Friday, March 18, 2016

Hàng chục đập thủy điện sẽ giết dòng Mekong như thế nào?

MINH ANH-11:34 19/03/2016 
Hàng loạt đập thủy điện trên sông Mekong tại các quốc gia như Trung Quốc, Lào, Thái Lan và Campuchia đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống người dân ở hạ nguồn như Việt Nam.

Hàng chục đập thủy điện sẽ giết dòng Mekong như thế nào?
Ảnh minh họa.
Từ thượng nguồn ở độ cao gần 5 km so với mực nước biển ở tỉnh Thanh Hải của Trung Quốc cho đến vùng đồng bằng miền Tây của Việt Nam, sông Mekong uốn lượn trên quãng đường hơn 4.300 km, được đánh giá là huyết mạch của các quốc gia Đông Nam Á. Tuy nhiên, các đập thủy điện mọc lên dày đặc đã phá vỡ hệ sinh thái Mekong.
Đến nay, Trung Quốc đã xây 6 đập thủy điện trải dọc sông Mekong. Lào và Campuchia định xây thêm hơn 10 đập, và không dừng lại ở đó. Các con đập này ảnh hưởng tiêu cực đến nguồn thủy sản trong khu vực cũng như việc tưới tiêu phục vụ trồng trọt, canh tác của nông dân, có thể khiến hàng triệu người lâm vào cảnh đói nghèo. Và bằng chứng là những thay đổi đột ngột của mực nước và hạn hán nặng nề ở hạ lưu Mekong.
Đập thủy điện đang giết dòng Mekong
Hàng loạt thủy điện của Trung Quốc xây ở thượng nguồn sông Mekong. Ngày 15/3, Trung Quốc đã xả lũ ở đập Cảnh Hồng (Jinghong) theo đề nghị ở Việt Nam để cứu hạn ở đồng bằng sông Cửu Long. Đồ họa: Phượng Nguyễn

Gây rối loạn sinh thái

Những con đập lớn làm thay đổi chất lượng nguồn nước và dòng chảy, làm giảm chất dinh dưỡng trong lượng phù sa trôi xuống hạ nguồn. Đa số những con sông lớn của châu Á đều chảy xuôi từ vùng Himalaya, đi qua lớp đá trầm tích ở cao nguyên Tây Tạng nên mang theo lượng phù sa dồi dào, đáp ứng nông nghiệp, nguồn sống của các loài thủy sinh.
Phù sa giúp bồi đắp và bổ sung màu mỡ cho những vùng đất đã bị khô cằn ở hạ lưu, bổ sung vào chuỗi thức ăn của các loài sau khi phần lớn chúng từ sông chảy ra biển hoặc đại dương. Việc Trung Quốc xây hàng loạt đập ở thượng nguồn, bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng, đã cản trở dòng chảy phù sa cho đồng bằng hạ lưu.
Một số nghiên cứu khoa học nhấn mạnh đến mối liên hệ giữa việc lượng lớn phù sa bị giữ lại các đập phía thượng lưu và sự thu hẹp, sụt lún của những vùng đồng bằng lớn châu Á, nơi đặt những siêu đô thị như Thiên Tân, Thượng Hải, Quảng Châu, Bangkok, Kolkata và Dhaka.
Đập thủy điện đang giết dòng MekongĐập Mạn Loan (Manwan) của Trung Quốc. Ước tính các đập thủy điện đã giữ lại lượng lớn phù sa và trầm tích của sông trước khi nó chảy xuống các quốc gia ở hạ lưu. Ảnh:Tổ chức Sông ngòi Quốc tế
Ngoài ra, việc sụt giảm lượng nước ngọt đổ từ các con sông ra biển đã làm thay đổi độ mặn trong nước ở những vùng cửa sông. Khi lượng phù sa chảy ra biển giảm sút ảnh hưởng đến lượng trầm tích ngấm vào đất ở đồng bằng, cơ chế vốn ngăn chặn nước mặn rò rỉ vào tầng nước ngọt dọc theo bờ biển.
Các nghiên cứu cho thấy, một nửa lượng trầm tích ở hạ lưu Mekong xuất phát từ thượng nguồn (Trung Quốc gọi là sông Lan Thương). Tuy nhiên, các tính toán chỉ ra rằng lượng trầm tích bị giữ lại ở đập Mạn Loan (Manwan) khoảng từ 53% đến 94%. Sự ảnh hưởng này kéo dài đến tận Vientiane (Lào).
Việc suy giảm trầm tích ở hạ lưu không chỉ gây ra hiện tượng xói mòn ở bờ sông, mà còn là làm suy giảm dinh dưỡng trong dòng chảy, ảnh hưởng đến cả hệ sinh thái ở lưu vực. Một trong những tác động nghiêm trọng khác đang diễn ra chính là xâm nhập mặn ở vùng đồng bằng, điển hình như thảm họa người dân ở đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam đang phải trải qua.
Theo ghi nhận của Tổ chức Sông ngòi Quốc tế (IR), các con đập ở Lan Thương cũng thay đổi nhiệt độ nước sông. Ví dụ, nhiệt độ trung bình hằng ngày của nguồn nước ở huyện Chiang Saen (miền Bắc Thái Lan) đã giảm sau khi đập Đại Triều Sơn (Dachaoshan) đi vào hoạt động.
Một khi chuỗi đập ở Lan Thương hoàn thành, chắc chắn ảnh hưởng đối với nhiệt độ nước sẽ lan rộng đến các vùng ở hạ nguồn trong khoảng hàng trăm cây số. Nhiệt độ nước biến động cũng tác động tiêu cực đến môi trường sống của các loài cá và thủy sản khác.
Việc Trung Quốc xây hàng loạt đập nước gây khó khăn cho cuộc sống của hàng triệu người dân phụ thuộc hàng ngày vào sông Mekong. Lượng nước sụt giảm, trầm tích và phù sa ít, nguồn cá di chuyển xuống hạ lưu cũng ít dần, đe dọa an ninh lương thực.
Xâm nhập mặn sẽ tác động nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp và các vựa lúa ở đồng bằng, vốn phụ thuộc lớn vào phù sa của các con sông, đặt ra những thách thức về sinh kế của người dân và nhu cầu lương thực trong tương lai.
Đập thủy điện đang giết dòng MekongViệc xây dựng đập Xayaburi của Lào đang trong giai đoạn cuối. Ảnh:Ejatlas.org

Lào bất chấp cảnh báo

Lào không giấu diếm khao khát trở thành nguồn cung cấp năng lượng chủ chốt cho Đông Nam Á. Nước này đã có ít nhất 23 đập thủy điện hoạt động dọc sông Mekong. Đến năm 2020, Economist cho biết Lào hy vọng nâng con số này lên đến 93. Phần lớn điện tạo ra sẽ được bán cho Thái Lan. Chính phủ Lào kỳ vọng thủy điện sẽ trở thành một trong những nguồn thu nhập lớn của họ đến năm 2025.
Để đạt được những mục tiêu này, Vientiane quyết tâm thực hiện 2 dự án đập lớn, bất chấp những ngăn cản của các nước và các tổ chức môi trường. Đó là các công trình đập Xayaburi (công suất 1.285 MW) và Don Sahong (công suất 260 MW). Đập Xayaburi do tập đoàn CH. Karnchang của Thái Lan xây dựng, trong khi đơn vị thi công đập Don Sahong là Mega First Berhad của Malaysia.
Theo Thỏa thuận Mekong năm 1995 đã được Việt Nam, Campuchia, Lào và Thái Lan thống nhất, các quốc gia sẽ tham vấn với những bên còn lại trước khi tiến hành bất kỳ dự án nào có thể ảnh hưởng lớn đến con sông. Sau đó, các nước thành lập Ủy ban Liên hợp Ủy hội sông Mekong để giám sát quá trình này.
Tuy nhiên, thẩm quyền của ủy ban bị lung lay bởi các hành động đơn phương của Lào khi quyết định xây đập Xayaburi và sắp tới sẽ là đập Don Sahong. Nằm tại thung lũng hiểm trở phía bắc Lào, đập Xayaburi là đập hiện đại nhất trong số 11 con đập lớn trên dòng chính tại hạ lưu sông Mekong.
Tổ chức Sông ngòi Quốc tế nhận định sau khi hoàn tất xây dựng, con đập sẽ gây ra những thay đổi về mặt sinh thái vĩnh viễn không thể đảo ngược cho sông Mekong, buộc 2.100 người phải tái định cư và ảnh hưởng trực tiếp tới hơn 200.000 người.
Đồng thời nó đẩy những loài sinh vật đang bị đe dọa nghiêm trọng, như cá trê lớn ở sông Mekong, vào tuyệt chủng. Người dân Thái Lan sống ở cuối nguồn dự án, vì lo ngại cho tương lai của họ, đã kiên quyết phản đối việc xây đập ra tòa.
Đập thủy điện đang giết dòng MekongViệc xây đập Don Sahong có thể ảnh hưởng đến cuộc sống của loài cá heo Irrawaddy. Ảnh:WWF
Theo Tổ chức Sông ngòi Quốc tế, việc xây đập Xayaburi sẽ dẫn đến thay đổi nghiêm trọng môi trường sống, khiến 41 loài cá sẽ có thể bị đẩy tới nguy cơ tuyệt chủng. Ngoài ra, địa điểm xây đập Xayaburi chỉ cách thị trấn Luang Prabang, một di sản thế giới được UNESCO công nhận, 150 km về phía hạ lưu. Do vậy, nó gây ra mối đe dọa với cuộc sống của 2.100 người đây. Hồ chứa nước của đập cũng nằm cách thị trấn cổ kính này chỉ 48 km.
Cũng trong năm 2015, vào tháng 9, bất chấp sự phản đối của nhiều tổ chức và giới khoa học, Quốc hội Lào đã thông qua việc xây đập Don Sahong ở phía nam nước này. Việt Nam, Campuchia đã nhiều lần bày tỏ lo ngại đối với dự án đập Don Sahong vì các ảnh hưởng của nó đến sinh kế của người dân, hệ sinh thái khu vực và an ninh lương thực.

Ảnh hưởng đến nguồn cá

Hơn 50% loài cá bắt ở lưu vực sông Mekong là các giống cá di cư. Trong khi địa điểm xây các con đập đều của Lào đều là những vị trí quan trọng trong dòng chảy của các loài cá di cư đặc trưng ở sông Mekong. Chẳng hạn, đập Don Sahong được xây ở nơi giáp biên giới Campuchia (Don Sahong thuộc huyện Khong, tỉnh Champasak, miền nam Lào, cách biên giới Lào - Campuchia chưa đến 2km), được xem là “cổ chai” của luồng cá di cư.
Do vậy, giới chuyên gia lo ngại đập sẽ ảnh hưởng đến nguồn cung lương thực trong khu vực. Vị trí này cũng là nơi trú ẩn của loài cá heo nước ngọt Irrawaddy cuối cùng còn sót lại cũng như di sản thác Khone Phapheng, và gần đó là khu bảo tồn Ramsar quốc tế ở hạ lưu thuộc Campuchia.
Những tổ chức phi chính phủ về môi trường như WWF hoặc Tổ chức Sông ngòi Quốc tế cảnh báo việc xây đập gây ảnh hưởng đến các cộng đồng dân cư sinh sống ở hạ lưu. Nếu dự án được tiến hành, đập Don Sahong sẽ chặn toàn bộ kênh Hou Sahong, cản đường di cư của cá trong lưu vực, và tác động sâu rộng đến an ninh lương thực, sinh kế của nông dân, ngư dân các nước Campuchia, Thái Lan, Việt Nam và cả Lào.
Một trong những vấn đề nữa là đập Don Sahong có thể ngăn chặn dòng chảy của trầm tích, ảnh hưởng đến việc canh tác nông nghiệp ở các vùng dân cư lưu vực sông.
Đập thủy điện đang giết dòng MekongViệc xây đập thủy điện ở Campuchia gây lo ngại vì ảnh hưởng đến cuộc sống người dân trên sông Tonle Sap. Ảnh:AFP

Cảnh báo dự án đập của Thái Lan và Campuchia

Dọc biên giới Thái - Lào là hai con đập Pak Chom (công suất 1.079 MW) và Ban Koum (công suất 2.230 MW). Theo Ủy ban sông Mekong, hai dự án này sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống của hơn 588.000 người tại tỉnh Loei và hơn 413.000 dân tại tỉnh Ubon Ratchathani tại Thái Lan.
Dự án đập Pak Chom có thể khiến hơn 73 km2 vùng đất giữa Thái Lan và Lào chìm trong nước. Trong khi chi phí xây đập ước tính khoảng 1,77 triệu USD, thiệt hại môi trường và xã hội có thể đến 20 triệu USD.
Campuchia có kế hoạch xây dựng hai đập thủy điện là đập Sambor thuộc huyện Sambor, tỉnh Kratie, và đập Stung Treng thuộc tỉnh Stung Treng ở đông bắc giáp với phía nam Lào. Tổng công suất của hai dự án khoảng 3.600 MW. Campuchia là quốc gia nghèo tài nguyên. Do vậy, 2 dự án thủy điện này có ý nghĩa lớn trong việc bổ sung nguồn điện . Tuy nhiên, phần lớn lượng điện từ các đập sẽ phục vụ xuất khẩu.
Nghiên cứu của Ủy hội Mekong cho rằng nếu Campuchia xây đập thì rất hàng chục nghìn người dân sẽ bị mất nhà và buộc phải tái định cư ở địa phương khác. Cụ thể, công trình đập Stung Treng sẽ khiến hơn 2.000 hộ gia đình, bao gồm hơn 10.000 dân, ở 21 làng trong vùng phải di dời. Vị trí của đập Stung Treng cũng nằm trong vùng bảo tồn Ramsar nên các nhà khoa học lo ngại quá trình xây đập chắc chắn ảnh hưởng tiêu cực đến hệ sinh thái ở đây.
Trong khi đó, Tổ chức Sông ngòi Quốc tế nhận định vị trí của các con đập đe dọa trực tiếp đến sinh kế của những nông dân Campuchia sống dựa trên đánh bắt cá. Do đập Sambor sẽ cản trở luồng chảy của loài cá di cư từ miền nam Lào đến sông Tonle Sap của Campuchia, hủy diệt phần lớn loài cá ở đây, là gián đoạn quá trình thủy văn của con sông, ảnh hưởng đến trầm tích và chu kỳ dinh dưỡng, hệ sinh thái chung của nó.
Theo Zing News

Giật mình với số doanh nghiệp “chết” trong các ngành tài chính ngân hàng, y tế!

T.M-07:48 19/03/2016
BizLIVE - Tài chính ngân hàng và y tế là 2 lĩnh vực có số doanh nghiệp giải thể tăng mạnh nhất trong 2 tháng đầu năm với mức tăng lần lượt là 300% và 91,7%.

Giật mình với số doanh nghiệp “chết” trong các ngành tài chính ngân hàng, y tế!
Ảnh minh họa.
Báo cáo thống kê chuyên đề tình hình hoạt động doanh nghiệp của Cục Quản lý đăng ký kinh doanh (Bộ Kế hoạch và đầu tư) cho biết, số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể những tháng đầu năm 2016 có xu hướng tăng so với cùng kỳ năm 2015.
Cụ thể, số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể trong 02 tháng đầu năm 2016 của cả nước là 2.195 doanh nghiệp, tăng 6,8% so với cùng kỳ năm trước. 
Trong tổng số doanh nghiệp giải thể của cả nước trong 02 tháng đầu năm 2016 có 905 công ty TNHH 1 thành viên chiếm 41,2%; 654 công ty TNHH 2 thành viên chiếm 29,8%; 370 công ty cổ phần chiếm 16,9% và 266 doanh nghiệp tư nhân chiếm 12,1%.
So với cùng kỳ năm 2015, số doanh nghiệp giải thể trong 2 tháng đầu năm 2016 tăng ở tất cả các loại hình doanh nghiệp. Trong đó công ty TNHH 1 thành viên có tỷ lệ tăng cao nhất là 41,2%, tiếp đến là công ty TNHH 2 thành viên là 29,8% và các loại hình còn lại. 
Xét theo quy mô vốn, số lượng doanh nghiệp giải thể phần lớn là những doanh nghiệp có quy mô vốn đăng ký nhỏ dưới 10 tỷ đồng là 2.051 doanh nghiệp, chiếm tỷ lệ 93,4% trên tổng số doanh nghiệp giải thể của cả nước, tăng 6,8% so với cùng kỳ năm 2015.
Phân theo vùng lãnh thổ, tình hình oanh nghiệp đăng ký giải thể trong 2 tháng qua giảm tại một số vùng trong cả nước so với cùng kỳ năm 2015.
Cụ thể, khu vực Trung du và miền núi phía Bắc có 123 doanh nghiệp giảm 32,4%; Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung có 270 doanh nghiệp giảm 29,7%; Đồng bằng Sông Cửu Long có 424 doanh nghiệp giảm 13,6% và Tây Nguyên có 68 doanh nghiệp giảm 9,3%.
Trong khi đó, khu vực Đông Nam Bộ và Đồng bằng Sông Hồng lại có số doanh nghiệp giải thể tăng mạnh. Theo đó, Đông Nam Bộ với 914 doanh nghiệp, tăng 65,3% và Đồng bằng sông Hồng có 396 doanh nghiệp, tăng 7%.
Phân theo lĩnh vực hoạt động, có 2 ngành, lĩnh vực có số doanh nghiệp giải thể giảm so với cùng kỳ năm trước gồm: Khai khoáng có 19 doanh nghiệp giảm 38,7%; Xây dựng có 212 doanh nghiệp giảm 28,9%.
Các ngành, lĩnh vực còn lại đều có số doanh nghiệp giải thể tăng so với cùng kỳ năm 2015 như: Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội có 16 doanh nghiệp tăng 300%; Tài chính, ngân hàng và bảo hiểm có 23 doanh nghiệp tăng 91,7%; Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản có 111 doanh nghiệp tăng 88,1%;...
Duy nhất, lĩnh vực hoạt động dịch vụ khác có số doanh nghiệp giải thể không thay đổi so với cùng kỳ năm 2015.

Biển Đông: Mỹ tiết lộ hành vi khả nghi của Trung Quốc ở bãi Scarborough

Trọng Nghĩa 
Theo RFI-18-03-2016 14:01 
media
Người Philippines biểu tình trước đại sứ quán Trung Quốc ở Washington DC hôm 11/05/2012 phản đối Bắc Kinh chiếm bãi cạn Scarborough. AFP PHOTO/Nicholas KAMM
Theo hãng tin Anh Reuters, vào hôm qua 17/03/2016, tư lệnh Hải Quân Mỹ, đô đốc John Richardson, đã cho biết rằng Hoa Kỳ vừa phát hiện những hoạt động đáng ngờ của Trung Quốc quanh bãi cạn Scarborough đã chiếm từ tay Philippines vào năm 2012. Theo đô đốc Richardson, các động thái đó có thể là tiền đề cho việc bồi đắp nơi này thành đảo nhân tạo.
Trả lời hãng tin Anh, tư lệnh Hải Quân Mỹ nói rõ là « đã nhận thấy tàu Trung Quốc đang có một số hoạt động đại loại như hoạt động khảo sát » tại một khu vực có thể sắp trở thành nơi được bồi đắp. Khu vực được ông Richardson nói đến là bãi cạn Scarborough ở phía bắc quần đảo Trường Sa, cách vịnh Subic của Philippines khoảng 200km về phía Tây.
Theo đô đốc Richardson, hiện chưa rõ là các hoạt động quanh bãi Scaborough đã bị Trung Quốc chiếm đoạt vào năm 2012 có liên quan gì đến sự kiện một tòa án quốc tế sắp ra phán quyết về đơn Philippines kiện các yêu sách chủ quyền quá đáng của Trung Quốc tại Biển Đông hay không.
Thế nhưng, tư lệnh Hải Quân Mỹ đã tỏ ý quan ngại trước khả năng Trung Quốc sẽ tuyên bố một vùng nhận dạng phòng không trên Biển Đông, ngay sau khi toà án ra phán quyết. Chính quyền Mỹ, theo ông, đang cân nhắc phản ứng thích đáng trong trường hợp đó.
Về phần Philippines, bộ Ngoại giao nước này vào hôm nay cho biết là chưa nhận được thông tin nào về các hoạt động của Trung Quốc quanh bãi Scaborough.
Một quan chức trong quân đội Philippines xin giấu tên tuy nhiên đã xác nhận rằng từ năm 2012 đến nay, Trung Quốc đã chiếm cứ bãi Scaborough trong thực tế, và luôn luôn cho hai, ba chiếc tàu tuần duyên túc trực tại đấy. Còn về hoạt động bồi đắp thì phía Manila chưa ghi nhận dấu hiệu nào.
Trong phần trả lời hãng tin Reuters, đô đốc Richardson cho rằng việc Trung Quốc bành trướng tại Biển Đông và bồi đắp đảo nhân tạo ở quần đảo Trường Sa có thể đe dọa quyền tự do hàng hải vốn đã được duy trì nhiều thế kỷ nay trong khu vực. Bên cạnh đó, Bắc Kinh có thể áp đặt « những luật lệ mới », buộc các nước khác phải được Trung Quốc chấp thuận thì mới được đi qua khu vực.
Hoa Kỳ, theo ông Richardson, sẽ tiếp tục các chiến dịch bảo vệ quyền tự do hàng hải ở Biển Đông, bên trong khu vực 12 hải lý quanh các đảo có tranh chấp, để nhấn mạnh quyết tâm bảo vệ quyền tự do lưu thông trong vùng.
Tư lệnh Hải Quân Mỹ hoan nghênh các nước khác cùng tham gia các cuộc tuần tra chung của Hoa Kỳ ở Biển Đông, nhưng chính các nước có liên can phải tự đưa ra quyết định. Theo ông, các nước như Việt Nam, Philippines và Ấn Độ đã nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của việc bảo đảm các quyền tự do trên biển.
Nước Mỹ, theo ông, đang thăm dò cơ hội tăng cường việc sử dụng các hải cảng ở các nước như Philippines hay Việt Nam, trong đó có cả căn cứ Hải Quân Mỹ trước đây tại Cam Ranh.

Việt Nam đi về đâu sau Đại hội Đảng 12 ?

Thụy My 
Theo RFI- 16-03-2016 18:29 
media
Ông Nguyễn Phú Trọng (P) và ông Nguyễn Tấn Dũng tại Đại hội Đảng 12, Hà Nội, ngày 26/01/2016. REUTERS
« Chiến lược mở cửa kinh tế trong chủ trương Đổi Mới được khẳng định. Sau Đại hội lần thứ 12 của Đảng Cộng sản, Việt Nam đi về đâu ? ». Câu hỏi này được nhật báo cộng sản L’Humanité đặt ra với hai nhà nghiên cứu trên mục tranh luận của số báo hôm nay 16/03/2016. Đó là giáo sư Pierre Journoud chuyên về lịch sử đương đại của trường đại học Paul-Valéry Montpellier III, và ông Benoît de Tréglodé, giám đốc chương trình châu Á của Irsem, thuộc Học viện Quân sự Pháp.
Thay đổi trong sự kế tục, đó là nhận xét của giáo sư Pierre Journoud. Trong khi nước Pháp đang bước vào chiến dịch tranh cử tổng thống, Việt Nam đang tổng kết lại Đại hội Đảng lần thứ 12 diễn ra tại Hà Nội từ ngày 20 đến 28/01/2016, hơn 80 năm sau Đại hội đầu tiên tổ chức tại Quảng Đông. Một tuần lễ thương lượng gay go để bầu lại 180 ủy viên trung ương và 19 ủy viên Bộ Chính trị.
Không hẳn thân Tàu hay Mỹ, mà thực dụng
Sự rút lui đã được định trước của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, vì ông ta chủ trương quan hệ chặt hơn với phương Tây và Hoa Kỳ đồng thời được cho là kiến trúc sư của Hiệp định Đối tác Chiến lược Xuyên Thái Bình Dương (TPP), đánh dấu sự thất bại của các nhà cải cách ? Ngược lại, thắng lợi của đối thủ Nguyễn Phú Trọng – tiếp tục giữ chức tổng bí thư trong khi được cho là thân Trung Quốc, có phải là chiến thắng của phe bảo thủ, có thể làm ảnh hưởng đến cải cách kinh tế và xích lại gần hơn với Hoa Kỳ ?
Nhưng theo ông Pierre Journoud, nếu đơn giản hóa những bất đồng về các vấn đề nhạy cảm, cú sốc tham vọng và tương quan lực lượng vốn đi kèm với mọi sự tranh giành quyền lực ; thành một sự đối đầu giữa hai phe chống và thân Trung Quốc hay Mỹ, là chưa biết hết về tính thực dụng của hai nhà lãnh đạo trên.
Ông Trọng rốt cuộc đã đồng tình với việc ký kết TPP, trước khi tiến hành chuyến viếng thăm lịch sử tháng 5/2015 - lần đầu tiên Hoa Kỳ tiếp đón thượng khách chính thức là một tổng bí thư đảng. Còn ông Dũng đã đón tiếp nồng hậu chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tháng 11/2015, làm dịu nhẹ đi những tuyên bố công khai chống Tàu rất cứng rắn của ông, khi Bắc Kinh cho đặt giàn khoan Hải Dương Thạch Du 981 trên thềm lục địa Việt Nam, ở ngoài khơi Hoàng Sa.
Đó cũng là đã đánh giá thấp sự thăng bằng tinh tế trong cơ cấu ban lãnh đạo mới. Đại hội 12 đã tái khẳng định sự cần thiết phải duy trì sự độc tôn của Đảng Cộng sản và tăng cường kiểm soát, với việc giao những chức vụ quan trọng cho các nhân vật trong Bộ Công an hay cựu ủy viên Bộ Chính trị, như tướng Ngô Xuân Lịch, tân bộ trưởng Quốc phòng. Tuy vậy vẫn đảm bảo đối trọng : duy trì những nhân vật có nỗ lực hiện đại hóa kinh tế và quân sự của Việt Nam cũng như đa dạng hóa quan hệ ngoại giao như và quốc phòng, như ngoại trưởng Phạm Bình Minh và thứ trưởng Quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh.
« Đổi Mới » là không thể đảo ngược
Nhất là chiến lược « Đổi Mới » (bằng tiếng Việt trong nguyên văn) và mở cửa kinh tế được liên tục theo đuổi từ sau Đại hội 6 năm 1986, dường như được đồng thuận khá cao, đủ để không thể quay ngược lại trong ngắn hạn và trung hạn. Và tại sao lại phải thay đổi ?
Việt Nam có tỉ lệ tăng trưởng kỷ lục ở châu Á, và đã bắt đầu tái định hướng về phía nhu cầu nội địa. Chưa bao giờ Việt Nam thu hút được đầu tư ngoại quốc nhiều như thế. Chính sách đa phương hóa về ngoại giao được kích hoạt từ thập niên 90, rồi đến đối tác quốc phòng trong những năm 2000, đã đưa Việt Nam lên hàng nhân tố có trách nhiệm và được tán tỉnh, dù tồn tại những khuyết điểm và nghịch lý (tham nhũng, trấn áp các nhà ly khai…).
Trước một Trung Quốc - mà các yêu sách tối đa ở Biển Đông đã đụng chạm đến khát vọng của Việt Nam và đang trở thành người cạnh tranh duy nhất với Hoa Kỳ - không có chiến lược nào tốt hơn cho Hà Nội : không theo bên nào cả, lại càng không nên chống lại một trong hai đại cường trên, mà phải giao du với cả hai.
Các nhà lãnh đạo được bầu lên từ Đại hội 12 cũng không có ý định thay đổi sự thăng bằng đã được thận trọng thiết lập trong khuôn khổ chính sách ngoại giao linh hoạt, đa phương và khéo léo ; mà họ biết rằng phạm vi can thiệp bị hạn chế trước tham vọng của Trung Quốc và sự căng thẳng Mỹ-Trung, cũng như sự nôn nóng ngày càng tăng lên của xã hội dân sự mới được hình thành.
Giáo sư Pierre Journoud kết luận, khẩu hiệu « Thay đổi trong sự kế tục » như của cựu tổng thống Pháp Georges Pompidou khi tranh cử để lên thay tướng De Gaulle năm 1969, sẽ là chủ đạo, dù có phải biến tấu đi một ít.
Đảng Cộng sản Việt Nam có còn là một đảng mác-xít ?
Còn chuyên gia Benoît de Tréglodé đặt câu hỏi : Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) liệu vẫn là một đảng mác-xít ? Ông nhận xét, tại Việt Nam người dân chẳng còn quan tâm mấy đến tính mác-xít của đảng. Theo dòng lịch sử, những tuyên bố của ĐCSVN chất chứa nhiều bối cảnh chiến tranh và địa chính trị khác nhau.
Nghiên cứu về Việt Nam, nhà sử học phải đặt câu hỏi về những giai đoạn quan trọng trong việc phổ biến một ý thức hệ được nhập cảng vào một đất nước nhỏ bé đang có chiến tranh, nằm cách xa Liên Xô. Việc tiếp nhận chủ nghĩa Mác-Lê với cấp độ cao nhất tại Việt Nam dựa trên một sự diễn dịch Trung Quốc hóa, hay nói cách khác là « Khổng giáo hóa » một ý thức hệ nhập khẩu từ phương Tây.
Tác giả dẫn ra ba văn bản chính yếu để tạo ra « chủ nghĩa mác-xít theo kiểu Việt Nam ». Đó là « Đề cương văn hóa Việt Nam » do Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương công bố năm 1943, và hai cuốn sách của tổng bí thư Trường Chinh. Cuốn thứ nhất ra đời năm 1947 mang tên « Kháng chiến nhất định thắng lợi », và cuốn thứ hai năm 1948, « Chủ nghĩa Mác và vấn đề văn hóa Việt Nam ».
Hai cuốn sách trên có xuất xứ từ tác phẩm « Bàn về tu dưỡng của đảng viên cộng sản » do Lưu Thiếu Kỳ (Liu Shaoqi) phổ biến trong hội nghị của Viện Mác-Lê ở Diên An tháng 7/1937. Trước tác này đã trở thành sách gối đầu giường cho công tác đào tạo đảng viên cộng sản Trung Quốc, gợi hứng cho các tác giả Việt Nam.
« Bàn về tu dưỡng của đảng viên cộng sản » là cơ sở cho sự chuyển đổi chủ nghĩa mác-xít nhằm thích ứng với cơ cầu văn hóa Khổng giáo truyền thống. Lưu Thiếu Kỳ khoác cho chủ nghĩa mác-xít một lý tưởng đạo đức. Ngay từ thập niên 40, chủ nghĩa Mác-Lê tại Trung Quốc và Việt Nam dần dà trở thành một hệ tư tưởng tập trung vào vấn đề đạo đức.
Chủ nghĩa Mác-Lê không có khái niệm « đạo đức cách mạng » 
Các bài viết của các nhà tư tưởng lớn Việt Nam như Hồ Chí Minh, Trần Văn Giàu, Trần Huy Liệu, Vũ Khiêu liên tục nêu ra khái niệm « đạo đức cách mạng ». Trong thập niên 50, việc nghiên cứu chủ nghĩa mác-xít tại Việt Nam cũng là nghiên cứu các phẩm chất về trí thông minh và đạo đức của Mác và Lênin. « Cuộc sống, hành động và phẩm chất của các khuôn mặt mác-xít, bên cạnh đó là những người hùng của nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, phải trở thành tiêu chuẩn học tập về đạo đức của toàn thể nhân dân ».
Tuy vậy lý thuyết mác-xít cổ điển, nhất là với Lênin, ít nói đến mặt đạo đức của chủ nghĩa Mác-Lê. Đối với Mác, xã hội cộng sản lý tưởng dựa trên việc phát triển lực lượng sản xuất, còn Lênin nhấn mạnh đến sự quan trọng của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Cả Mác lẫn Lênin và Stalin, không có ai cho rằng việc tiến lên chủ nghĩa cộng sản phải đi kèm với đạo đức hóa giai cấp vô sản.
Tại Việt Nam, những người cộng sản ngay từ đầu đã tìm kiếm trong chủ nghĩa Mác-Lê phương tiện để giáo dục đạo đức cho nhân dân, nhằm thành lập một « chính phủ lý tưởng »để giải phóng đất nước khỏi ngoại bang xâm lược. Và bốn mươi năm sau đó, khi tái hòa nhập cộng đồng quốc tế trong thập niên 90, đảng cũng đi theo lôgic này. ĐCSVN rao giảng các giá trị đạo đức của tư tưởng Hồ Chí Minh, các nguyên tắc của chính phủ tân Khổng giáo, ái quốc và được nhiều người thông cảm.
Trong một đất nước vừa ra khỏi 15 năm căng thẳng với nước Trung Quốc cộng sản và không còn viện trợ của đất nước Liên Xô đã tan rã, ĐCSVN đã nhẹ nhàng chọn lựa thích ứng với bối cảnh quốc tế mới, và mục đích hàng đầu là không mất đi chút quyền lực nào trong chính phủ.
Rút khỏi Syria : Nước cờ cao của Putin
Luật Lao động sửa đổi, chi tiêu công, cuộc chiến giữa ngành thuế và Bộ Kinh tế Pháp về các tài khoản tiết kiệm, trí tuệ nhân tạo, nạn ấu dâm…là những đề tài khác nhau trên trang nhất các nhật báo lớn Paris hôm nay. Tuy nhiên việc Nga chấm dứt chiến dịch quân sự ở Syria là chủ đề được tất cả các báo Pháp quan tâm.

L’Humanité chạy tựa trang đầu « Nga rút khỏi Syria, cơ hội cho một giải pháp chính trị ». Ở trang trong, đặc phái viên của tờ báo tại Damas cho rằng quyết định này đã thay đổi tương quan lực lượng tại Syria.
Tương tự, La Croix nhận định Nga tự cho đã « hoàn thành nhiệm vụ », và việc rút quân từng phần này có thể giúp khởi động cuộc thương lượng gay go ở Genève giữa chế độ Assad và phe nổi dậy. Còn Le Figaro nhận xét « trò chơi của Putin đã tác động đến Assad » : việc Matxcơva bắt đầu rút quân đã làm đậm nét thêm một loạt những xích mích giữa tổng thống Syria và người bảo hộ ở điện Kremli.
Trong bài phân tích mang tên « Một bước ngoặt mới trong cuộc xung đột », Le Figaro nhắc lại bước ngoặt trước đây khi ông Barack Obama đột ngột bỏ rơi đồng minh Pháp, từ chối tấn công chế độ Assad vào phút chót dù tổng thống Syria đã vượt qua lằn ranh đỏ là sử dụng vũ khí hóa học. Với quyết định trên, ông Vladimir Putin đã chứng tỏ sự chủ động với lá bài Syria hơn phía Mỹ.
Le Monde có bài điều tra độc quyền mang tựa đề « Gián điệp, quân thánh chiến và sự do dự chết người của CIA ở Syria ». Còn Direct Matin nhận xét, quyết định rút quân mang lại nhiều lợi ích cho tổng thống Nga. Vừa chứng tỏ được thiện chí trước phương Tây, vừa là lời cảnh báo cho Assad, ông Putin còn khỏi phải chi tiêu quân sự khổng lồ trong thời buổi suy thoái. « Thành công » tại Syria là công cụ tuyên truyền đối với người dân Nga, và quyết định rút quân còn giúp tránh được sự trả thù của tổ chức Nhà nước Hồi giáo.

Mỹ mở kho hậu cần ở Việt Nam?

Theo BBC-18 tháng 3 2016 



Image copyrightAFP
Image captionHàng năm, Mỹ đều tổ chức tập trận đa phương “Hổ mang vàng” ở Thái Lan

Quân đội Mỹ lên kế hoạch lập kho hậu cần ở một số nước Á châu, trong có Việt Nam và Campuchia, theo trang Defense News.
Trang mạng The Diplomat dẫn lại nguồn của Defense News nói hoạt động này có thể nhằm để "ngăn chặn Trung Quốc".
Tại một hội nghị về quốc phòng, Tướng Dennis Via, Bộ Tư lệnh Hậu cần Mỹ, nói rằng quân đội có kế hoạch thiết lập tám kho quân trang quân dụng trên toàn cầu.
Tuy nhiên, các cơ sở tại châu Á - Thái Bình Dương sẽ chứa các thiết bị khác so với những kho ở châu Âu, tướng Via nói thêm.
"Kho hậu cần quân sự ở châu Âu là vũ khí sẵn sàng cho chiến tranh", tướng Via giải thích.
Theo Breaking Defense, kho hậu cần quân sự ở châu Âu đang có 200 xe tăng M1 Abrams, 138 xe chiến đấu bộ binh M2 Bradley, và 18 khẩu lựu pháo tự hành M109 Paladin.
Tư lệnh Quân trang Mỹ cũng vừa gửi 5.000 tấn đạn dược đến châu Âu, lượng vũ khí lớn nhất từ khi Thế chiến II kết thúc. Tướng Via giải thích rằng trách nhiệm của tư lệnh là "cung cấp cho quân đội Mỹ và các lực lượng phối hợp những vũ khí hiện đại nhất để các đơn vị đó nhanh chóng triển khai khi cần".
Kho thiết bị quân sự đặt tại Campuchia và Việt Nam chứa các quân trang quân dụng nhẹ hơn và chủ yếu phục vụ hoạt động cứu trợ nhân đạo và thảm họa, theo Tướng Via.
"Trong khu vực vành đai Thái Bình Dương, kho hậu cần của Mỹ sẽ trợ giúp thiết bị, vật dụng cứu trợ nhân đạo và thảm họa, nhờ vậy mà khi có bão và các thảm họa tự nhiên khác xảy ra, Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương của Mỹ có thể ứng phó nhanh hơn”, ông Via nói.


Image copyrightReuters
Image captionXe tăng của quân đội Mỹ

"Chúng tôi cũng đang tìm cách đặt một bệnh viện dã chiến tại Campuchia”, ông cho hay.

Tiết kiệm ngân sách

Hơn nữa, vị tướng cũng nhấn mạnh rằng một trong những lý do cho việc lập kho hậu cần là tiết kiệm ngân sách. "Chúng tôi luôn tìm cách tận dụng hiệu quả nhất từng đồng đôla mà ngân sách cấp cho", Tướng Via nói.
Tuy nhiên, kế hoạch của vị tướng này chắc chắn sẽ gây tranh cãi.
Ngay cả khi các thiết bị mà Mỹ muốn đặt ở kho lưu trữ tại Campuchia và Việt Nam không để phục vụ chiến tranh mà chủ yếu được dùng cho hoạt động cứu trợ nhân đạo và thảm họa, động thái này vẫn được cho là thông điệp mạnh mẽ gửi tới Trung Quốc.
The Diplomat cho rằng điều đó cũng khiến Bắc Kinh cảm thấy đang từng bước bị Mỹ cùng các đồng minh tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương bao vây.
Việc lưu trữ quân trang quân dụng Mỹ tại Việt Nam và Campuchia có thể xem là sự hiện diện thường trực quy mô nhỏ của quân đội Mỹ tại những nước này.
Điều đó có thể tạo ra những hiệu ứng lan tỏa hữu ích và tăng cường hợp tác quốc phòng sâu rộng hơn giữa Hoa Kỳ và các quốc gia châu Á - Thái Bình Dương, nơi Washington không có căn cứ quân sự thường trực.
Hiện chưa rõ kế hoạch nói trên sẽ có tác động như thế nào đến quan hệ Trung-Mỹ và liệu Bắc Kinh có tìm cách 'trả đũa’ hay không.

Dân chủ đến thế là cùng” = đảng…đảng….đảng !

Phùng Hoài Ngọc-VNTB 19.3.16


(VNTB) - Nhìn động thái của ủy ban bầu cử, chúng ta thấy rõ họ đang hoảng sợ. Họ sợ các UCV Mặt Trận (đảng viên) thua cuộc trước các UCV độc lập. Họ sợ lòng dân bày tỏ thẳng thắn qua lá phiếu.

“Dân chủ đến thế là cùng”

Có một số nhà lý luận của Đảng từng nói: mở rộng chế độ dân chủ còn phải tùy theo trình độ dân trí. Dân trí thấp thì không biết thực hiện quyền dân chủ.

Ý của họ là, dân trí lên cao tới đâu thì nhà cầm quyền mở rộng dân chủ tương ứng tới đấy.
Dân chủ và dân trí tỷ lệ thuận với nhau.
Nghe qua cũng có lý.
Đó là một vấn đề đáng bàn.
Vậy thì, các nhà khoa học phải có trách nhiệm nghiên cứu trình độ dân trí của xã hội Việt Nam, kết quả tới đâu thì báo cáo khoa học trình cho nhà cầm quyền biết.
Muốn thực hiện, nhà khoa học phải cơ sở khoa học để đo lường DÂN TRÍ.
Luật trưng cầu ý dân là một trong các biện pháp đo dân trí. Và phải do các cơ quan độc lập tiến hành đo đạc.

Bầu cử là một trong các hoạt động đo lường dân trí với điều kiện có cơ quan tiến hành giám sát độc lập. Nếu đối tượng được bầu cử lại đứng ra tổ chức bầu cử, tự đo lường và công bố thì không thể đạt được sự tin cậy của xã hội.

Viện hàn lâm KHXH Việt Nam hoành tráng, đội ngũ trùng trùng điệp điệp học hàm học vị từ cử nhân tới GSTS sao không quan tâm đề tài này?

Thiên hạ chưa quên phát ngôn thế kỷ của ông Nguyễn Phú Trọng rằng “dân chủ đến thế là cùng”. Theo đó, Đảng không thể nới rộng dân chủ hơn nữa!
Và theo ý ông Trọng mà suy, dân trí cũng đã “đến thế là cùng” rồi sao ?
Bởi vì Dân chủ và Dân trí song hành tỷ lệ thuận.
Gay go quá, như thế là, ông Trọng đã rơi vào duy tâm chủ nghĩa rồi.
Ông đã rơi vào duy tâm và siêu hình bởi vì ông bảo “dân chủ thế là cùng” (maximum).

Thực tế là “dân trí” không bao giờ cùng, không đứng yên, chỉ có tiến cùng với lịch sử.
Biện chứng của ông Nguyễn Phú Trọng nhà lý luận đỉnh cao mù mờ quá!

“Dân chủ đến thế là cùng” = đảng…đảng….đảng !

Đảng đã cử ra “Hội đồng bầu cử quốc gia”, do một ủy viên BCT của Đảng phụ trách.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp do Đảng chọn và lãnh đạo.
Nói cách khác, Đảng tự tổ chức bầu cử cho mình từ A đến Z.
Hiệp thương là gì?
“Hiệp” là hợp lại, ngồi chung.
‘Thương” là thương lượng, mặc cả, tranh luận.
Chỉ có VN và TQ là hai nước tổ chức “hiệp thương” ba giai đoạn trong bầu cử, chen vào cái “hội nghị cử tri”. (Trung cộng gọi mặt trận là: Ủy ban toàn quốc Hội nghị Hiệp thương chính trị Nhân dân, gọi tắt là Chính hiệp).

Ai thương lượng bàn bạc với ai trong hội nghị “hiệp thương” ?
Thực chất là, Đảng bàn bạc với Đảng mà gọi là “hiệp thương” ư ? Thực chất danh chính ngôn thuận chỉ cần gọi là “hội ý nội bộ” là vừa đủ.

Mặt Trận rộng lớn hơn Đảng, bao trùm mọi đảng, mọi thành phần dân tộc, nhưng lại… do một đảng lãnh đạo.
Mặt Trận cũng là Đảng. Đảng là “mặt trận”.
Mặt Trận chốt danh sách UCV, trong đó tự nhận một tỷ số đa số.
Và cuối cùng, Đảng kiểm phiếu và công bố kết quả.
Và sau nữa, quốc hội cũng vẫn là Đảng, với tỷ lệ áp đảo của đảng viên.
Bát quái trận đồ, trước sau vẫn là đảng…đảng….đảng !

Vậy, xin đề nghị Đảng tức là Hội Đồng BCQG chọn cử luôn đảng viên ra làm đại biểu quốc hội, chừa vài phần trăm cho người ngoài đảng để dân bầu. Như thế giảm thiểu nhiều ngân sách  thuế dân.

Cơ chế song trùng lãnh đạo, dàn ra như bát quái trận đồ, trùng trùng điệp điệp!

Khi phát hiện có lỗi sai sót thì đương nhiên cái Mặt Trận lãnh việc “rút kinh nghiệm”, Đảng nhanh chân né qua một bên.

Các ứng cử viên do Mặt Trận chọn cử không hề vận động bầu cử. Cử tri đến giờ cũng chưa biết họ tên mặt mũi “đại biểu” của mình. Khi danh sách công bố thì thời gian còn quá ngắn, đại biểu chẳng có thời gian vận động, cử tri cũng không thể tìm hiểu họ được. Hội đồng bầu cử giao cho “tiểu ban an ninh” đi xác minh tất tật là xong.

Hoảng sợ!

Một tờ báo DẦU KHÍ (Petro Times) do một anh công an làm TBT đã nổ phát súng đầu tiên vào nghệ sĩ Nguyễn Công Vượng UCV tự do. Đến nay nhiều tờ báo nhà nước thấy bất bình phải lên tiếng phản đối. Báo Petro Times câm lặng bẽ bàng cứng hàm không thể cãi lại… Như phản ứng domino, vào những thời hạn chót, nhiều UCV tự do khẩn trương nộp hồ sơ cho UB bầu cử đúng hạn, một số vị bị cản trở vì mắc “cái bẫy xác nhận lý lịch” và “cái bẫy thời gian” đành bỏ cuộc.

Cú đòn phản công chót do “tiểu ban an ninh Hà Nội” tung ra tại Hội nghị hiệp thương hàm hồ nói rằng “có một số UCV tự do được một số tổ chức phản động đứng sau” (an ninh đã nắm được chứng cứ) đã gây bất bình rộng khắp công luận. Các ứng viên độc lập phản đối trực tiếp bằng văn bản, nhiều tờ báo lên tiếng chỉ trích UBBC ở Hà Nội.

Họ dùng biện pháp “tranh cử” thiếu quân tử, vấy bùn tung tóe lên các UCV độc lập.

Họ chơi đòn tiểu xảo chính trị, khiến cử tri nghi ngờ tất cả UCV tự do.
Như thế có công bằng dân chủ không?
Tôi cứ băn khoăn tự hỏi sao họ phảỉ cuống quýt đến vậy?

Nhìn động thái của ủy ban bầu cử, chúng ta thấy rõ họ đang hoảng sợ.
Họ sợ các UCV Mặt Trận (đảng viên) thua cuộc trước các UCV độc lập.

Họ sợ lòng dân bày tỏ thẳng thắn qua lá phiếu.