam Hòa 
(nay gọi là Thủy Bằng) bên hữu ngạn sông Hương

Y phục còn lại của các nạn nhân đẻ ở sân trường tiểu học Nam Hòa




Cuối cùng, đa phần các hài cốt (hơn 400 bộ) được quy tập một chỗ, mang tên nghĩa trang Ba Tầng, nằm phía Nam thành phố Huế, khá cận kề khu vực Từ Đàm (đất của Phật giáo) và Phủ Cam (đất của Công giáo). Nghĩa trang xây thành hình bán nguyệt. Hai bên, phía trước, có hai bàn thờ che mái, cho tín đồ Phật giáo và Công giáo đến cầu nguyện. Ở giữa, phía sau, một trụ đá dựng đứng với giòng chữ Hán làm bia tưởng niệm. Từ đó, tại giáo xứ Phủ Cam của tôi, hàng năm, ngày mồng 10 Tết được coi là ngày cầu nguyện tưởng nhớ các nạn nhân Mậu Thân. Chúng tôi có thể tha thứ cho người Cộng sản nhưng chúng tôi không bao giờ quên được tội ác của họ, y như một câu ngạn ngữ tiếng Anh: “Forgive yes! Forget no!”


Nghĩa trang Ba Tầng hiện nay (ảnh chụp tháng 4-2012)

Nghĩa trang Ba Tầng hiện nay (ảnh chụp tháng 4-2012)



Tiếc thay, sau khi vừa chiếm được miền Nam, Cộng sản đã dùng mìn phá ngay trụ bia và hai bàn thờ. Lại thêm một phát súng vào hương hồn các nạn nhân mà nỗi oan vẫn chưa được giải. Đến bao giờ họ mới được siêu thoát đây? Cũng phải nói thêm một điều đáng tiếc nữa là trong Đại hội thường niên từ 8 đến 12-10-2007 năm nay tại Hà Nội, Hội đồng Giám mục Việt Nam đã hoàn toàn im lặng trước đề nghị Giáo hội Công giáo VN hãy tưởng niệm 40 năm biến cố này, theo như Thỉnh nguyện thư mà cha Giải, cha Lợi cùng nhiều linh mục và giáo dân khác đã viết hôm 29-09-2007.

Kể lại cho hai cha Nguyễn Hữu Giải và Phan Văn Lợi trong tháng kính các đẳng linh hồn, Tháng 11-2007.

*

Những bài liên quan về tội ác của cộng sản trong Mậu Thân Huế đã đăng trên Danlambao:

Chúng vẫn múa, hát trên những xác người
Để kỷ niệm 50 năm thảm sát Mậu Thân
Những phiên tòa của nền văn minh
Những hố chôn người trong cuộc thảm sát Mậu Thân tại Huế
- Biến cố Mậu Thân: Cuộc thảm sát tại Khe Đá Mài - Hồi ức của một chứng nhân
50 năm cuộc thảm sát Mậu Thân (1968-2018)
Mật lệnh tấn công tết Mậu Thân
Cuộc tấn công Mậu Thân 1968 trong hoàn cảnh chính trị lịch sử thế giới
Đã bị hố vì Triển lãm Đấu Tố, còn cả ngố khi Kỷ niệm Mậu ThânTội ác bí ẩn của Thảm sát Mậu Thân
Toàn cảnh trước biến cố Mậu Thân (1968)
Đón xuân này nhớ xuân xưa
Hát trên những xác người
"Tám Nẻo Đường Thành"
50 năm máu vẫn chưa khô trên thành phố Huế (1968-2018)
Những người lính Bắc Việt bị xiềng vào súng trong cuộc tổng tấn công Mậu Thân
Tổng kết cuộc chiến tết Mậu Thân (1968)
Nén hương tưởng niệm những nạn nhân Tết Mậu Thân Huế
50 năm Tội ác Mậu Thân Huế
50 năm - Mậu Tuất (2018) uất nghẹn Mậu Thân (1968) (Từ tiết lộ của người trong cuộc… Nguyễn Đắc Xuân)
Tại sao đổi lịch tết Mậu Thân?
Cuộc chiến Mậu Thân trên toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng Hoà
So sánh giữa vụ khủng bố 9-11 của Al Qaeda tại Mỹ và vụ khủng bố của cộng sản Bắc Việt vào dịp Tết Mậu Thân
Lệnh tấn công tết Mậu Thân của cộng sản
Chuyên đề Mậu Thân - Bài 1 - Cộng sản tự hào về thảm sát ở Huế
Chuyên đề Mậu Thân - Bài 2 - Một vụ thảm sát bình thường vào đầu xuân 1968...
Chuyên đề Mậu Thân - Bài 3 - Tất cả đều bị đập bể đầu 
Chuyên đề Mậu Thân - Bài 4 - Đã tìm thấy ngót 2.000 xác
Chuyên đề Mậu Thân - Bài 5
Chuyên đề Mậu Thân - Bài 6
Chuyên đề Mậu Thân - Bài 7 - "Khi năm Tuất đến, Huế vẫn còn khóc cho Tết năm Thân..."
Thảm sát Mậu Thân 1968
Mậu Thân 68: CSVN đang lấy “mỡ lợn rán thịt heo”!
Tiếng tù và Mậu Thân của Lê Phong Lan
Lê Phong Lan và đồng bọn có còn là con người nữa không?
Gửi bà Lê Phong Lan và đồng bọn!
Lê Phong Lan: láo xác chết, lừa người sống
Đồng bào Huế gửi “quà Xuân” cho nữ đạo diễn Lê Phong Lan
Lê Phong Lan và bộ phim: “Chạy tội cho CSVN”
Mậu Thân 1968: “Guinness” nói láo của CSVN
Vị Thẩm Phán Cuối Cùng: Lương Tâm
Mậu Thân 1: Đòn đánh nhá của Tướng Giáp
Mậu Thân 2: Độc thủ của Bác
Mậu Thân 3: Công lao của Bác
Phong Lan - con đường Bi-đác
Mậu Thân 1968: Kẻ đồ tể & Nhân chứng sống (Cập nhật)
Kỷ vật Mậu Thân
Xác nào là em tôi, dưới hố hầm này!?
Nỗi đau Tết Mậu Thân chưa có phút nào nguôi!
Phim Mậu Thân 1968 - một canh bạc bịp
45 năm sau Mậu Thân - Máu vẫn chưa khô trên thành phố Huế
Mậu Thân trong tâm khảm một nhà thơ
Nghệ thuật dối trá
Những sự thật không thể chối bỏ (phần 14) - Ai làm cho Huế đau thương?
Hãy nói trước ngày chết
Mậu thân Huế - Câu chuyện của Nguyễn Thị Thái Hòa
Những con tắc kè ảo vọng
Biến cố Tết Mậu Thân 1968: Trường hợp Lê Văn Hảo
Quanh việc chối tội tham gia thảm sát trong biến cố tết mậu thân của Hoàng Phủ Ngọc Tường qua bài phỏng vấn của bs Nguyễn Đức Tùng
Hãy lột mặt nạ CSVN tẩy rửa Wikipedia