Wednesday, March 9, 2016

Vụ án ở Long An: 'công vụ' và 'công bằng'

Luật sư Ngô Ngọc Trai Gửi cho BBCVietnamese.com 9 tháng 3 2016 

Image copyrightFacebook Huy Phan
Image captionNgoài phiên tòa ở Long An xử Nguyễn Mai Trung Tuấn
Mới đây em thiếu niên Nguyễn Mai Trung Tuấn 15 tuổi ở Long An bị xử phạt 2 năm 6 tháng tù về tội cố ý gây thương tích trong một vụ việc chống người thi hành công vụ.
Xung quanh vụ án này nhiều bất cập được nêu ra, có ý kiến cho rằng tại sao lại xử tù một em thiếu niên nhỏ tuổi mà không cho em về tiếp tục đến trường?
Một số luật sư nghi ngờ kết quả giám định thương tích ở mức 35% của bị hại Trưởng công an xã, vì theo Điều 12 Bộ luật hình sự em Tuấn nhỏ tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội rất nghiêm trọng do cố ý.
Và theo quy định tại Điều 104 Bộ luật hình sự, nếu thương tích của bị hại dưới 31% thì không xử lý em Tuấn, đằng này thương tích bị hại là 35%. Một số người nghi ngờ kết quả giám định đã được nâng lên để đủ mức xử lý hình sự em Tuấn.
Là một luật sư, qua vụ án được công luận quan tâm này, tôi thấy cần chỉ ra những bất hợp lý trong việc giải quyết các vụ án lâu nay.

Công vụ là gì?

Lâu nay nhiều người bị xử lý hình sự về tội chống người thi hành công vụ, nhưng pháp luật lại chưa xác lập một nội dung rõ ràng về công vụ.
Mặc dù vậy có thể hiểu công vụ là việc làm của cán bộ công chức thực hiện theo đúng chức năng nhiệm vụ quyền hạn được pháp luật quy định, có hai điều kiện tiên quyết đó là người thực hiện phải là cán bộ công chức nhà nước và việc làm phải đúng chức năng nhiệm vụ theo pháp luật.
Vậy nếu việc làm của cán bộ công chức không đúng quy định pháp luật, ví như sai về thẩm quyền, sai về cơ sở căn cứ pháp lý, sai về trình tự thủ tục, thì đó không phải công vụ.
Và đương nhiên người dân không có nghĩa vụ phải chấp hành hợp tác với một việc làm sai.
Nhưng lâu nay trong các vụ chống người thi hành công vụ, cơ quan giải quyết thường ít quan tâm xem hành vi công vụ có sai phạm gì không, mà họ chỉ nhìn vào hành vi chống đối để xử lý.
Trong khi luật đã quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng nhóm cán bộ công chức nhằm xác định rõ ràng tránh làm sai, ảnh hưởng đến lợi ích nhà nước, lợi ích người dân.
Và luật cũng quy định về thể thức, trình tự, thủ tục nhằm buộc các hoạt động công vụ phải đúng đắn, tránh mờ ám khuất tất, làm bừa làm bậy.
Đó cũng là trang bị cho người dân cơ chế hiểu biết để kiểm soát phòng ngừa, biết được đúng sai để bảo vệ quyền lợi cho mình.
Như vậy, đúng ra một hành vi dù được thực hiện bởi cán bộ công chức nhưng không đúng quy định pháp luật thì phải không được coi là công vụ.
Bởi không có pháp luật nào, không có nhà nước nào chấp nhận một việc làm sai pháp luật là công vụ nhân danh nhà nước. Kết quả của việc làm đó sẽ không có lợi cho nhà nước, không có lợi cho người dân, đó là hành vi xâm hại, đó không phải công vụ.
Và trước một hành vi xâm hại người dân có quyền phòng vệ chính đáng.

Đúng cũng xử lý

Thực tế lâu nay nhiều trường hợp phản đối công vụ, có cơ sở chính đáng vẫn bị xử lý về hành vi chống người thi hành công vụ.
Nhiều hành vi công vụ bị chống đối thực chất chứa đựng những vi phạm khiến người dân bất bình, đặc biệt trong lĩnh vực cưỡng chế thu hồi đất. Nhưng pháp luật lại vô lý khi buộc người dân phải chấp nhận trước rồi khiếu nại sau.
Cụ thể luật khiếu nại quy định người khiếu nại có nghĩa vụ chấp hành quyết định hành chính mà mình khiếu nại trong thời gian khiếu nại. Điều này rất dễ dẫn đến việc buộc người dân phải chấp nhận một việc làm sai.
Khi đó tổn hại gây ra sẽ làm mất đi tính đúng đắn nghiêm chính của hoạt động thực thi pháp luật.
Ví như nhiều trường hợp người dân phản đối cưỡng chế thu hồi đất do đang có khiếu nại về kiểm đếm tài sản trên đất hoặc đo đạc sai diện tích.
Vậy khi buộc người dân phải chấp nhận quyết định thu hồi trước, khiếu nại sau, nếu việc giải tỏa mặt bằng san lấp thi công làm mất đi cơ sở giải quyết khiếu nại thì sao?
Thực tế đã cho thấy nhiều trường hợp người dân khiếu nại đúng, cơ quan thu đồi đất đã đo đạc sai diện tích hoặc kiểm đếm sai tài sản.

Công bằng cho dân

Image copyrightFacebook
Image captionNguyễn Mai Trung Tuấn
Việc buộc người dân thi hành quyết định hành chính trước khiếu nại sau, sẽ dẫn đến buộc người dân phải chấp nhận một việc làm sai. Đây là ngang trái khiến cho việc giải quyết các sự vụ không được thấu tình đạt lý.
Hiểu biết của người dân sẽ chẳng còn ý nghĩa, kiến thức pháp luật sẽ chẳng còn tác dụng khi phát hiện ra việc làm sai mà vẫn phải chấp nhận.
Đó là bất công dẫn đến những vụ chống người thi hành công vụ thường hay xảy ra trong thu hồi đất.
Để tránh chống đối cần thay đổi pháp luật theo hướng chỉ cưỡng chế giải tỏa mặt bằng sau khi có bản án hành chính của tòa án phân định rõ ràng về pháp lý và quyền lợi rồi mới thực hiện.
Vì một khi những băn khoăn của người dân chưa được giải quyết rõ ràng thì người ta sẽ có xu hướng chống đối việc cưỡng chế.
Cưỡng chế thu hồi đất cũng là loại công vụ hay sai về cơ sở pháp lý và trình tự thủ tục. Trong khi việc xử lý lâu nay các cơ quan thường xem nhẹ sai phạm về trình tự thủ tục, coi đó là hoạt động có thể bổ sung hoàn thiện sau hoặc sửa chữa cho phù hợp.
Đây là quan điểm không công bằng, vì thủ tục cũng là luật định. Vi phạm thủ tục cũng là vi phạm pháp luật, vậy tại sao cán bộ lại được vi phạm mà người dân thì lại phải yêu cầu tuân thủ pháp luật?
Đây cũng là nhận thức sai lầm khiến cho công tác giải quyết các vụ án nhiều năm qua đã không giúp ích gì cho việc ngăn giảm các vụ chống đối.
Vì thực tế những vi phạm về thủ tục như việc niêm yết, việc gửi quyết định, việc thông báo trước, chính là những chiêu trò xấu mà cán bộ làm với người dân, bộc lộ đạo đức công vụ yếu kém, cẩu thả coi thường pháp luật, chính là nguyên nhân dẫn đến bất bình chống đối.
Cho nên để giảm tránh chống người thi hành công vụ, cần nghiêm khắc coi vi phạm về trình tự thủ tục cũng như vi phạm về thẩm quyền, đều là làm sai pháp luật, cần bị hủy bỏ không được coi là công vụ.

Còn nhiều bất cập

Image copyrightinternet
Image captionDân phản đối chính quyền thu hồi đất
Để công bằng cho người dân, trong quá trình giải quyết các vụ chống người thi hành công vụ cần làm rõ xem hành vi công vụ có vi phạm gì không?
Nếu phát hiện ra vi phạm về thẩm quyền, cơ sở pháp lý, trình tự thủ tục, thì đó phải được coi không phải công vụ và không xử lý hành vi chống người thi hành công vụ. Hành vi chống đối cần được xem là phòng vệ chính đáng.
Trường hợp người dân gây ra thương tích thì có thể bị xem xét xử lý do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng.
Trong vụ án của em thiếu niên Nguyễn Mai Trung Tuấn ở Long An, không thấy các cơ quan tư pháp làm rõ xem việc cưỡng chế có vi phạm gì không. Vụ án theo đó còn nhiều nghi vấn, nhiều khúc mắc chưa được làm rõ.
Nhìn rộng ra nền tư pháp Việt Nam còn nhiều bất cập, đằng sau mỗi vụ án nổi cộm ẩn dấu những bất cập pháp luật cần được xử lý. Bởi vậy cải cách tư pháp dù là chủ trương đúng nhưng còn rất nhiều việc phải làm.
Song dường như Ban chỉ đạo cải cách tư pháp trung ương vẫn chưa sẵn sàng nắm bắt vấn đề để tháo gỡ. Bằng chứng là vẫn có những vụ án rất chậm được xử lý trong khi đương sự phải cay đắng chịu đựng ví như vụ Hàn Đức Long ở Bắc Giang.
Ban chỉ đạo cải cách tư pháp trung ương cần lắng nghe tiếng nói phản ánh của giới luật sư, những người hàng ngày đối diện với những bất cập pháp luật.
Có thế những vướng mắc mới được chỉ ra tháo gỡ, nền tư pháp Việt Nam mới có khả năng được trở lên công minh tiến bộ.
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của luật sư Ngô Ngọc Trai từ VP Luật Công Chính, Hà Nội.

Có nên xấu hổ khi mang quốc tịch Việt Nam?

Bạn tôi nói: “Bất công quá mày ạ. Chỗ tao làm, chỉ cần mang quốc tịch Mỹ hay châu Âu thì tự dưng lương tăng gấp 4-5 lần so với lương của dân Việt mình. Mà có phải bọn nó là dân Mỹ và Châu Âu gốc đâu, toàn sinh ra và lớn lên ở Việt Nam rồi sang đó du học, tìm đường lấy quốc tịch rồi về Việt Nam làm việc.” Tôi cũng đồng tình. Trước đây tôi có làm việc tại một công ty quốc doanh chuyên về bất động sản. Lúc đó có anh kiến trúc sư tên Hải, sinh ra và lớn lên ở Việt Nam, du học ở Tây Ban Nha được vài năm rồi lấy vợ và nhập quốc tịch Tây Ban Nha. Sau đó về làm cho công ty quốc doanh, tự dưng lương được nâng lên chín ngàn đô Mỹ một tháng. Trong khi cùng vị trí như anh Hải, các kiến trúc sư Việt Nam chỉ hưởng mức lương 20 - 30 triệu đồng. Chắc hẳn nhiều người nghĩ là vì anh Hải kia tài năng và được đào tạo bài bản ở Tây Ban Nha nên mới có được mức lương cao như thế. Thật ra thì chỉ vì anh ta mang quốc tịch nước ngoài nên mới được tính mức lương như vậy mà thôi. Bởi vì trong số những anh kiến trúc sư 20 - 30 triệu đồng kia, có những ai rất tài năng, cũng được đào tạo ở Mỹ, Anh, Úc nhưng vì không có quốc tịch ngoại nên đành chấp nhận mức lương bèo bọt.
Hỏi ra mới biết, đa số các công ty ở Việt Nam, có truyền thống chuộng lao động nước ngoài. Tự “ban hành” chính sách ưu đãi cho những người mang quốc tịch nước ngoài và gọi họ là “chuyên gia”. Chính ở trong đất nước của mình mà công dân Việt Nam còn bị coi rẻ như vậy, thì khi ra nước ngoài, còn ai coi trọng họ? Bản thân tôi cũng từng rất xấu hổ khi cầm hộ chiếu Việt Nam ra nước ngoài. Cảm giác mình bị coi thường vì là công dân của một quốc gia cộng sản dốt nát và lạc hậu. Có một nghịch lý là nếu bạn mang quốc tịch nước ngoài (kể cả những nước đang phát triển như Thái Lan, Singapore…) và đến Việt Nam làm việc, bạn sẽ được coi trọng, được trả lương cao. Tại sao chính chúng ta còn không xem trọng chúng ta? Chính phủ đang làm cái gì để công dân nước mình bị xem thường như vậy ngay trên đất nước của họ? Chẳng lẽ chính phủ Việt Nam bất tài vô dụng đến mức ấy?
Từ chuyện của Hằng
Bạn tôi kể, có lần sang Úc du lịch, gặp một cô bé quê ở Thanh Hóa tên là Hằng. Hằng tốt nghiệp Đại học Ngoại thương ở Hà Nội, sau đó xin visa sang Úc du lịch và trốn ở lại làm nail cho một tiệm của người bà con. Đến nay cũng đã gần 2 năm, Hằng sống bất hợp pháp tại Úc, luôn mong muốn tìm cách kết hôn với công dân Úc để được ở lại hợp pháp. Hằng cho biết cô luôn cảm thấy lo lắng vì sợ một ngày nào đó sẽ bị phát hiện và trục xuất về nước. Nhớ nhà, nhớ quê hương, nhưng cô cho biết sẽ vẫn ở lại Úc cho đến khi được chính thức lưu trú tại quốc gia này. Cô cho rằng ở Việt Nam sẽ chẳng bao giờ kiếm được nhiều tiền như làm nail ở Úc.
Nghe qua câu chuyện của Hằng, tự dưng thấy khó chịu hơn. Một công dân Việt Nam, tốt nghiệp một trường đại học có tiếng ở Hà Nội, sẵn sàng bỏ quê hương, bỏ gia đình, sang Úc sống cuộc sống của một người làm nail, sống chui sống nhủi. Hằng không phải là cá biệt hay thiểu số, Hằng là một đại diện cho hàng ngàn người Việt đang mong muốc trở thành công dân của Mỹ, Úc, Anh, Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc… Điều đó xuất phát từ việc mong muốn có một cuộc sống tốt đẹp hơn, sung túc hơn ở một quốc gia khác so với ở một quốc gia cộng sản Việt Nam bất công.
Đến chuyện 50 khách du lịch Việt trốn ở lại Hàn Quốc
Dù đã quen với tình trạng người Việt đi xuất khẩu lao động chui tại các nước có nền kinh tế phát triển, tôi không khỏi ngạc nhiên khi biết gần 50 khách du lịch Việt đã trốn đoàn để ở lại đảo Jeju (Hàn Quốc). Tôi bất ngờ vì số người bỏ trốn lớn quá, chứng tỏ ngày càng nhiều người liều lĩnh hơn, sẵn sàng vi phạm pháp luật để đạt được mục đích của mình. Vậy nguyên nhân vì đâu mà dân ta lại đua nhau tìm đến một xứ sở mới, không gia đình, thậm chí không có người thân thiết? Câu trả lời thật đơn giản: mưu sinh là nhu cầu tất yếu của con người. Ai trong chúng ta cũng  mong muốn có một công việc tốt hơn, một mức lương cao hơn, một cuộc sống tốt hơn hay một ước mơ đổi đời nào đấy. Thế nên, khi có cơ hội, người ta sẽ sẵn lòng bất chấp tất cả để tìm tới miền đất hứa.
Sau những cuộc chạy trốn bị phát giác, người ta lại kêu gọi siết chặt chế tài, tăng nặng các hình thức xử phạt. Nhưng một cuộc sống chui nhủi nơi xứ người với tâm trạng lấm la lấm lét thường trực khi đối mặt với nhân viên công quyền nước sở tại đã là hình phạt khắc nghiệt nhất. Tôi tin, không ai muốn có một cuộc sống như vậy trừ khi họ bị bắt buộc phải đánh đổi vì những nhu cầu bức thiết hơn.
Chính phủ hãy tự biết xấu hổ
Tôi tự hỏi, quan chức chính phủ Việt Nam có cảm thấy xấu hổ không khi chính công dân nước mình bỏ trốn khỏi đất nước? Hay họ bận lo cho túi tiền riêng của họ mà chẳng còn thời gian để mà xấu hổ? Một đất nước với hơn 90 triệu dân, đang ở thời kỳ dân số vàng, vị trí địa lý chiến lược ở vùng Đông Dương và Châu Á, tài nguyên thiên nhiên giàu có, và quan trọng là công dân thích bỏ trốn khỏi đất nước. Sao lại nghịch lý như vậy? Chính phủ Việt Nam có biết tự đặt câu hỏi như vậy không? Lẽ ra với những thuận lợi như vậy, Việt Nam phải là điểm đến ao ước của công dân các nước, chứ không phải là nơi mà công dân Việt Nam muốn rời bỏ ra đi. Các nan đề: du học sinh Việt không trở về nước, du khách Việt Nam trốn ở lại Hàn Quốc, phụ nữ Việt Nam muốn lấy chồng nước ngoài, lao động Việt Nam muốn ở lại Nhật Bản… Sao các nan đề  này không được giải quyết triệt để? Đừng đổ lỗi cho chính những công dân muốn rời bỏ đất nước mà hãy tự suy ngẫm lại, chính phủ đã làm gì để họ phải ra đi?
Lần sau, khi phải ra nước ngoài, cầm theo hộ chiếu Việt Nam, bạn đừng mặc cảm, đừng xấu hổ, bởi bạn đâu được quyền tự do lựa chọn quốc tịch của mình. Kẻ phải xấu hổ thay cho bạn, đó là chính phủ Việt Nam.
Các bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.

‘Đảng ta’ đang cố gắng ‘thoát Trung’?

Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình (trái) và Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng bắt tay tại Văn phòng Trung ương Đảng ở Hà Nội, Việt Nam.
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình (trái) và Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng bắt tay tại Văn phòng Trung ương Đảng ở Hà Nội, Việt Nam.
Một nữ ký giả quốc tế biểu lộ nỗi ngạc nhiên chân thành khi cô chứng kiến từ sau Tết nguyên đán 2016, “đảng ta” đã kỷ niệm ngày chiến tranh biên giới phía Bắc 1979 khá nhộn nhạo. Khác hẳn hình ảnh “lặn không sủi tăm” nhiều năm trước, chính nguyên thủ quốc gia Trương Tấn Sang đã đến thắp hương trên từng ngôi mộ tại Nghĩa trang Liệt sĩ Trà Lĩnh ở tỉnh Cao Bằng, gần biên giới với Trung Quốc, nơi chôn cất hơn 300 người đã hy sinh trong cuộc chiến chống lại Trung Quốc xâm lược vào năm 1979.
Đầu 2016: những dấu hiệu ‘tự diễn biến’
Cũng khác hẳn tâm trạng kém được mở miệng trước đây, vào năm nay báo chí nhà nước đã có thể can dự vào cuộc tranh luận về việc đưa các chủ đề như cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung và chiến tranh biên giới Tây Nam; đưa câu chuyện Trường Sa, Hoàng Sa vào sách giáo khoa; khơi lại những bằng chứng tội ác quá sức dã man của quân đội Trung Quốc trong cuộc chiến biên giới 1979…
Cũng đã rất lâu, Việt Nam mới tổ chức kỷ niệm ngày tổng động viên chống Trung Quốc một cách đỡ tủi hổ. Ngày 5/3/2016, trang Vnexpress tường thuật: “Ngày 5/3/1979, trong tình thế cấp bách chống lại hơn nửa triệu quân Trung Quốc xâm lược biên giới phía Bắc, Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng đã ra lệnh tổng động viên toàn quân, toàn dân kháng chiến”. Tờ báo này cũng dẫn lại bài xã luận trên báo Nhân Dân ra ngày 5/3/1979 đầy thống thiết "Lời kêu gọi của trung ương là lời hịch quyết chiến quyết thắng của tổ quốc. Tất cả con em đất nước Việt Nam đang đi vào cuộc chiến đấu mới: cả nước đánh giặc, toàn dân là lính"… 50 triệu người Việt Nam khi ấy đã chuẩn bị sẵn sàng cho tình thế chuyển từ thời bình sang thời chiến”.
Còn báo Tuổi Trẻ đăng lại bản tin phát thanh đặc biệt sáng 5/3/1979 của Đài tiếng nói Việt Nam "kêu gọi cả nước chống Trung Quốc", trong đó hừng hực: "Hỡi đồng bào và chiến sĩ yêu quý! Quân thù đang giày xéo non sông, đất nước ta. Độc lập, tự do, chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta đang bị xâm phạm. Hòa bình và ổn định ở Đông Nam châu Á đang bị đe dọa. Dân tộc Việt Nam ta phải ra sức chiến đấu để tự vệ... Toàn thể đồng bào các dân tộc anh em trong cả nước, các tôn giáo, các đảng phái, già, trẻ, gái, trai hãy phát huy truyền thống Diên Hồng, triệu người như một, nhất tề đứng lên bảo vệ tổ quốc".
Rõ ràng là đang có một sự “chuyển hóa tư tưởng” về phản ứng với Bắc Kinh, tối thiểu cũng là trên mặt trận truyền thông Việt Nam. Nhưng ai cũng thừa hiểu rằng sẽ chẳng có truyền thông nào nếu từ những cấp cao hơn hẳn không “tự diễn biến”.
Một dấu hiệu khác xảy ra đồng thời, nhưng từ góc độ tranh đấu cho dân chủ hóa,  là một cuộc tập hợp tưởng niệm 74 quân nhân Việt Nam Cộng Hòa hy sinh để bảo vệ Hoàng Sa ngày 19/1, cùng cuộc tưởng niệm 6 vạn quân nhân và dân thường Việt hy sinh trong cuộc chiến tranh biên giới 1979 ngày 17/2 - được giới dân chủ và nhân quyền tổ chức ở Hà Nội - đã hầu như không bị chính quyền ngăn cản và chơi xấu như thói thường trước đây.
Tuy nhiên, dấu hiệu trên chưa có tính nhất quán cao. Ở Sài Gòn, tình hình diễn biến ngược lại. Chính quyền địa phương này vẫn tiếp tục đàn áp thậm tệ những người biểu tình chống Trung Quốc. Một trong những biểu hiện “Vì dân và hành động” đầu tiên của tân Bí thư thành ủy Đinh La Thăng là để mặc cho những vòng hoa tưởng niệm liệt sĩ bị Công an TP HCM xông vào xé nát.
Tín hiệu ‘giao lưu hải quân’
Tín hiệu quân sự bắt đầu hiển lộ hơn. Ngày 18/2/2016 - trùng với thời điểm một tàu cá của ngư dân Quảng Bình bị “tàu lạ” thả neo làm chìm khiến 3 ngư dân mất tích gần đảo Hải Nam, Trung Quốc, cuộc diễn tập quân sự chung giữa Nhật Bản và hải quân Việt Nam đã kết thúc tại Đà Nẵng.
Nhưng truyền thông đảng đã không hoàn thành nhiệm vụ. Hoàn toàn chẳng có một thông tin công khai nào từ báo giới nhà nước hoặc Bộ Ngoại giao Việt Nam. Tin tức về cuộc tập trận chung trên chỉ được phát ra bởi Hãng tinKyodo của Nhật Bản. Hãng tin này cho biết Lực lượng phòng vệ biển Nhật Bản (MSDF) và hải quân Việt Nam đã có đợt tập dượt chung ba ngày từ 16 - 18/2 ngoài khơi Đà Nẵng. Cuộc tập trận này diễn ra trong bối cảnh Trung Quốc đã triển khai tên lửa đất đối không trên đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa mà Việt Nam cũng tuyên bố chủ quyền.
Theo Kyodo, “Một đội của MSDF với hai máy bay tuần tra P-3C đã tham gia hoạt động với mục đích tăng cường hợp tác quốc phòng song phương và kiềm chế Trung Quốc trong bối cảnh tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông”.
Cần lưu ý là ít ngày trước khi diễn ra cuộc tập trên, đã xuất hiện thông tin Việt Nam làm “quan sát viên” trong một cuộc tập trận có tên là Hổ Mang Vàng của Mỹ và các nước đồng minh. Hiện tượng này được coi là hiếm thấy.
Với việc tham dự cuộc tập trận chung với Nhật Bản và lại tập trận ngay tại vùng biển Đà Nẵng chứ không phải một nơi nào đó xa xôi trong Thái Bình Dương, phía Việt Nam có vẻ đã nhích một chút dạn dĩ hơn về phương Tây thông qua cầu nối là khối quân sự Đông Bắc Á - gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, Philippines…
Từ đầu năm 2016 đến nay, đã diễn ra hàng loạt dấu hiệu cho thấy Việt Nam đang buộc phải ngả hơn về Hoa Kỳ, trong lúc xa rời hơn quỹ đạo Bắc Kinh. Trước sự kiện một tàu quân sự Mỹ áp sát đảo Tri Tôn thuộc quần đảo Hoàng Sa và bị phía Trung Quốc lên án dữ dội, phía Việt Nam đã lần đầu tiên tỏ ra “can đảm” khi tuyên bố sự kiện này là “đi qua vô hại”.
Cũng rõ là sức ép và mối đe dọa của Trung Quốc kể từ sau vụ giàn khoan Hải Dương 981, cho đến trước Đại hội XII của đảng cầm quyền, đã khiến giới chóp bu Việt Nam phải tự lựa chọn một lối thoát cho mình, thay vì thói đu dây dễ té lộn đầu trước đó.
Bắt đầu ‘thoát Trung’?
Vào đầu tháng 3/2016, đài RFI Việt ngữ bắt đầu bình luận “Biển Đông: Giải mã phản ứng cứng rắn của Việt Nam chống Trung Quốc”. Carlyle Thayer, một giáo sư thuộc Học viện quốc phòng Úc và là người am hiểu về tình hình chính trường Việt Nam, được chọn là nhân vật trả lời phỏng vấn của RFI. Giáo sư Carlyle Thayer đã nêu một góc nhìn đáng chú ý: ông cho rằng đã có “đồng thuận” trong giới lãnh đạo mới tại Việt Nam là cần phải quyết đoán hơn trong đối sách với Trung Quốc.
Nhận định của giáo sư Carlyle Thayer có thể là hợp lý. Không phải ngẫu nhiên mà phía Việt Nam tỏ ra quá nhu nhược trong ít nhất 4 năm qua, kể từ khi tàu Trung Quốc cắt cáp tàu Bình Minh của Việt Nam vào cuối năm 2011, và kể cả sau vụ giàn khoan Hải Dương 981 năm 2014, mà phải đến sau khi kết thúc Dại hội XII của đảng Cộng Sản, giới lãnh đạo Việt Nam mới dường như “mở miệng”.
Nếu trước Đại hội XII, dân gian Việt Nam phải nói quá nhiều về thực trạng “cung Vua, phủ Chúa”, mà tiêu biểu là tình trạng phân hóa ở mức độ cao giữa khâu định hướng, chỉ đạo của bên đảng và thực quyền có muốn thực thi hay không của bên chính phủ, thì nay mọi sự có vẻ “đồng thuận” hơn khá nhiều. Hai bộ quan trọng nhất về quan hệ quốc tế và bảo vệ đất nước là Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng hiện thời đều chịu sự chỉ đạo tập trung của Tổng Bí thư tái cử kiêm Bí thư Quân ủy Trung ương Nguyễn Phú Trọng. 
Mặc dù vẫn còn khá nhiều điều tiếng về việc Tổng Bí thư Trọng chịu sự chi phối  mạnh mẽ của phía Trung Quốc, nhưng từ chuyến công du Washington của ông Trọng đến thổ lộ “cần Mỹ hiện diện nhiều hơn nữa ở Biển Đông” của cấp dưới ông Trọng là Thủ tướng Dũng, đã cho thấy Việt Nam bắt đầu bộc lộ thái độ bớt đu dây hơn trong quan hệ với Hoa Kỳ và Trung Quốc.
Một dấu hiệu khác, tuy mang tính nội chính nhưng lại liên quan đến đối ngoại - là Luật Biểu tình. Sau Tết nguyên đán 2016, lần đầu tiên ông Nguyễn Sinh Hùng, Chủ tịch Quốc hội, tỏ ra dứt khoát một cách đáng ngạc nhiên trong việc yêu cầu chính phủ trình dự thảo Luật Biểu tình ra Quốc hội, tạm thời chấm dứt thời kỳ “gật” của Ủy ban thường vụ Quốc hội trước nhiều văn bản “trảm trước tấu sau” của các cơ quan bên chính phủ.
Luật Biểu tình lại liên đới mật thiết với hoạt động biểu tình phản đối Trung Quốc. Có thể trong chủ trương mang hơi hướng “thoát Trung”, đảng và chính quyền đã bớt “sợ” khi bắt đầu nghĩ ngợi về một phong trào biểu tình chống Trung Quốc được khởi xướng bởi các tổ chức xã hội dân sự chứ không phải từ các hội đoàn nhà nước.    
Những dấu hiệu trên có thể có đôi chút triển vọng cho dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam. Đã đến lúc nhà cầm quyền Việt Nam phải nhận ra, dù mới ở mức tối thiểu, những giá trị của lẽ phải trong công cuộc thoát Trung trong vài ba chục năm tới.
* Blog của Phạm Chí Dũng là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.

Ghế trống nhưng quá đầy

Hội nghị Biển Đông lần 2 dành 1 ghế trống để tưởng nhớ Giáo Sư Nguyễn Ngọc Bích, diễn giả của hội nghị qua đời khi trên đường đến tham dự. (Hình: Châu Văn Thi/Người Việt)

Nguyễn Việt Nữ (Danlambao) - Chuyện “Chiếc ghế trống nhưng quá đầy” là chuyện thật cảm động xảy ra ngày 4 tháng 3 năm 2016 tại cuộc Hội thảo Biển Đông và Họp Mặt Dân Chủ lần thứ II ở Manila, Philippines. Càng nghe càng thấy “đầy”!

Cuộc hội thảo gồm khoảng hai mươi nhân vật có trái tim sôi sục tình yêu nước vì độ nóng bỏng của ý đồ chiếm lĩnh Biển Đông của Trung Cộng; như nữ Luật sư trẻ Kiều Trần Như từ Úc Châu tới, hay như người bản xứ Philippines là Roilo Golez v.v...

Ông Roilo Golez, cựu-Cố-vấn An-ninh Quốc gia của Tổng-thống Phi Luật Tân, cựu Thượng Nghị Sĩ Philippines đã trình bày tài liệu phân tích về sự mở mang mới nhất của Trung Quốc ở vùng Việt Nam quen gọi là Biển Đông, còn Philippines gọi là biển Tây.

Ông Roilo Golez cho rằng cần có thêm nhiều cuộc biểu tình chống Trung Quốc và nhiều những cuộc hội thảo như thế này nhằm giáo dục người dân về mối nguy cơ của Trung Quốc ở Biển Đông.

Tuyên bố chung Việt-Phi

Kết thúc hội nghị, 4 nhóm Xã Hội Dân Sự của Việt Nam và Philippines cùng đồng ý ký tên vào tuyên bố chung Việt-Phi trong đó nêu rõ: “Các tổ chức Xã Hội Dân Sự cần phải có một tiếng nói độc lập… Chúng ta không muốn nói những gì chính quyền nói, chúng ta sẽ có tiếng nói riêng của mình….”

Luật Sư Trịnh Hội, giám đốc điều hành của tổ chức VOICE cho biết hội nghị đã đồng ý 2 điều chính đó là: “Những người tham gia đồng ý sẽ tiếp tục vận động những tổ chức XHDS ở Philippines và Việt Nam cùng hợp tác để tiếp tục ủng hộ Philippines kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế. Cùng đồng ý sẽ phải thúc đẩy chính phủ Việt Nam thực hiện điều tương tự là kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế.”

Tóm lại: “trước những hành động quân sự hóa của Trung Quốc trên Biển Đông trong thời gian vừa qua nhằm khẳng định chủ quyền của họ, tạo ra sự đã rồi, để mà họ tìm một thế thượng phong nếu như họ không còn đường thối lui mà bắt buộc phải ra tòa.”

Tuyên bố chung Việt-Phi ký bởi 4 tổ chức XHDS cho biết những việc cần làm; tức hội nghị ngày 4 tháng 3 với nội dung vô cùng quan trọng cho hai dân tộc Việt Nam và Phi Luật Tân.

Vậy mà trước khi bắt đầu hội nghị quan trọng đó, mọi người cùng dành một phút mặc niệm để Tưởng nhớ Giáo Sư Nguyễn Ngọc Bích.

Đồng thời hội nghị để trống 1 ghế đề tên ông như có sự hiện diện của ông trong cuộc hội thảo lần này!

Vì theo dự định, ngày 4 tháng 3, 2016 Giáo Sư Nguyễn Ngọc Bích sẽ có bài tham luận bàn về quan hệ Việt-Trung và ông cho rằng mối quan hệ 2 nước đang ở “một khúc quanh phức tạp.”

Do đó, sau đây chúng tôi xin trình bày thêm tại sao

“Ghế trống nhưng quá đầy”?

Đầy là đầy “Sửng sốt, đau buồn, thương tiếc” cho rất nhiều người.

Vì chỉ một ngày trước hội nghị, (9 giờ tối 2 Tháng 3 giờ miền đông Hoa Kỳ, tức ngày 3 Tháng 3 ở Phi), khi đang trên máy bay từ Hoa Thịnh Đốn, Mỹ quốc đến thủ đô Manila, Philippines để tham dự hội nghị; Giáo Sư Bích đã đột ngột từ trần vì bị nhồi máu cơ tim!

Ảnh Trịnh Hội/BBC

Tiến sĩ Đào Thị Hợi cùng đi với phu quân Ngọc Bích, liền dùng điện thoại trên máy bay gọi về Mỹ báo tin buồn cho bào huynh Nguyễn Ngọc Linh rằng vào lúc 9 giờ tối 2 Tháng Ba (giờ miền đông Hoa Kỳ), Giáo sư Bích vào phòng vệ sinh trên máy bay, khi về lại chỗ ngồi thì lên cơn mệt và mất ngay tại ghế ngồi.

Luật sư Trịnh Hội, Giám đốc Tổ chức VOICE trụ sở tại Manila cũng đã biết tin này, đồng thời có mặt tại phi trường Manila để đón thi hài Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích.

Ông Nguyễn Ngọc Linh từ Hoa Kỳ cũng đã nói chuyện cùng luật sư Trịnh Hội tại Manila; luật sư Hội cho biết cơ quan hữu trách của Manila đã thực hiện giải phẫu tử thi, đã cấp giấy chứng tử, và hiện gia đình đang liên lạc với tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Manila để hoàn tất thủ tục mang thi hài Giáo Sư Bích về lại Hoa Kỳ.

Giáo Sư Nguyễn Ngọc Linh nói thủ tục, nếu nhanh, là từ 3 đến 5 ngày; chậm cũng đến 10 ngày. Một khi hoàn tất mọi thủ tục, luật sư Trịnh Hội sẽ tháp tùng bà Đào Thị Hợi để đưa thi hài giáo sư Bích về lại Hoa Kỳ.

Theo tin mới nhất: Thi hài giáo sư Nguyễn Ngọc Bích đã về đến DC ngày thứ Ba March 08, lúc 3:45 PM.

Vậy khi quí vị đọc bài nầy thì hiền thê Đào Thị Hợi cùng hiền phu Nguyễn Ngọc Bích đã vượt chặng đường bay ngót nửa vòng trái đất để về lại quê hương thứ hai là Hoa Kỳ như từ trên 40 năm nay!!!

***

Nếu biết tầm quan trọng của chiếc ghế trống tưởng niệm “Doctor Nguyen Ngoc Bich” ở Hội-Nghị Việt-Phi kỳ II năm 2016 thì cũng nên tóm lược Hội-Nghị Về Biển Đông kỳ đầu vào năm 2015, cũng tháng 3, để thấy rõ chiếc ghế trống ấy chở đầy tình yêu nước Việt Nam chống ngoại xâm Trung Cộng như thế nào? Mở đường cho những Tổ-chức người Mỹ gốc Phi Luật Tân và người Mỹ gốc Việt tranh đấu chống giặc cướp ra sao?

Hội-Nghị Việt-Phi Về Biển Đông năm 2015

Một hội-nghị về Biển Đông rất đặc-sắc đã diễn ra ở Manila, Phi Luật Tân, vào ngày 27 tháng 3, 2015. Dùng chữ “đặc-sắc” là vì, đây không phải là một hội-nghị bình-thường như các chính-phủ đã đỡ đầu khá nhiều ở một số quốc gia như Việt-Nam hay Mỹ trong thời-gian qua về các cuộc tranh chấp ở Biển Đông. Đây là lần đầu tiên có một nỗ lực ở mức quốc-tế mà lại do các xã-hội dân-sự VN và Phi Luật Tân mời họp để bàn về một đề-tài nóng bỏng liên-quan đến tương-lai trước mắt của hai nước trước những bước xâm-lược ngày càng lộ liễu của Trung-Cộng.

Là một sáng-kiến của Họp Mặt Dân Chủ và VOICE về phía VN, (GĐ VOICE là LS Trịnh Hội đứng trong hình)- hội nghị về Biển Đông ở Manila đã không thể diễn ra được nếu không có sự tiếp tay sốt sắng của các tổ-chức dân-sự Phi như U.S. Pinoys for Good Governance (Tổ-chức Người Mỹ gốc Phi Luật Tân tranh đấu cho một Chính-quyền Tốt đẹp), DI KA Pasisiil Movement (Phong Trào Yêu Nước Phi), và Institute for Maritime Affairs and Law of the Sea (Viện nghiên cứu các vấn-đề Biển và Luật Biển) thuộc Viện Đại Học University of the Philippines. Chính bởi có sự hưởng-ứng tốt của phía Phi Luật Tân mà hội-nghị đã được tổ-chức ngay tại Trung-tâm Bernas của Trường Luật Ateneo de Manila, nằm trong khu Rockwell thuộc Makati City, Manila.

Luật sư Trịnh Hội, Giám đốc Tổ chức VOICE mở đầu

Tổ chức VOICE có trụ sở tại Manila nên rất thành thạo, mời những nhân vật Phi Luật Tân nào có tiếng nói giá trị để thuyết phục thế giới ủng hộ mình về chuyện Biển Đông.

Nên mở đầu hội-nghị và chào mừng quan-khách là Luật-sư Trịnh Hội,Giám đốc Tổ chức VOICE, ông giới-thiệu hai đại diện Ban Tổ-chức về phía VN và Phi: G.S. Nguyễn Ngọc Bích, nhân danh Họp Mặt Dân Chủ đến tử Mỹ, và ông Roilo Golez, cựu-Cố-vấn An-ninh Quốc gia của Tổng-thống Phi Luật Tân và đã từng là một dân-biểu ở Quốc-hội Phi trong sáu nhiệm-kỳ.

Rõ ràng, chiếc ghế trống mà đầy vì G.S. Nguyễn Ngọc Bích là Ban Tổ-chức về phía Người Mỹ gốc Việt Nam.

Rồi nghe thêm tài liệu của Dàn diễn-giả Phi, diễn-giả VN, nhất là Dàn diễn-giả quốc tế với những tên tuổi uy tín khắp thế giới, ta càng thấy chiếc ghế trống càng đầy và rất đầy.

Đơn cử như Phần trình bầy của ba diễn-giả Phi Luật Tân được điều hợp bởi Tiến-sĩ Jeremy Barns, giám-đốc Bảo-tàng-viện Quốc gia Phi Luật Tân gồm ba ông bà diễn-giả phụ trách phần mình của phía Phi Luật Tân: 

- Chính ông Roilo Golez (cựu-Cố-vấn An-ninh Quốc gia của Tổng-thống Phi Luật Tân và đã từng là một dân-biểu ở Quốc-hội Phi trong sáu nhiệm-kỳ như đã giới thiệu) mở màn với một bài diễn-thuyết đầy ắp dữ-kiện, đi kèm theo là những hình ảnh chứng minh sự xâm lấn của Trung-Cộng vào các vùng biển của Phi như bãi cạn Scarborough hay bãi san-hô Mischief chưa kể những sự xây cất của Trung-Cộng trên những đảo hay đá, bãi ngầm bãi cạn ở Trường-sa đe doạ an-ninh trong toàn vùng. 

- Tiến-sĩ Jay Batongbacal trình bầy nội-dung về vụ kiện của Phi Luật Tân đưa Trung-Cộng ra Toà Trọng-tài ở The Hague, Hoà Lan, và những kết-quả mà ta có thể mong chờ được từ vụ kiện đó. 

- Cuối cùng là bà Tiến-sĩ Celia B. Lamkin nói về những cuộc vận-động của người Mỹ gốc Phi Luật Tân trong những năm qua nhằm chuyển đổi chính-sách của Hoa-kỳ về Biển Đông, nhất là đối với an-ninh quốc-phòng của Phi Luật Tân. 

Tưởng cũng nên nhắc, một số cuộc vận-động bên cạnh Quốc-hội Hoa-kỳ và biểu tình của người Mỹ gốc Phi ở Washington DC, Los Angeles, San Francisco, Houston v.v... cũng đã có sự tham-dự của người Mỹ gốc Việt.

Phần Việt Nam do G.S Đặng Đình Khiết, đến từ Virginia, Mỹ điều hợp

- Người chính được giao trọng-trách trình bầy quan-điểm của phía Việt Nam là G.S. Nguyễn Ngọc Bích, cũng đến từ Mỹ. Ông nêu ra những bằng-chứng chủ-quyền lịch-sử không thể chối cãi được của VN từ thế-kỷ 17, rồi đến các hiệp-định quốc-tế (San Francisco 1951, Genève 1954, Paris 1973 và Định-ước Quốc-tế năm 1973) khẳng-định chủ-quyền của VNCH trên hai quần-đảo Hoàng Trường-sa, một điều tự nó phủ-nhận công-hàm Phạm Văn Đồng năm 1958, rồi đề ra mấy hướng giải-quyết hoà-bình những tranh chấp ở Biển Đông. 

- Tiến-sĩ Trần Huy Bích, đến từ California, đưa ra làm chứng mấy bản-đồ của Trung-quốc có từ dưới thời nhà Minh và nhà Thanh để cho thấy là điểm cực-Nam của Trung-quốc không hề đi xa quá đảo Hải-nam. Vào giờ ăn trưa, còn có chiếu dương-ảnh một số bản-đồ rất phong phú cửa VN và Trung-quốc do học-giả Nguyễn Đình Đầu ở Sài-Gòn thu thập được và chứng minh cho thấy chủ-quyền VN thật rõ ràng.

Dàn diễn-giả quốc-tế do G.S. Đoàn Viết Hoạt điều hợp

Tiến sĩ Carlyle Thayer

Các diễn-giả quốc-tế mà tên tuổi có thể nói là thế giới ai cũng nhận ra một cách dễ dàng. Tất cả đều trình bày tài liệu dày công nghiên cứu khiến Trung quốc khó dành được chủ quyền trên các đảo ở Biển Đông nếu không bị thế giới buộc tội cố tình “lấn lướt” các nước nhỏ. Như:

- G.S. Carlyle Thayer, chẳng hạn, đến từ Úc nơi ông đã dạy ở Trường Quốc Phòng Úc (Australian Defense University). Ông đã trình bầy là cả quan-điểm của Mỹ lẫn của Úc, do không muốn bênh bên nào trong các quốc gia có tranh chấp nên thành ra cũng như “chấp nhận” sự lấn lướt của Trung Cộng ở Biển Đông (“acquiescing to China’s assertiveness in the South China Sea”). Một nhận-định khá sâu sắc và đáng để cho chúng ta suy gẫm.

- Tiến-sĩ Ota Fumio, một cựu phó-đề-đốc Nhật-bản, đã có một bài trình bầy thật sâu sắc (theo sự đánh giá của một tham-dự-viên) vì ông là người độc-nhất trong các diễn-giả đã nối kết được các mưu-đồ của Trung-Cộng ở Biển Đông với những quan-niệm chiến-lược chiến-thuật của Tôn Tử mà chính ông đã có dịp quan-sát khi sang thăm các viện nghiên cứu chiến-lược và quốc-phòng bên lục-địa Trung-hoa. Tóm lại, một bài viết với chiều sâu tư tưởng của phương Đông!

- Bà Tiến-sĩ Sophie Boisseau du Rocher thuộc Viện nghiên cứu quan-hệ quốc-tế của Pháp (Institut français des Relations internationales) nên đủ kiến thức để trình bầy quan-điểm của Liên-hiệp Âu-châu. Bà cho biết Âu-châu có nhiều quan-tâm về vấn-đề hàng hải tự do cũng như chiến-lược và thương mại ở Biển Đông, tuy-nhiên Âu-châu không muốn trông thấy bất ổn nơi đây hay tranh chấp đi đến chiến-tranh. Theo bà thì Âu-châu chỉ là một đệ-tam-nhân đáng tin cậy, nhất là nếu ta cần đến họ trong việc mưu tìm các giải-pháp hoà-bình.

- Ông François Xavier Bonnet, nghiên cứu gia người Pháp đang làm việc ở IRASEC (Institut de recherche sur l’Asie du Sud-est contemporaine), Bangkok, Thái-lan. Ông chỉ có một bài thuyết-trình ngắn nhưng nói về một sự-kiện ít ai biết do công nghiên cứu. Đó là, tất cả những phiến đá có mốc thời-gian 1902, 1912 và 1921 mà Trung-quốc và Trung-Cộng thường nêu ra như những bằng-chứng chủ-quyền của họ ở Hoàng Trường-sa đều là những đồ giả, đồ rởm: bởi ông đã tìm được ra cuộc tranh cãi ở ngay Trung-quốc về chuyện này khi có nguồn tin cho biết tất cả những phiến đá có mốc thời-gian đó đều chỉ được đưa ra các đảo vào năm 1937.

- Không có mặt nhưng cũng có bài tham-luận gởi từ Luân-đôn là ông Bill Hayton, tác-giả một cuốn sách nổi tiếng nhất về vấn-đề tranh chấp Biển Đông (cuốn The South China Sea: The Struggle for Power in Asia), theo đó các chấp-thuyết về chủ-quyền lịch-sử do phía Trung-quốc đưa ra không có giá trị. Vì sao? Vì ông chứng minh được phần lớn các tên Trung-quốc cho các đảo ở Trường-sa lả dịch thẳng từ tiếng Anh, như vậy người Trung-quốc chỉ biết về các đảo đó từ sau khi người Âu-châu đã đến và đặt tên cho các đảo đó.

Tóm lại, các quan-điểm quốc-tế tại hội-nghị Manila năm 2015 còn nhiều hình ảnh và tài liệu giá trị của những nhân vật quốc tế, đều đã ủng-hộ và củng-cố cho lập-trường của Việt-Nam và Phi Luật Tân trong cuộc tranh chấp trên Biển Đông với Trung-Cộng.

Hội-nghị Biển Đông ở Manila năm 2015 đưa ra Thông-cáo chung(Joint Statement) gồm năm điểm. Xin chỉ nhắc lại điểm chót:

“Và cuối cùng là ủng-hộ việc thiết-lập một Ban Công-tác Hỗn-hợp của các Xã-hội dân-sự Phi Luật Tân và Việt Nam nhằm thúc đẩy những giải-pháp đã được bàn tới ở Hội-nghị Manila này cũng như tổ-chức những sinh-hoạt tương-tự trong các năm kế tiếp. Chủ-yếu là để cho phép người dân được học hỏi thêm về các vấn-đề Biển Đông cũng như có tiếng nói của mình (tỷ như của các ngư-dân VN) trong tiến-trình bàn thảo về Biển Đông.”

Vậy rõ ràng Hội thảo Biển Đông và Họp Mặt Dân Chủ lần thứ II ở Manila, Philippines ngày 4 tháng 3 năm 2016 nhằm thúc đẩy những giải-pháp đã được bàn tới ở Hội-nghị Manila 2015 mà GS Nguyễn Ngọc Bích có tên trong ban tổ chức nên Hội thảo lần thứ II dành một ghế trống để tưởng niệm GS Nguyễn Ngọc Bích.

Trên là bằng chứng những “trống mà đầy” rất quan trọng để giữ biển, đão Việt Nam khỏi vào tay giặc, dập tắt ngòi lửa chiến tranh trong hiện tại.

Quá khứ cũng đầy

Bây giờ thử nhìn lại quá khứ, GS Nguyễn Ngọc Bích cũng quá đầy với màu Cờ Vàng và dân tộc Việt Nam:

Nếu ai chưa đọc, xin đọc lại tiểu sử để có câu hỏi tiếp:

“Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích sinh 1937 tại Hà Nội. Lúc còn nhỏ, ông học tiểu học ở Vĩnh Yên, sau đó vào trung học ở Chasseloup Laubat, Saigon.

Bào huynh là Giáo sư Nguyễn Ngọc Linh cho biết Giáo sư Bích du học Hoa Kỳ năm 1954 theo chương trình học-bổng Fulbright, học Đại học Princeton và tốt nghiệp ngành Chính trị học năm 1958. Sau đó, ông tiếp tục theo học môn Á Đông học, Văn học cổ điển Nhật tại Columbia University, New York và có thời gian sang Nhật bằng học bổng President's Fellowship để thu thập tài liệu cho luận án cao học. Ngoài ra, ông theo đuổi một số khóa học ngắn ở Đại học Vienna và Munich (tiếng Đức), Madrid (tiếng Y-pha-nho), USDA Graduate School (tiếng Trung và tiếng Nga).

Sau nhiều năm sống, học và làm việc ở ngoại quốc, giáo sư Nguyễn Ngọc Bích về nước năm 1972, cùng với hiền thê là Tiến sĩ Đào Thị Hợi thành lập Viện Đại Học Cửu Long ở Sài Gòn, đồng thời giữ chức Cục trưởng Cục Thông Tin Quốc Ngoại của Bộ dân Vận Chiêu Hồi do ông Hoàng Đức Nhã làm Tổng trưởng. Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích cũng là Tổng Giám Đốc sau cùng của Việt Tấn Xã.

Khi cộng sản chiếm miền Nam Tháng Tư năm 1975, Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích rời quê nhà sang Hoa Kỳ sống tại Virginia cho tới khi ông vĩnh viễn ra đi.”(Ngưng trích)

Hẳn không ai ngờ, ngay từ giờ phút nầy, 8 tháng 3 năm 2016, đôi uyên ương Đào Thị Hợi và Nguyễn Ngọc Bích vẫn sánh vai nhau bay về Hoa Kỳ từ Manila, nơi có Chiếc ghế trống tưởng niệm, và sắp về lại Virginia như đôi chim liền cánh bên nhau từ nửa thế kỷ qua.

Nhưng câu hỏi là: đôi uyên ương Đào Thị Hợi và Nguyễn Ngọc Bích đã làm gì ở Virginia từ khi rời thủ đô Sài Gòn?

Đáp: Tháng Tư Đen năm 1975 khi Cộng sản chiếm Sài Gòn, hạ Cờ Vàng của VNCH, Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích tị nạn ở Mỹ đã không hề ngơi nghỉ, lập tức hoạt động để năm 1976 vươn cao lại ngọn cờ Vàng tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn.

Chuyện Cờ Vàng VNCH được vươn cao tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn

Còn nhớ trên Dân Làm Báo, trong bài “Phản chiến Mỹ Joan Baez viết về ngày 30 tháng 4,1975”, chúng tôi ôn lại việc gặp Joan Baez tìm đến hoang đảo tị nạn Air Raya, Indonesia để biết tại sao “Hòa Bình” rồi mà còn liều chết vượt biên? Rồi hảnh diện kể chuyện vươn cao Cờ Vàng cao tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn, có công nhiều người, trong đó có Nguyễn Ngọc Bích. Vắn tắt rằng:

“Ca sĩ Joan Baez ôm hết chồng thơ từ các trại tị nạn về Hoa Thịnh Đốn, khiếu nại với Tổng thống Mỹ lúc ấy là Jimmy Carter, rồi kéo đệ nhất phu nhân đi Thái Lan thăm người vượt biển. Bà cùng nhiều đoàn thể khác nữa như Đại Đức Thích Giác Đức cùng Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, Ngô Vương Toại –nguyên là sinh viên rất chống Cộng thời VNCH--kêu gào Jimmy Carter phải nhận cho người tị nạn Đông Dương vào Mỹ.”(Ngưng trích)

Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích đọc trên Dân Làm Báo, gọi Việt Nữ cám ơn và cho biết còn nhiều chi tiết về hai chữ Việt-Nam và Cờ Vàng lắm. GS Bích gián tiếp bổ túc những gì trong sách chúng tôi viết về “CS đàn áp Phật giáo” ở Việt Nam khiến 12 tu-sĩ và cư-sĩ Phật-giáo ở Dược-sư Thiền-viện (Cần-thơ, tháng 12/1976)- thì ở Mỹ, cũng năm 1976, Hội Nhân-quyền yểm-trợ cho Thượng-tọa Thích Giác Đức lên New York ngồi tuyệt thực trước trụ-sở Liên-hiệp-quốc sau vụ tự-thiêu của 12 tu-sĩ và cư-sĩ Phật-giáo đó - hình của Thượng Tọa tuyệt thực còn được đăng cả lên báo New York Times.

Nào là Thượng Tọa Thích Giác Đức cùng chúng tôi lo dựng Chùa Việt-Nam vùng Hoa-thịnh-đốn sau mới đổi tên là Chùa Giác Hoàng, Giác Đức, Vương Toại, nhiều người nữa, cùng lên tiếng cho những người trong các trại tập trung cải tạo; lo phục vụ Trung Tâm Định-Cư Kiều bào ngay từ năm 1976. v.v

Khi nhà văn tranh đấu Ngô Vương Toại tạ thế ngày 03 tháng 04 năm 2014 tại Nhà thương Fairfax, Virginia. Nhiều người thương tiếc viết về thành tích hoạt động từ trước và sau năm 1975 ở hải ngoại của người quá cố, trong đó có Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích với bài “Toại ơi” và chính chúng tôi cũng được tác giả gởi cho một bản.

Đọc xong, chúng tôi mới thấy sự vắn tắt của mình trên DLB sai, như Đại Đức Thích Giác Đức, phải là Thượng Tọa Thích Giác Đức mới đúng. Nhưng không quan trọng bằng sự thiếu sót nhất là chuyện hồi sinh lại màu Cờ Vàng mà CS tưởng là đã giết chết; chuyện lập Chùa, làm báo về Trung Thu, báo Tết, mà chuyện nào cũng có tên Việt Nam hay Lửa Việt ngay năm đầu 1976 sống lưu vong.

Đặc biệt do người trong cuộc viết lại: Giáo Sư Nguyễn Ngọc Bích, (nguyên Giám Đốc Đài Á Châu Tự Do (Radio Free Asia=RFA) rất thân cận với gia đình ông Ngô Vương Toại.

Tưởng đây cũng là một lịch sử dựng lại Cờ Vàng Quốc Gia và nền văn hóa Việt Nam đầu tiên cần nhắc lại, vì tác giả viết với tinh thần rất “Hòa đồng tôn giáo”. Nhất là nhân đây để tưởng niệm ngày về Virginia để an giấc nghìn thu của Cư sỹ Tâm Viên Nguyễn Ngọc Bích.

Sống gần thủ đô nước Mỹ và lăn xả vào công việc cộng-đồng

Trích “Toại ơi!” của Nguyễn Ngọc Bích.

“Sang Mỹ, gia-đình Toại, cũng như gia-đình tôi, dọn về Virginia để ở gần thủ-đô nước Mỹ. Bởi chúng tôi là những người năng động nên không ai bảo ai, cả hai chúng tôi đều dọn về nơi mà như người Mỹ nói, "where the action is," nơi mọi sự xảy ra, nơi mà không ít người coi là thủ-phủ của thế-giới. Về đây, chúng tôi lăn xả vào công việc.

Tôi về đầu quân vào Trung-tâm Định-cư Kiều-bào (National Center for Vietnamese Resettlement) trên đường "H" mà ông anh tôi, Nguyễn Ngọc Linh, dựng ra với một hai người bạn Mỹ. Trung-tâm mở ra vào tháng 7/1975 thì tháng 9, cá-nhân tôi đã được giao ngay việc ra báo tiếng Anh và tiếng Việt. Báo tiếng Anh mang tên Vietnam Center Bulletin số đầu có chủ-đề là "Tết Trung-thu." Bản tiếng Việt tiếp theo ngay sau đó mang tên Lửa Việt, một bản tin còn khiêm tốn, chưa đầy 30 trang mỗi số.

Nhưng cuối năm ấy, chúng tôi đã (..) ra được một số báo Tết Binh Thìn của Lửa Việt, quy tụ nhiều cây bút nổi tiếng vào lúc bấy giờ (….) hiển-nhiên, không thể thiếu Ngô Vương Toại. Số báo này, có lẽ là số báo Tết đầu tiên của người Việt trên đất Mỹ (ra tháng 1 năm 1976), giờ đây đã thành một "collection item," một tập báo quý mà người ta tìm cách sưu-tập. 

Lăn xả vào sinh-hoạt cộng-đồng

Anh em có nhau, chúng tôi tham-gia đủ thứ. Trước hết là chuyện dựng lại cờ vàng, trước cả khi có phong trào cờ vàng của nhiều năm sau. Như 30 tháng Tư đầu tiên trên đất Mỹ, 30/4/1976, mấy anh em chúng tôi, Lê Văn Khoa, Phó Hồng Hà, Ngô Vương Toại, Nguyễn Ngọc Bích v.v. dựng bàn thờ tưởng-niệm các chiến-sĩ chết cho lý-tưởng tự do và các đồng-bào bị hy-sinh trên đường tìm tự do. 

Chúng tôi không đông, có lẽ không quá 50 người nhưng bàn thờ, quay lưng vào Tòa Bạch Ốc và hướng về đường 16 thẳng tắp trước mặt, có cờ vàng ba sọc đỏ tung bay trước gió, thật là một hình ảnh ngạo nghễ. Cùng lúc, dưới đất là những hình nón cờ vàng làm bằng giấy tượng-trưng cho những người đã nằm xuống vì lý-tưởng quốc gia. Cảm-động biết mấy, ngày tang đầu tiên cho VNCH trên đất người!

Xong đến các sinh-hoạt tranh đấu cho nhân-quyền ở quê nhà. Giai-đoạn này, Công-giáo còn làm việc tay trong tay với Phật-giáo. Linh-mục Trần Duy Nhất của Nhà thờ các Thánh Tử Đạo VN không quản ngại lên Chùa Việt-Nam vùng Hoa-thịnh-đốn họp với Thượng-tọa Thích Giác Đức để bàn chuyện lên tiếng cho những người bị tù đầy trong các trại tập trung mà CS gọi là "học tập cải tạo." Đứng đầu Hội Nhân-quyền vùng Thủ-đô hồi bấy giờ là cụ Hoàng Thế Phiệt, một nhân-sĩ Công-giáo nổi tiếng từ ngày còn ở đất Bắc, trước 1954. 

Hội Nhân-quyền yểm-trợ cho Thượng-tọa Thích Giác Đức lên New York ngồi tuyệt thực trước trụ-sở Liên-hiệp-quốc sau vụ tự-thiêu của 12 tu-sĩ và cư-sĩ Phật-giáo ở Dược-sư Thiền-viện (Cần-thơ, tháng 12/1976)--hình của Thượng Tọa tuyệt thực còn được đăng cả lên báoNew York Times. Rồi bác Phạm Ngọc Lũy, thuyền-trưởng tàu Trường Xuân, cũng đi cùng nhiều đồng-hương lên yểm-trợ tinh-thần cho Thượng-tọa.

Rồi chúng tôi đi hát với Joan Baez, một ca-sĩ nổi tiếng phản chiến trước 1975 nhưng đã sớm có sự phản-tỉnh và lên tiếng cùng cả trăm nhân-sĩ trên nguyên-trang của tờ New York Times lên án Hà-nội sau khi đồng-bào VN túa ra biển đi tỵ nạn, vượt biên vượt biển. Cùng thời-gian này, Jean-Paul Sartre ở Pháp cũng bắt tay Raymond Aron để phản-đối chính-sách của CS ở quê nhà, làm thành một phong trào quốc-tế rộng lớn.

Vẫn trong tinh-thần hòa-đồng tôn-giáo, Nghiêm Thị Lan, vợ của Toại, rất nhiều hôm lên Chùa Việt Nam đường 16 làm bò bía bán lấy tiền gây quỹ cho Chùa mà sau này được đổi tên thành Giác Hoàng.

Rồi đến khi cha Vàng bị bắt sau vụ nhà thờ Vinh Sơn hay hai thầy Tuệ Sỹ và Trí Siêu (Lê Mạnh Thát) bị tuyên án tử-hình vì âm-mưu lật đổ "chính-quyền," chúng tôi cùng với anh Đặng Đình Khiết vận-động ráo riết với Quốc-hội Hoa-kỳ, sau buộc CS phải giảm án từ tử-hình xuống chung-thân…..” (Hết trích)

Đọc qua tiểu sử, ta thấy con người Nguyễn Ngọc Bích “Năng động” đúng như ông viết, kiên trì đóng góp trong nhiều lãnh vực văn hóa, giáo dục, đấu tranh của người Việt Quốc Gia hải ngoại.

Thời Tổng thống George W.H Bush lãnh đạo Tòa Bạch Ốc, Giáo sư Bích được bổ nhiệm giữ chức vụ Giám đốc Song Ngữ của Bộ Giáo Dục Liên Bang. Ông cũng từng là giám đốc của Ban Việt Ngữ Đài Á Châu Tự Do (RFA) từ ngày đài phát thanh chương trình đầu tiên về Việt Nam vào tháng 2 năm 1997.

Kể từ ngày về hưu rời khỏi RFA, ông vẫn giữ chức Chủ tịch ‘Nghị Hội Toàn Quốc Của Người Việt tại Hoa Kỳ’ và tiếp tục các trước tác văn học, dịch thuật.

Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích cùng nhà văn nữ Trương Anh Thụy, khởi xướng Tổ Hợp Xuất Bản Miền Đông Hoa Kỳ và đã phát hành rất nhiều tác phẩm văn học, nghiên cứu trong hơn 20 năm qua.

Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích từ trần, để lại một di sản đồ sộ, những đóng góp của ông trong rất nhiều lãnh vực. Và ông cũng để lại tình cảm yêu mến trong lòng nhiều người Việt trong và ngoài nước.

Chúng tôi xin trích bài của nhà báo Đinh Quang Anh Thái trên nhật báo Người Việt, ở Nam Cali đã đau khổ nghẹn lời khi hay tin GS Nguyễn Ngọc Bích "đột tử ngày 3/3/2016 để kết thúc bài ngày 8 tháng 3, 2016 lúc thi hài Cố GS Nguyễn Ngọc Bích” sắp đáp xuống Virginia:

"Nhớ, lần đầu gặp chú Bích vừa từ Mỹ về Sài Gòn…, hình ảnh thanh niên rõ nét nhất của chú là những bữa cơm trưa tại nhà cô chú lúc cô làm Viện Trưởng và chú làm Tổng Thư Ký Ðại Học Cửu Long. Chú vui, kể cho đám hậu sinh chúng tôi nghe những ngày sống và học ở ngoại quốc, những lần đối đầu nẩy lửa với các nhóm phản chiến bài xích chính nghĩa bảo vệ vùng đất tự do của quân dân miền Nam.

Nhớ, lúc chiến tranh gây tang tóc cho người dân Phước Long, đám sinh viên chúng tôi đến gặp chú xin yểm trợ, chú khóc nức nở khi nghe kể hoàn cảnh nghiệt ngã của đồng bào chạy loạn.

Nhớ, đêm văn nghệ Hát Cho Tương Lai Thống Nhất ngày 20 Tháng Bảy, 1974, tại rạp Thống Nhất-Sài Gòn, khi các đoàn thanh niên và sinh viên đồng ca “Việt Nam, Việt Nam” của nhạc sĩ Phạm Duy, có đoạn anh em không thuộc lời, chú lao vụt lên sân khấu, giọng vang vang say sưa hát.

Nhớ, thời chú làm Giám Ðốc Ban Việt Ngữ Ðài Á Châu Tự Do, mỗi khi chú chấp bút viết một bản văn bằng Anh ngữ, Phó tổng giám đốc đài là nhà báo Dan Southerland phát thốt lên rằng, không thể sửa, dù một dấu phẩy bài chú viết. Không chỉ Anh ngữ, chú còn thông thạo tiếng Pháp, làm thơ Hài Cú tiếng Nhật, đọc tiếng Hoa, hiểu tiếng Ðức và tiếng Spanish đủ để đi mua sắm.

Nhớ, tính chú hiền, chẳng hề một lần to tiếng, trách móc ai.

Nhớ, tâm chú tốt đến độ không nỡ từ chối ai việc gì, dù lớn dù nhỏ. Và cũng vì tất bật hết việc này đến việc kia, nên nhiều lúc chú bị trách yêu là “luộm thuộm.” (Đinh Quang Anh Thái)

Xin mời so lại về ngày Tết Al và Dl để kết thúc chủ đề “Ghế trống nhưng quá đầy” về con người có kiến thức rộng lớn như GS Nguyễn Ngọc Bích, đã phân biệt Tết Việt--Nam và Tết Trung-Hoa mà truyền lại thế hệ trẻ.

Ngày mồng Một Tết Bính Thân Al nhằm ngày 8 tháng 2, 2016 Dl, Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích ra đi vì tranh đấu cho Việt Nam như lý tưởng thời trai trẻ vào ngày 3/3/16 tức ngày vào ngày 25 tháng Giêng Bính Thân, ông trở về thành Cố GS Nguyễn Ngọc Bích ngày 8/3/16 tức 30 tháng Giêng Bính Thân Al. Tức vẫn còn là tháng Giêng Âm lịch.

Trong tháng Giêng Âm lịch, Việt Nam ta có hai ngày lễ Tết tháng Giêng là Tết Nguyên Đán là ngày Mồng Một (8/2/16 Dl), 15 ngày sau (22/3/16) là ngày Rằm tháng Giêng, còn gọi là Rằm Thượng Ngươn. Dân ta thường đi chùa, đình cúng bái nên gọi là Lễ Tết Nguyên Tiêu.

Xin nghe ông Ngô Đình Vận phụ trách chương trình Văn Hóa Nhân Bản Lạc Việt phỏng vấn Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích nhiều câu hỏi liên quan đến Hồ Chí Minh, gợi lại lịch sử văn hóa chân chính của Việt Nam cho thế hệ trẻ không còn bị vo tròn bóp méo bởi nhà cầm quyền XHCN hiện nay.

Video: Phỏng vấn giáo sư Nguyễn Ngọc Bích về vễ hội Nguyên Tiêu và việc đạo thơ của Hồ Chí Minh

Như về Lễ Nguyên Tiêu, phân biệt Tết Nguyên Tiêu của Trung Hoa và Việt Nam. Bài thơ Lễ Nguyên Tiêu của đại văn hòa Nguyễn Du, nhưng Hồ Chí Minh có nhiều tài nào nhái thơ, ăn cắp văn, đạo thơ. Lúc nào cũng thấy Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích trả lời, nặng nhất là mắn HCM “Xất láo”, nhưng trên môi vẫn nở nụ cười hiền hòa. 

Xin chấm dứt chủ đề “Ghế trống nhưng quá đầy” là đầy thêm vì Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích vạch trần được “đạo dức của người có biệt tài đạo văn, đạo thơ và đạo tặc Hồ Chí Minh”!

***

Xin cầu chúc Tâm Thiện Nguyễn Ngọc Bích sớm về mìền Cực lạc. Thành kính phân ưu cùng hiền thê, Tiến sĩ Đào Thị Hợi và Gia Đình.

Còn “G/S Nguyễn Ngọc Bích, một Hướng Đạo đã lìa rừng”, tuyệt vời, sẽ nhắc sau với bà Giáo sư Đào Thị Hợi vì hôm nay cũng là ngày Quốc Tế Phụ Nữ mà bà rất xứng đáng đối với Nguyễn Việt Nữ.

Còn hôm nay, giờ nầy, đôi Uyên ương đang hạ cánh xuống vùng đất Virginia…

Vĩnh biệt nghìn thu, Tâm Việt Nguyễn Ngọc Bích (1937-2016)

(8/3/2016)