Monday, March 16, 2015

Trung Quốc xuất khẩu vũ khí thứ ba thế giới

Theo BBC-16 tháng 3 2015
Trung Quốc xuất khẩu 5% lượng vũ khí trên thế giới
Theo một phúc trình mới ra, Trung Quốc trở thành quốc gia xuất khẩu vũ khí lớn thứ ba thế giới năm 2014, chỉ sau Hoa Kỳ và Nga.
Trung Quốc đã qua mặt Đức, Pháp và Anh quốc trên danh sách các nước xuất khẩu vũ khí hàng đầu thế giới giai đoạn 2010-2014, theo Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm (SIPRI).
Nay nước này chiếm khoảng 5% thị phần bán vũ khí.
Ba nước Á châu là Pakistan, Bangladesh và Myanmar mua chừng 2/3 lượng vũ khí mà Trung Quốc bán ra.
Nền kinh tế thứ hai thế giới còn xuất khẩu vũ khí sang 18 nước châu Phi trong 5 năm vừa qua.
Tuy nhiên báo cáo của SIPRI cho hay con số thống kê của họ là về lượng vũ khí bán ra chứ không phải giá trị hàng xuất khầu.

Xuất khẩu tăng mạnh



Lượng vũ khí mà Trung Quốc bán ra ngoại quốc tăng 143% trong 5 năm 2010-2014 so với 5 năm trước đó.
Trong khi đó, xuất khẩu vũ khí của Đức giảm 43%, của Pháp giảm 27%.
Tổng lượng vũ khí buôn bán trên thế giới trong 5 năm qua tăng 16%.
Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn còn kém hai quốc gia xuất khẩu hàng đầu là Mỹ và Nga một khoảng cách khá xa.
Hoa Kỳ xuất khẩu tới 31% lượng vũ khí trên thế giới, và Nga 27%. Trong cùng thời kỳ, lượng xuất khẩu của hai nước nói trên tăng 23% và 37%.
SIPRI đưa ra phúc trình dựa trên các con số thống kê từng giai đoạn 5 năm một.

Nga giúp TQ trở thành 'Vua Biển Đông'?

Theo BBC-16 tháng 3 2015
Căng thẳng giữa Trung Quốc và các nước láng giềng thời gian gần đây dâng cao do thái độ quyết liệt của Bắc Kinh trên biển Đông
"Nga có thể biến Trung Quốc thành ông vua ở biển Đông," đó là tiêu đề bài phân tích chi tiết được đăng trên trang mạng chuyên về quan hệ chính trị quốc tế nationalinterest.org hồi cuối tháng Hai 2015.
Theo tác giả Harry J. Kazianis thì nhân vật có thể khiến cho biển Đông sôi sùng sục không ai khác ngoài Tổng thống Nga Vladimir Putin; Tình hình Ukraine rất có thể là chất xúc tác đẩy Trung Quốc lên vị thế thống trị ở vùng biển này nhờ vào vũ khí và công nghệ Nga, nếu như phương Tây trang bị vũ khí cho Ukraine.
Căng thẳng đang dâng cao tại vùng châu Á - Thái Bình Dương trong lúc Trung Quốc tiếp tục thay đổi địa thế với việc xây mới, mở rộng các đảo, bãi đá ở biển Đông, thậm chí xây cất các bãi đáp máy bay, cảng ra vào cho tàu biển, các trạm radar và thậm chí cả các điểm phóng hỏa tiễn chống tàu biển.
Mục tiêu thì quá rõ, tác giả bài viết bình luận, Bắc Kinh nhiều khả năng sẽ trở thành bá chủ biển Đông nếu như các đảo mới được dùng cho mục tiêu tự nhiên, qua đó tuyên bố được chủ quyền.

Vì sao lại là Nga?

Trong những năm tới, nếu như Trung Quốc kết hợp được các công nghệ quân sự tân tiến có sẵn của mình, như hỏa tiễn tuần du tầm xa đạt độ chính xác cao, với các căn cứ mới được xây cất trên các hòn đảo ở biển Đông thì rất có thể đó sẽ là một cơn ác mộng cho Hoa Kỳ và các đồng minh, vốn đang làm mọi điều có thể để đảm bảo quyền có thể tiếp cận được tới các vùng then chốt ở châu Á - Thái Bình Dương.
Được hầu hết các chuyên gia quân sự phương Tây gọi là A2/AD (Vùng không được tiếp cận - "Anti-Access, Area Denial"), Trung Quốc đang dần tạo ra những điều kiện khiến cho các lực lượng của Hoa Kỳ, Nhật Bản và các đồng minh khác bị tổn thất nặng một khi xảy ra xung đột ở các chuỗi đảo.
Trung Quốc hiện dùng phi cơ SU-27 mua của Nga tuần tiễu trên vùng trời ở biển Hoa Đông
Trung Quốc trong mấy năm qua đã phát triển mẫu chiến đấu cơ thế hệ thứ năm, mẫu hệ thống hỏa tiễn đạn đạo đối hải phức tạp và các căn cứ tấn công trên biển bằng hỏa tiễn tuần du. Các hệ thống đó không phải là thứ dễ làm đối với bất kỳ quốc gia nào. Nếu như Bắc Kinh tìm được một bên sẵn sàng hợp tác, một quốc gia đã có sẵn các công nghệ đó thì sự hợp tác sẽ đem lại cho Bắc Kinh cú nhảy vọt cần thiết để có được những hệ thống vũ khí tân tiến cần thiết cho A2/AD nhiều năm trước khi Trung Quốc có thể tự làm được.
Về phần mình, Nga đang muốn báo thù về cuộc khủng hoảng Ukraine, rất có thể sẽ muốn đứng vào vai trò hỗ trợ đó.
Tác giả Harry J. Kazianis đưa ra một bối cảnh giả định: Phương Tây quyết định đã đến lúc trang bị vũ khí cho Ukraine. Nga quyết định cần phải phản công, và không chỉ phản công ở châu Âu. Khi đó, ông Putin sẽ muốn tìm kiếm trên toàn cầu xem đâu là nơi mà Nga có thể sử dụng một cách tốt nhất để phản công, và không nơi nào tốt hơn là tăng cường quan hệ đối tác với Trung Quốc, một quốc gia có khả năng làm tổn hại thực sự tới các nỗ lực "xoay trục" của Mỹ ở khu vực biển Đông.

Nga có thể giúp gì cho Trung Quốc nếu hai bên hợp tác?

Trung Quốc đang muốn tăng cường khả năng tạo vùng không tiếp cận trên không, và có những đồn đoán là Bắc Kinh sẽ lấy phi cơ SU-35 của Nga, mà việc mua bán sẽ được chính thức hóa một khi phương Tây cấp vũ khí cho Ukraine.
Với khả năng hoạt động rộng hơn so với loại phi cơ PLAAF-SU-27/J-11 hiện nay, SU-35 sẽ khiến Trung Quốc có khả năng triển khai các chiến đấu cơ phản lực tân tiến trong thời gian dài hơn ở biển Hoa Đông và biển Đông, cải thiện được mức độ hiệu quả của việc tuần tra trên biển ở nơi gần đây được tuyên bố là Vùng Định dạng Phòng không ở biển Hoa Đông (ADIZ), và có thể giúp Bắc Kinh thiết lập một vùng ADIZ ở biển Đông.
Loại phi cơ này sẽ áp đảo được hầu hết các chiến đấu cơ khác ở Á châu (chỉ thua F-22 và F-35), và lấp được chỗ trống cho tới khi Bắc Kinh có thể cho ra được chiến đấu cơ theo thiết kế thế hệ năm của mình.
Nếu như Trung Quốc trang bị cho loại phi cơ này những vũ khí đối hải tân tiến rồi đặt chúng ở các bãi đáp máy bay vừa xây cất tại bãi Gạc Ma (Johnson Reef) hay đá Chữ Thập (Fiery Reef), thì tức là sẽ có một loại vũ khí mới, có khả năng xác lập vùng cấm tiếp cận hoàn toàn đủ sức đẩy các lực lượng khác ra khỏi vùng nước cần được kiểm soát.
Tàu ngầm Nga sẽ giúp Trung Quốc tăng khả năng hoạt động ngầm dưới mặt nước và kiểm soát tốt hơn khu vực A2/AD muốn có
Trên biển, vẫn nhờ vào sự hợp tác với Nga, Trung Quốc có thể sẽ tăng cường được năng lực hoạt động ngầm dưới mặt nước nhờ vào việc mua các tàu ngầm mới. Vấn đề này đã được gắn liền với các tường thuật trên truyền thông về khả năng mua SU-35 từ mấy năm qua.
Công nghệ tàu ngầm mới sẽ đóng vai trò then chốt cho sức mạnh Trung Quốc, không chỉ về khả năng triển khai tàu nhiều chức năng dưới biển mà còn bởi Bắc Kinh rất có thể sẽ cóp nhặt, sao chép công nghệ mới từ những con tàu này. Chưa kể Trung Quốc cũng có vẻ quan tâm tới việc cải thiện công nghệ chống tàu ngầm (ASW), vốn là điểm yếu của Bắc Kinh.
Tuy hiện chưa có lời nhắc cụ thể nào về thỏa thuận tàu ngầm giữa Nga và Trung Quốc, nhưng rõ ràng là Moscow có thừa kinh nghiệm để giúp đỡ cho Trung Quốc trong lĩnh vực này. Nếu xét đến các nỗ lực của Hoa Kỳ trong việc duy trì khả năng tiếp cân vào những vùng không phận mà Trung Quốc coi là A2/AD chủ yếu là dựa vào việc các tàu ngầm Mỹ đi vào khu vực mà không bị phát hiện, thì sự hợp tác Nga-Trung trong lĩnh vực này có thể củng cố mạnh mẽ cho các kế hoạch A2/AD của Trung Quốc.

Liệu có điều gì khiến Nga lưỡng lự không?

Cuộc khủng hoảng Ukraine rõ ràng là chất xúc tác mạnh mẽ cho sự hợp tác công nghệ quốc phòng giữa Trung Quốc và Nga, tuy nhiên, sự hợp tác đó đã từng xảy ra trong quá khứ với việc Moscow đã trả một cái giá đắt. Nga rõ ràng sẽ cân nhắc một cách khôn ngoan về những gì đã xảy ra trước đây để thấy liệu việc bán vũ khí cho Trung Quốc có gây ra những thách thức gì về mặt dài hạn hay không.
Trung Quốc đã mua của Nga hai lô hàng, mỗi lô 24 chiếc SU-27 hồi thập niên 1990
Vụ mua bán phi cơ lớn giữa Moscow và Bắc Kinh hồi thập niên 1990 liên quan tới SU-27 Flanker thế hệ bốn, là loại phi cơ hiện vẫn đang rất được chuộng. Khi đó, Moscow đã không bán các thiết bị quân sự dùng công nghệ tân tiến cho Bắc Kinh kể từ sau khi hai bên căng thẳng với nhau do các vụ đụng độ đường biên.
Khi Liên Xô sụp đổ vào cuối 1991, ngành công nghiệp vũ khí của Nga đã rơi vào cảnh khó khăn. Nga có rất nhiều vũ khí có thể giúp Trung Quốc vượt qua được nhiều bước phát triển công nghệ quân sự, cho nên việc hợp tác có vẻ là điều hợp lý.
Về phần mình, có được công nghệ quân sự tân tiến nhất là điều vô cùng quan trọng và tới 1991, Bắc Kinh đã coi đây như điều quan trọng hàng đầu. Các chiến lược gia Trung Quốc đã kinh ngạc về tốc độ áp đảo các lực lượng Iraq mà phía Hoa Kỳ thể hiện trong Cuộc chiến Vùng Vịnh lần thứ nhất. Các nhà hoạch định quân sự Trung Quốc nhận thức được rằng hầu hết những vũ khí mà họ có được đã là đồ cổ lỗ, và công nghệ Nga tuy chưa tân tiến bằng của Mỹ vẫn sẽ giúp họ tiến tới hiện đại hóa tốt hơn.
Hồi 1991, Moscow bán cho Bắc Kinh lô hàng gồm 24 phi cơ SU-27 trị giá khoảng 1 tỷ đô la. Năm 1995, Trung Quốc mua 24 chiếc SU-27 nữa từ Nga và lô hàng được giao vào 1996. Cùng năm, Trung Quốc và Nga tăng cường quan hệ đối tác khi Bắc Kinh trả khoảng 2,5 tỷ USD để được cấp phép sản xuất thêm khoảng 200 chiếc SU-27 tại Công ty Máy bay Thẩm Dương.
Hợp đồng này có một điều khoản quan trọng là phiên bản SU-27 của Trung Quốc, trong đó có dùng các thiết bị nhập khẩu từ Nga gồm thiết bị hàng không, radar và máy, sẽ không được phép xuất khẩu đi nước khác. Nga khi đó lo rằng Trung Quốc sẽ sao chép công nghệ hoặc học lỏm đủ về SU-27 để đến một ngày sẽ đem bán cho bên thứ ba và do đó sẽ khiến Nga thiệt hại nhiều tỷ đô la bán chiến đấu cơ phản lực.
Đáng tiếc cho Nga là thỏa thuận này đã kết thúc trong tai họa. Sau khi lắp được khoảng 100 chiếc phi cơ gì đó, Trung Quốc đã hủy hợp đồng vào năm 2004. Bắc Kinh nói các phi cơ loại này không còn đáp ứng tiêu chuẩn của mình. Ba năm sau, Trung Quốc hoàn toàn vứt bỏ hợp đồng sang một bên và phát triển một loại chiến đấu cơ mới, J-11. Chiếc phi cơ này trông hoàn toàn là bản sao của SU-27. Trung Quốc bác bỏ việc mình sao chép và nói chiếc máy bay hầu như toàn dùng các thành phần tự chế tạo và Trung Quốc đã tự phát triển được thiết bị hàng không, thiết bị radar của mình.

ĐCSTQ trước nguy cơ tan vỡ

Maciej Michalek - Lê Diễn Đức dịch
Theo RFA-2015-03-16
Đại hội XVIII ĐCSTQ, 2012-Courtesy of asianews.it

Thanh trừng, được gọi là chiến dịch chống tham nhũng, ban đầu được cho là bằng chứng về sức mạnh của nhà lãnh đạo Trung Quốc hiện nay, Tập Cận Bình. Nó chứng minh cho khả năng thực hiện những cải cách kinh tế khó khăn và cuộc chiến đánh vào giới tướng lãnh bất khả xâm phạm cho đến bây giờ, bị huỷ hoại bởi tham nhũng và suy thoái đạo đức.

Kéo dài, diễn ra hơn hai năm, cuộc đấu đá nội bộ giữa các phe phái trong đảng, tuy nhiên, bắt đầu tăng lên mối lo ngại rằng với chiến dịch đầy tham vọng này Tập đã vuợt quá sức mình. Hơn nữa, những ảnh huởng của những vấn đề thường nhật và các vụ bê bối đã làm cho chính quyền cuối cùng mất niềm tin của công chúng, mà nó là nền tảng của sự ổn định của chế độ phi dân chủ ở Trung Quốc.

Thanh trừng và giới doanh nghiệp di tản

Tập Cận Bình chắc chắn đã tạo ra rất nhiều kẻ thù trong giới quyền lực của Trung Quốc, khi ông cáo buộc và bắt giữ ngay cả những người được coi là bất khả xâm phạm, kể cả cựu Bộ trưởng Bộ Công an Chu Vĩnh Khang, một cựu thành viên Bộ Chính trị nổi tiếng Bạc Hy Lai hay hàng chục tướng lĩnh và đô đốc khác. Tuy nhiên, theo David Shambaugh, một trong những chuyên gia hàng đầu của Mỹ về Trung Quốc, đây không phải là biểu hiện duy nhất của quyền lực bị mất chỗ đứng.

Một vấn đề không kém nghiêm trọng là phần lớn các tầng lớp tinh hoa trong lĩnh vực tài chính Trung Quốc đang cố gắng chạy ra khỏi đất nước của họ. Họ gửi con cái đi học nước ngoài, chuyển tiền ra nước ngoài, cố gắng bằng nhiều cách khác nhau để có được hộ chiếu của các nước khác, và cuối cùng, nếu có thể, họ di cư để tìm kiếm một nơi tốt hơn để sống. Điều này cho thấy sự thiếu tin tưởng giữa chính phủ và các doanh nghiệp, cũng như sự thiếu niềm tin vào tương lai của người dân Trung Quốc tại chính quê hương của mình.

Sự di tản của giới kinh doanh tạo ra một tổng thể trong tình hình kinh tế đang xấu đi ở Trung Quốc. Như cảnh báo trên "The Washington Post", nền kinh tế Trung Quốc có thể sớm chờ đợi một cuộc khủng hoảng có thể so sánh với Mỹ năm 1929, dẫn đến khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Theo tính toán, tổng số nợ của Trung Quốc, trong đó bao gồm nợ của doanh nghiệp nhà nước và các hộ gia đình đã đạt 282 phần trăm GDP hiện nay, trong khi tăng trưởng kinh tế chậm đi làm vấn đề tăng lên.

Ban lãnh đạo ĐCSTQ trong thập niên 1950

Con đường xã hội chủ nghĩa mờ mịt

Một vấn đề khác là sự đàn áp đối lập của nhà cầm quyền Trung Quốc ngày càng tăng. Một sự gia tăng chưa từng có với quy mô lớn kiểm duyệt tất cả các phương tiện truyền thông, hạn chế tiếp cận văn hoá nước ngoài, bao gồm cả xem phim ảnh của Hollywood, tăng cường kiểm soát của các dân tộc thiểu số hoặc thậm chí hạn chế tự do học thuật - tất cả, nhà phân tích của Mỹ cho thấy sự suy yếu của chính phủ Trung Quốc và mối quan tâm ngày càng tăng của nhà cầm quyền về bất kỳ lời chỉ trích nào hay khả năng tạo ra lực lượng đối lập.

- Lãnh đạo đảng đang nghiêm túc sợ mất quyền lực - chuyên gia cho biết.

Một sự việc nữa là sự suy giảm lòng tin của thế hệ kế tiếp của các thành viên Đảng Cộng Sản Trung Quốc về ý thức hệ của mình. Công thức đoàn kết xung quanh một nhà nước xã hội chủ nghĩa đang bị xói mòn và các khái niệm được đề xuất như chủ nghĩa xã hội mang tính đặc sắc Trung Quốc để cứu vãn tình thế chỉ là tạm thời. Các giải pháp có thể được mở ra trở lại với một nền văn hóa Trung Quốc phong phú và triết học, nhưng - bất chấp những thử thách e dè - cũng không thể hòa giải đuợc với các ý thức hệ cộng sản. Trong khi đó xã hội Trung Quốc giàu có lên ngày càng đòi hỏi nhiều hơn đối với một chính quyền không được bầu cử dân chủ.

"Sự kết thúc sẽ không yên tĩnh"

Như đã lập luận trên "The Wall Street Journal" của David Shambaugh, khó tin rằng sự sụp đổ của Đảng Cộng Sản Trung Quốc sẽ yên tĩnh và thanh bình. Sẽ phải qua một cuộc đảo chính được thực hiện bởi quân đội hoặc một nhóm đối thủ trong Đảng Cộng Sản. Sự thay đổi nhanh chóng quyền lực, tình trạng bè phái trong giới tinh hoa và không khí xã hội xấu đi tạo nên một sự pha trộn không chỉ cuối cùng tác động lên Đảng Cộng Sản Trung Quốc, mà còn lay động sự ổn định và phát triển của Trung Quốc. Các hiệu ứng của sự kiện này sẽ chạm tới châu Âu, bởi vì không có một nghi ngờ nào, nền kinh tế toàn cầu cũng bị ảnh hưởng.

Làm thế nào để dự đoán sự sụp đổ?

Phải chăng sự dự đoán không quá sớm? Rất khó để dự đoán sự sụp đổ của một chế độ độc đoán đã được chứng minh tốt nhất bằng sự bất ngờ hoàn toàn của tình báo Mỹ qua sự kết thúc của Liên Xô. Tương tự như vậy với các cuộc cách mạng màu ở các nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ và mùa xuân Ả Rập, mà hệ quả, trong số những hệ quả khác, cuộc nội chiến đang diễn ra tại Syria. Thất bại của tình báo và của các nhà phân tích trong việc dự đoán các sự kiện thế giới xảy ra khá nhiều, tất cả các dự đoán, do đó, phải được xem xét một cách thận trọng.

Ngoài ra, tham nhũng và sự thoái hoá của tầng lớp ưu tú là một vấn đề đặc biệt nghiêm trọng và ngày càng tăng ở các nước phi dân chủ. Thật khó cho Tập Cận Bình thực hiện cuộc chống tham nhũng như là hiện tượng của chiến tranh - Thậm chí nhân dịp này giúp ông ta loại bỏ đối thủ chính trị. Đồng thời, Chủ tịch Trung Quốc trước đó, Hồ Cẩm Đào, đã liên tục cáo buộc sự yếu đuối quá mức và thiếu can đảm đưa ra những quyết định khó khăn. Chủ tịch hiện nay đã chứng minh sức mạnh trong đảng và cho đến nay không có dấu hiệu nào cho thấy các cuộc thanh trừng thoát khỏi kiểm soát của ông.

Tin tưởng vào chính quyền

Đảng Cộng Sản, mặc dù không còn ý thức hệ, và đi theo một hướng không rõ, nhưng cũng không đi quá xa để mất đi sự ủng hộ. Một vài nghiên cứu xác nhận mức độ tin cậy cao đối với chính phủ hiện tại và chính người Trung Quốc vẫn còn nhớ tới sự hỗn loạn của thời chiến tranh, hay Cách mạng Văn hóa, và đánh giá cao sự ổn định. Đảng Cộng Sản hiện nay có tới hơn 85 triệu thành viên và số những người trẻ gia nhập đảng cũng đông đảo như trước đây. Đảng được đánh đồng với quyền lực và triển vọng nghề nghiệp cao hơn và như vậy, chúng ta có thể nói rằng, đang tiến triển rất tốt.

Thế hệ lãnh đạo mới của ĐCSTQ sau đại hội XVIII, 2012

Thực tế cho thấy sự kiểm duyệt nghiêm ngặt Internet không làm tăng sự phản đối của cộng đồng. Theo một số nghiên cứu, thậm chí phần lớn người dân Trung Quốc nói rằng sự kiểm duyệt không cản trở họ, hoặc họ tin rằng chính phủ đã làm tốt khi chặn một số mật khẩu hoặc hình ảnh. Việc kiểm duyệt Internet gợi lên cảm xúc lớn hơn ở nước ngoài so với ở Trung Quốc, một nơi mà người dân dễ chấp nhận sự can thiệp của chính phủ trong cuộc sống riêng tư của họ.
Thật là một thảm họa đẹp

Làm thế nào để hiểu thêm những dự đoán thảm khốc về sự chấm dứt chế độ Cộng Sản ở Trung Quốc và khả năng mất ổn định tại nước này? Không nghi ngờ gì nữa, những vấn đề nghiêm trọng trong nội bộ mà Tập Cận Bình đang phải đối phó, còn nhận định của một chuyên gia có hạng như David Shambaugh không thể coi nhẹ. Cơn bão bình luận về tình trạng của chính quyền Cộng Sản cũng đã nổ ra trong vài ngày qua ở Trung Quốc.

Tuy nhiên, nghi ngờ có thể thấy từ sự việc là, các dự báo về sự sụp đổ sắp xảy ra của chế độ Cộng Sản Trung Quốc nổi trội đặc biệt trên các phương tiện truyền thông Mỹ. Mặc dù Hoa Kỳ có thể sẽ chịu ảnh hưởng nhất từ sự bất ổn nội bộ của Trung Quốc, vẫn có thể có ấn tượng rằng họ không chấp nhận được chuyện ít nhất trên danh nghĩa một chế độ Cộng Sản nắm quyền ở cường quốc thứ hai của thế giới. Người ta có thể đặt câu hỏi liệu người Mỹ không nghĩ như mong muốn và thông thường họ nghĩ lầm trong tính toán của mình.

Đã có trong đầu những năm 90 của thế kỷ trước, khi chủ nghĩa Cộng Sản sụp đổ trong khối Đông Âu, người Mỹ cũng dự đoán kết thúc của nó sẽ ở Trung Quốc. Sau đó, họ dự đoán rằng sự sụp đổ quyền lực của Bắc Kinh, sẽ dẫn đến sự tan rã thành 6-7 nước cộng hòa độc lập, giống như trường hợp khi Liên Xô tan vỡ. Hôm nay người ta không biết các dự báo có giá trị bao nhiêu, nhưng Trung Quốc dưới sự cai trị của Đảng Cộng Sản đã trở thành đối thủ mạnh mẽ nhất đối với quyền bá chủ thế giới của Mỹ.

Bản Việt ngữ © Lê Diễn Đức - RFA

Người người cùng nhau, đứng lên đáp lời sông núi...

Tạ Phong Tần, Trần Vũ Anh Bình... đã đổi lấy tự do của chính mình để tranh đấu cho tự do chung của dân tộc. Như Việt Khang đã phải vào tù khi anh cất cao tiếng gọi:

Người người cùng nhau
Đứng lên đáp lời sông núi...

Và bây giờ chúng ta tiếp lời Việt Khang, tiếp nối bước chân Việt Khang để người người cùng nhau đứng lên đáp lời sông núi, người người đứng lên tranh đấu cho tự do của:

Tạ Phong Tần, Việt Khang, Trần Vũ Anh Bình, Trần Huỳnh Duy Thức, 

của Bùi Thị Minh Hằng, Nguyễn Thị Thúy Quỳnh, Nguyễn Văn Minh, Đinh Nguyên Kha, Nguyễn Văn Lía, Nguyễn Minh Thuý, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đoàn Huy Chương, 

đứng lên vì tự do cho Linh mục Nguyễn Văn Lý, Hồ Thị Bích Khương, Cấn Thị Thêu, 

cho Nguyễn Đặng Minh Mẫn, Đặng Xuân Diệu, Luật sư Lê Quốc Quân, 

cho Nguyễn Hữu Vinh, Ngô Hào, Lê Thị Phương Anh, Phạm Minh Vũ, Đỗ Nam Trung, Mai Thị Dung, Nguyễn Thị Bé Hai, Hồ Đức Hòa, Nguyễn Đình Ngọc và nhiều công dân Việt Nam đang chịu cảnh tù đày vì khát vọng tự do của dân tộc.

Mời bạn hãy vào trang ký thỉnh nguyện thư nhanquyen2015.net để một chữ ký của bạn sẽ làm nên 100000 chữ ký xác định sức mạnh tranh đấu cho tự do, dân chủ và nhân quyền của người Việt.

Mời bạn hãy vào nhanquyen2015.net như là bước khởi đầu cho sự tham gia vào Chiến Dịch Tranh Đấu cho Tự Do - Dân Chủ - Nhân Quyền 2015.

Vì chủ quyền quốc gia, vì mỗi tấc đất, tấc biển thiêng liêng của Tổ Tiên, vì Tự do, Dân chủ, Nhân quyền của chính chúng ta, vì tương lai của con em mình, thân kính mời các bạn: 

- Hãy là một ngọn nến để làm nên hàng ngàn ánh đuốc. Mỗi người góp một bàn tay để làm nên hình ảnh vạn cánh tay giơ lên vì Tự do, Dân chủ và Nhân quyền.

- Hãy cùng nhau chấm dứt tình trạng mong chờ người khác, tình trạng mỗi người tự giam cầm những khát vọng, ước mơ của mình bằng thái độ mong chờ người khác làm thay mình.

- Hãy cùng cùng nhau, chúng ta biến năm 2015 thành Năm của Kết hợp giữa những người Việt Nam trong nước, giữa những người Việt trong và ngoài nước và biến 2015 thành Năm Hành Động cho Việt Nam của tất cả Chúng Ta.

Xin hãy bắt đầu bằng hành động nhỏ nhất của bạn và người thân trong gia đình: ký tên vào lá thư vận động Hội đồng Nhân quyền LHQ tại trang nhànhanquyen2015.net

Chúng ta là Tự Do!!!

Tranh đấu công khai cho Tự Do - Dân Chủ - Nhân Quyền

Người Quan Sát (Danlambao) - Trang web nhanquyen2015.net, nơi đăng tải Lời kêu gọi tham gia Chiến Dịch Tranh Đấu cho Tự Do - Dân Chủ - Nhân Quyền 2015 và "Thư ngỏ gửi Hội đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc và các Cơ chế Nhân quyền Quốc Tế về tình trạng vi phạm nhân quyền tại Việt Nam và chiến dịch Vận Động Tự Do - Dân Chủ - Nhân Quyền 2015 cho Việt Nam" đã nhận được hơn 3000 chữ ký sau 5 ngày phát động. Lần đầu tiên, một cuộc tranh đấu công khai được mở ra rộng khắp, sau 40 năm người Cộng sản đánh chiếm miền Nam đẩy đất nước vào tình trạng suy thoái, đạo đức xuống cấp, con người vô cảm.

Lần đầu tiên, cuộc tranh đấu của người Việt khắp nơi, không phân biệt trong hay ngoài nước được tổ chức để chứng minh cho thế giới thấy rằng: Việt Nam không chỉ là quốc gia có nhiều cảnh đẹp, con người hiền hòa, có chỉ số kinh tế tăng trưởng hấp dẫn… như lời chính phủ quảng cáo. Việt Nam là một quốc gia có nhiều vi phạm về tình trạng nhân quyền. Việc lạm dụng luật pháp để sách nhiễu, đánh đập, bắt giữ và cầm tù những người bất đồng chính kiến thể hiện ôn hoà là có thật. Và thế giới sẽ phải thấy điều này qua cuộc tranh đấu công khai năm 2015.

Nếu các bạn trong thôn quan sát kỹ sẽ thấy, các nhóm xã hội dân sự hoạt động tại Việt Nam, các nhóm hành động vì nhân quyền bên ngoài và các cá nhân chủ xướng đứng tên trong Thư Vận Động lần này bao gồm 27 hội đoàn và hơn 160 cá nhân đã công khai bày ra một mặt trận mới, mời gọi những người tham gia dần dần vượt ra khỏi sợ hãi để chạm tay vào thứ tự do thật sự mà họ muốn thấy, muốn được sống trong bầu không khí dân chủ đó.

Mặt trận công khai ấy được mở ra, với những tuyên bố rất rõ ràng với thế giới:

Chúng tôi, những người dân Việt Nam chính thức thông báo đến Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc (HĐNQ-LHQ) rằng nhà nước Việt Nam từ sau khi tham gia làm quốc gia thành viên của HĐNQ-LHQ cho đến nay nhân quyền tại Việt Nam vẫn tiếp tục bị chà đạp; luật pháp Việt Nam vẫn không công nhận các quyền tự do cơ bản theo đúng luật nhân quyền quốc tế, điển hình là các điều khoản 79, 88, 258 của Bộ Luật Hình Sự. Do đó, chúng tôi không thể lên tiếng bày tỏ ôn hòa các quan điểm, chính kiến, phê bình chính phủ của mình mà không bị còng tay, tống giam, bịt miệng. Vì thế chúng tôi phải chọn tranh đấu cho tự do, nhân quyền của mình với đối tác là HĐNQ-LHQ.

Trong năm 2015, người Việt chúng tôi trong và ngoài nước, sẽ có những cuộc biểu tình, tọa kháng, thắp nến, tuyệt thực ôn hòa.

Tại Việt Nam:

a/ Nếu chúng tôi bị đàn áp, bắt giam, bịt miệng thì HĐNQ-LHQ hãy xem như đó là bằng chứng sống thực bằng chính sinh mạng của chúng tôi, rằng Việt Nam thực sự vẫn chưa có tự do nhân quyền, và HĐNQ-LHQ cần tái cứu xét tư cách thành viên của Việt Nam, có phản ứng mạnh mẽ hơn với các biện pháp chế tài cụ thể đối với nhà cầm quyền Việt Nam. Và xin các tòa đại sứ tại Việt Nam lên tiếng phản đối nhà nước Việt Nam, xét lại những đàm phán, ký kết thương mại, kinh tế, viện trợ đối với Việt Nam; yêu cầu được tiếp xúc, vào trại giam thăm các tù nhân lương tâm; và áp lực nhà nước Việt Nam phải trả tự do cho tất cả những người tranh đấu vì tự do, dân chủ, nhân quyền.

b/ Nếu như vì sự cảnh báo này đến các tòa đại sứ, các cơ chế nhân quyền và HĐNQ-LHQ, mà nhà nước Việt Nam chùn tay, không trấn áp những người tham gia tranh đấu cho tự do, dân chủ, nhân quyền trong năm 2015, thì hãy xem đây là bằng chứng hiển nhiên về vai trò quan trọng và hữu hiệu của quốc tế, của các cơ quan nhân quyền thế giới trong sứ mạng cao cả bảo vệ tự do - nhân quyền của người dân tại các nước độc tài. Chỉ có trong bóng tối, tội ác mới dễ dàng tiếp diễn. Sự quan tâm theo dõi của quốc tế sẽ giúp bảo vệ sinh mạng của chúng tôi - những người tham gia chiến dịch tranh đấu ôn hòa cho tự do, dân chủ, nhân quyền tại Việt Nam.

Rất đàng hoàng, dõng dạc và ôn hoà – những người đi đầu đã nắm tay nhau bước ra khỏi sợ hãi và mời gọi bạn đồng hành.

Tôi đã ký, đã chạm vào nỗi sợ của mình bằng cách đối diện để vượt qua nó.

Các bạn thì sao?

Góp sức, chung tay, chúng ta cùng thay đổi Việt Nam nhé mọi người.



Chị Lê Thị Kim Thu tố cáo: 40 năm Cộng sản Việt Nam vẫn trả thù Thương Phế Binh VNCH


Trần Quang Thành (Danlambao) - Phái đoàn Hội đồng liên tôn các tôn giáo từ Sài Gòn đến Huế để tổ chức cuộc gặp gỡ và tri ân Quý Thương Phế Binh VNCH ở Huế và Quảng Trị tại chùa Phước Thành do Hòa Thượng Thích Chí Thắng trụ trì vào trưa Chủ nhật 15 tháng 3.

Vào khoảng 1 giờ sáng ngày 15 tháng 3, hàng trăm côn an tỉnh Thừa Thiên Huế đã bao vây nhà trọ Hùng Quý (tại Huế) nơi phái đoàn tạm trú qua đêm để cưỡng bức 10 chức sắc phải rời Huế trong đó có Hòa Thượng Thích Không Tánh, 2 Mục sư Tin lành, 3 chánh trị sự Cao Đài, bốn chức sắc Hòa Hảo.

Côn an đã giữ giấy tờ của tài xế, buộc các chức sắc lên xe vào lại Đà Nẵng với lý do bịa đặt “đến vùng phức tạp và nhạy cảm”. 

Chúng dùng hai xe mang biển số 75A2070 và 75A20756 để áp tải xe của phái đoàn. Chúng hứa qua khỏi hầm Hải Vân sẽ trả lại giấy tờ xe, nhưng rồi vẫn không trả.

Lên tiếng tố cáo cộng sản Việt Nam qua 40 năm vẫn tiếp tục trả thù Thương Phế Binh Việt Nam cụ thể như việc cản trở không cho anh em nhận quà của Hội đồng liên tôn, vào hồi 15 giờ 30 chiều ngày 15/3 khi côn an đang áp tải phái đoàn Hội đông liên tôn qua địa phận huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định, cô Lê Thị Kim Thu, một thành viên trong đoàn đã tường trình sự việc với phóng viên Trần Quang Thành như sau:

(Audio PV cô Lê Thị Kim Thu)


Trần Quang Thành
danlambaovn.blogspot.com

Thiếu tá Hồ Chí Minh

Thiếu tá Hồ Chí Minh trong “Trung quốc công bố thiếu tá Hồ Quang…”

Bảo Giang (Danlambao)- Trong mấy chục năm qua, không riêng gì ở Việt Nam, mà còn ở các nước từ Âu sang Á, người ta đã tốn không biết bao nhiêu giấy bút, thời giờ để nói, để viết về Hồ Chí Minh mà vẫn chưa tìm ra nguồn gốc đích thực của nhân vật này. Chỉ biết, truớc 1945, HCM là một cái tên quá xa lạ với cộng đồng Việt Nam, thế giới. Nhưng ngay sau ngày cộng sản cướp chính quyền tại Hà Nội. Rõ hơn là sau ngày chia đôi đất nước 20-7-1954, Cái tên ấy đã nổi lên và trở thành nỗi ám ảnh kinh hoàng với tất cả mọi người. Nó ám ảnh con người khi thức cũng như trong lúc ngủ. Lúc ở ngoài cũng như khi vào tù. Nó như chuyện bị ma ám quỷ nhập, chả có lúc nào rời bỏ con người. Dù tệ hại như vậy, câu chuyện về HCM vẫn chưa có dấu hiệu ngừng lại. Bởi vì:

Người thì viết ca tụng Y như thần như thánh, như tiên ông. Kẻ lại gọi, đánh bóng ông ta là “chủ tịch vô vàn kính yêu”, “người thầy vĩ đại của đảng” hoặc là “bác sống mãi trong đáy quần chúng”! Thôi thì đủ kiểu đủ cách để cho họ thổi bóng bóng cho Y. Nghe nói, chỉ tính riêng việc thổi bong bóng này cũng để lại một chuyện cười ra nước mắt. Một hôm, ngay tại thành Hà Nội vào những năm cực thịnh, khi Hồ chí Minh còn sống. Trên đường phố Hà Nội xuất hiện khá nhiều hình ảnh của ông Tiên, ông Sư, ông Cha và bác Hồ ghép chung lại với nhau bằng một tấm giấy quảng cáo khổ lớn. Nhìn tấm hình treo đầu đường, trên phố, cán bộ nhớn nhỏ phấn khởi, chuyền tai bảo nhau: Không ngờ nhân dân ta quý “bác “đến thế! Mãi đến khi anh phu xe đứng nhìn tờ quảng cáo, chẳng biết phe nào sáng tạo, rồi phì cười. Khi ấy các cơ quan từ trung ương đến phường khóm mới vỡ lẽ ra câu chuyện, vội vã cho người đi thu hồi, tháo tấm quảng cáo “tiên sư cha bác Hô” xuống, lẳng lặng liệng vào cống, làm cho người Hà Nội một phen cười đến đau bụng.

Cùng với câu chuyện ấy là không biết bao nhiêu triệu triệu người lên án, nguyền rủa Y như một đồ tể của nhân loại. Là kẻ vô đạo, kẻ bán nước hại dân. Xem ra trong cuộc chiến tuyên truyền này, phía nào cũng lo bảo vệ cái lý của mình. Tuy nhiên, có một cái lý lẽ mà không bên nào có thể chối bỏ được là: Hồ Chí Minh đứng hàng thứ bảy trong danh sách những kẻ bạo tàn, vô đạo nhất trên thế giới. Y chỉ đứng sau Mao trạch Đông, Lenin, Staline, Hitler. Ponpot! Trong quyển “Death by Government” (Chết do chánh phủ), tác giả Rudolph J. Rummel, giáo sư khoa chính trị học đại học Yale, thì số nạn nhân của những người này được ghi nhận như sau:

(1) Mao’s Regime 76,702,000 (1958-1962 là 35,236, 000; PRC từ 1928- 1987 là 76,702,000 người).
(2) Lenine, Staline (Liên Xô) 61,911.000 người.
(3) The Nazi Genocide State (Hitler 20, 946, 000 người).
(4) Quân phiệt Nhật 5,964.000 người.
(5) Khmer đỏ 2,035.000 người. (ponpot)
(6) Thổ Nhĩ Kỳ 1,883.000 người.
(7) Hồ Chí Minh, Cộng sản Việt Nam 1.670.000 người.
(8) Cộng sản Ba Lan 1.585.000 người.
(9) Cộng sản Nam Tư 1.072.000 người.

Sự việc là thế, nhưng vẫn có người ra điên thành dại ca tụng, đánh bóng ông ta như là “cha già của dân tộc”. thay vì lên án Y là kẻ diệt chủng tộc Việt. Rồi lại có nhiều kẻ u mê, mất trí ra công ra sức đánh bóng sự gian dối vô đạo của Y bằng thứ ngôn ngữ buồn nôn, rồi tuyên truyền đầu độc giới trẻ “học tập theo gương đạo đức của bác Hồ”, mà không hề biết bản thân Y là một kẻ vô đạo, bất nhân, bất hiếu, bất nghĩa. Đã thế, còn bầy đoàn xây đài, đúc tượng cho y. Tìm đủ mọi phương cách để chèn ép, bức hại các tôn giáo để đưa cái đầu lâu của y vào chùa, vào đền miếu ngang hàng với thần phật, mà không hề biết rằng bản thân y, một đảng viên đảng cộng sản thì cho đến chết vẫn là một kẻ tôn thờ chủ nghĩa tam vô. Vô thần phật, không cúng kiếng! Theo đó, việc đốt nhang đèn cho y, cho một đảng viên cộng sản, tưởng là chuyện hay, chuyện tốt, giúp họ thoát chốn đọa đày, trầm luân và sớm được quay về với thần thánh nơi miền cực lạc, hóa ra lại là một sự kiện ngược chiều vơi tâm tư người CS. Họ có tin vào thần linh đâu, hồn họ đã về với Mác Lê Mao, cần gì nhang khói? Trên phần mộ của họ nên để cái búa và cái liềm thay vì bát nhang!

Cứ thế, câu chuyện bên bênh, bên chống vẫn chưa ngừng lại. Tuy nhiên, tinh thần vô đạo, vô tôn giáo, và lối sống, lối đào tạo phi nhân bản của tập thể này sau hơn 70 hiện diện trên đất nước Việt Nam, đã đẩy xả hội Việt Nam đến bên bờ vực thẳm của sự hủy diệt. Ở đó, nền tảng luân lý đạo đức của xã hội, cũng như nền phong hóa và văn hóa nhân bản của Việt Nam bị CS tàn phá, bị chôn vùi theo đường dao mã tấu của cs, nên con người phải nói dối nhau mà sống. Sống bằng cuộc tranh dành, cướp đoạt, chụp dựt và ích kỷ. Ở đó, xem ra con người không còn đối xử với nhau theo tính nhân văn của con người. Trái lại, chỉ còn lại sự dối trá, dối trá và dối trá..

Người ta tự hỏi, liệu những thành phần lãnh đạo cộng sản hiện nay có biết đến chuyện xã hội nhân bản Việt Nam bị CS làm cho băng hoại như hôm nay không? Tôi cho rằng, họ biết và biết rất rõ, Nhưng bản chất của họ đã được đào tạo trong cuộc sống là gian dối, là cướp đoạt, là tranh dành là ích kỷ. Họ chỉ biết cho cá nhân của họ bằng việc bảo vệ cái đảng mà không bao giờ nghĩ đến tương lai của cả một dân tộc. Đó chính là căn nguyên của mối họa mà CS di họa cho mọi người, không trừ ai. Và nhờ căn nguyên gây họa này mà HCM trở thành một trong số rất ít người có mặt trên thế giới nhận được những lời ca tụng bóng bẩy, hào nhoáng nhất. Nhưng cũng đồng thời là kẻ phải nhận lấy những lời nguyền rủa cay độc, tồi tệ nhất! Một người như thế, chắc là có nhiều điểm đặc biệt, nôi bật? Đúng thế, Y nổi bật ở trong nhiều cách, nhiều kiểu, nhiều vị thế khác nhau. Tuy thế, chưa có mấy người biết đến tên tuổi của thiếu tá Hồ chí Minh trong quân đội giải phóng nhân dân Trung quốc ra sao!

Thiếu tá Hồ Chí Minh tên thật là Huguang (Hồ Quang) là đảng viên đảng cộng sản Trung cộng, tùng sự tại Bát lộ quân của tướng Chu Đức vào cuối năm 1939. Theo hồ sơ quân bạ được Trung cộng lưu trữ, thiếu tá Hồ chí Minh có phần sơ yếu lý lịch như sau “Sơ yếu lý lịch của Hồ Quang (tức Hồ chí Minh) tại Lớp huấn luyện Nam Nhạc /thuộc tỉnh Hồ Nam. Năm 1939. Hồ Quang 38 tuổi- Phụ trách điện đài - Quảng Đông - Thiếu tá - tốt nghiệp Đại học Lĩnh Nam – Giáo viên trường Trung học. Biết ngoại ngữ, quốc ngữ. (ảnh 1, ảnh 2) Nguồn: Lưu trữ Trung Quốc”. 胡光(即胡志明主席)1939年在湖南省南岳培训班的简历。 胡光—电台员---38岁----广东----少校 ----毕业于岭南大学------中学教师。会外语和国语 . Với bản lý lịch này, thiếu tá Hồ chí Minh (Huguang) là người mang quốc tịch nào?

1. Nhìn từ phía người Trung hoa.

Một bản sơ yếu lý lịch đầy dũ thường ghi rõ ngày tháng năm sinh và sinh quán. Tuy nhiên, bản sơ yếu lý lịch của Thiếu tá Hồ chí Minh không có ngày tháng năm sinh và sinh quán. Nó đơn giản hơn. Việc đơn giản này cũng có thể hiểu vì đây có thể là một lờp huấn luyên chuyên môn, nội bộ, ngắn hạn, do các cơ quan gởi người đến, nên nó không dặt nặng về những hình thức thường thấy. Tuy nhiên, bản lý lịch vẫn có đầy đủ những chứng liệu cần thiết cho biết. Học viên Hồ Chí Minh năm 1939, 38 tuổi, tốt nghiệp tại Đại học Lĩnh Nam, và đã từng là giáo viên trung học. Hiện mang quân hàm thiếu tá trong quân đội giải phóng nhân dân Trung quôc. Đọc bản lý lịch này thì triệu người Trung Hoa như một đều quả quyết thiếu tá Huguang, sau đổi là Hồ chí Minh là người bản xứ. Ông ta không có một cơ sờ nào để chứng minh là người ngoại quốc, làm cố vấn cho quân đội của Trung cộng.!

Về phía nhà nước Trung cộng. Khi họ công khai hóa hồ sơ lý lịch này cũng có ít nhất hai lý do. Thứ nhất, nhác nhở cho Hồ Chí Minh biết y là con dân của Trung quốc, được đào tạo và đưa sang Việt Nam để hoạt động, dầu như có là chủ tịch của nước Việt Nam thì Y cũng phải biết nguồn gốc của mình ở đâu để thi hành công tác mở đường cho Trung cộng tràn về phương nam. Thứ hai, có ý ngầm báo cho người Việt Nam biết rằng, Hồ chí Minh là người Trung quốc, Y được đào tạo chính quy từ đại Học Lình Nam đến các khóa chuyên môn tại Nam Nhạc. Đồng thời cũng được đào tạo từ quân đội nhân dân Trung cộng để lãnh đạo cuộc cách mạng vô sản ở Đông Dương và Việt Nam theo chỉ thị của Trung cộng. Đây cũng là đòn đe loi sự phản bội của Hồ Chí Minh với mẫu quốc? 

2. Từ phía Việt Nam.

Dầu rất muốn, thật cũng khó tìm được đầy đủ những chứng liệu để chứng minh thiếu ta Hồ Chí Minh, tên thật là Huguang năm 1939, 38 tuổi, một người đã tốt nghiệp tại Đại Học Lình Nam, giáo viên một trường Trung Học tại địa phương, hiện mang quân hàm thiếu tá, phụ trách ngành diện đài trong quân đội giải phóng nhân dân Trung Quốc là người Việt Nam, nói rõ hơn là Nguyễn ái Quốc.. Khó chứng minh là bởi vì:

a. Lý lịch của Nguyễn Sinh Cung

Nguyễn sinh Cung sinh năm 1891, tại Kim Liên Nam Đàn. Khi đang học lớp sáu tại trường quốc học Huế thì bị đuổi ra khỏi trường. Khi đến Pháp, NTT có làm đơn xin vào học trường thuộc địa nhưng bị từ chối. Từ đó cho đến mãi về sau này 1933, không có bất cứ một tài liệu nào cho thấy y trở lại trường học để hoàn tất bậc Trung Học để có thể được ghi tên vào một trường đại học. Hon thế, cho đến năm 1933, ngoài hai năm có địa chỉ chính thức là nhà tù tại Hồng Kông, HCM rày đây mai đó, không có một địa sở nhất định. Cũng chẳng có bất cứ một tài liệu nào cho thấy là Y đã dừng chân và gia nhập học tại Đại Học Lĩnh Nam dù chỉ là một vài ngày.

Ngoài ra, Nguyễn Sinh Cung có những trở ngại không thể chứng minh như sau: Nguyễn ái Quốc bị bắt năm 1931- 1933. Sau khi được trả tự do, theo tin của sở mật thám Pháp, NAQ đã chết vì bệnh Lao trên đường đến Liên Sô. Cái chết này đã được tổ chức truy điệu ở trường Đông Dương tại Liên Sô và có một số học viên Việt Nam đến tham dự. Rồi từ năm 1933- đến 1939 không ai có thể tìm ra được tông tích có thể chứng minh là của Nguyễn ái quốc. Tuy có những tên và người được cho là, hay gán ghép cho là Nguyễn Ái Quốc thì đều không khả tín. Thí dụ như người mang tên P.Lin đứng ra tổ chức lễ thành hôn cho Lê thị Minh Khai và Lê Hồng Phong tại Mascơva được cho là Nguyễn ái Quốc thì hoàn toàn là sai. Bởi lẽ, Lê Thị Minh Khai và Nguyễn ái Quốc, trước đó vài năm từng chung sống với nhau như vợ chồng ở Hồng Kông. Và ngay trong tờ lý lịch của Nguyễn Thị Minh Khai khi đến Liên Sô cũng dã khai là có chồng tên là P.Lin. Theo đó, làm sao Nguyễn Ái Quốc lại có thể đứng ra làm chủ hôn cho NTM Khai lấy Lê hồng Phong vào năm 1934 tại Liên sô? !

Đó cũng chính là lý do mà bà Sophie Quinn Judge, một học giả Anh quốc cũng là một chuyên gia nghiên cứu về HCM. Bà được qũy Mike và Viên Nghiên cứu Trung Ương Đại Học London tài trợ để làm việc. Bà Sophie đi khắp các nước Đông Nam Á, Việt Nam, sang Trung quốc và Liên Sô, tìm những chứng cứ để đúc kết thành tác phẩm: Ho Chí Minh The Missing Years. Tạm dịch, Những năm tháng mất tung tích của Hồ chí Minh. Ở ngay trong phần giới thiệu nơi trang 6 bà viết:” Hồ chí Minh luôn tìm mọi cách để giấu đi qúa khứ của mình. Nhiều năm qua, những thứ mà ông ta cung cấp toàn là những loại phịa, không khả tin, chúng thường mâu thuẫn với nhau, không mấy liên quan đến đời thực. Đầu tiên là tập tự truyện xuất bản vào năm1949 tại Trung Quốc năm 1950 được xuất bản bằng tiếng Pháp tại Paris rồi mấy năm sau xuất bản tại Việt Nam với nhan đề” những mẫu chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ tịch”. Nhìn chung chỉ là những chuyện tự vẽ ra mà thôi. Nó không có sự kiện nào đúng với thực tế.

b. Phấn cá nhân, Thiếu tá Hồ c=Chí Minh (Huguang) tự cho biết ông ta là ai?

Trong bài “Đồng chí Nguyễn ái Quốc và tôi”, tôi đã viết: Vào tháng giêng năm 1949, tạp chí "Sinh hoạt nội bộ" kỳ thứ 13 của Việt Nam có đăng tải một bài viết nhan đề "Đảng ta" do Hồ Chí Minh (Huguang) viết dưới bút danh Trần Thắng Lợi. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia đã đưa "Đảng ta" vào Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, trang 547. Bài viết này cũng được TG Hồ tuấn Hùng ghi lại trong Bình Sinh Khảo, thiên II, nhan đề “ve sầu thoát xác, thật giả kiếp người”. Hồ Chí Minh viết như sau:

“Năm 1929 (chính xác là ngày 19 tháng giêng năm 1929), trong khi đồng chí Nguyễn Ái Quốc đi vắng, Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội khai toàn quốc Đại hội ở Hương Cảng. Đại biểu Bắc Kỳ đề nghị tổ chức đảng cộng sản, bị gạt đi, liền bỏ hội nghị ra về….

Cuối năm 1929, đồng chí Nguyễn Ái Quốc trở lại Tàu (chính xác là ngày 20 tháng giêng năm 1930), cùng với đại biểu các nhóm khai hội ở Hương Cảng.

Trong 7, 8 đại biểu, ngoài đồng chí Nguyễn Ái Quốc và tôi, nay chỉ còn đồng chí Hồ Tùng Mậu và đồng chí Trịnh Đình Cửu, đồng chí Tản Anh và vài đồng chí nữa đều oanh liệt hy sinh cho Đảng và cho dân tộc lâu trước ngày Cách mạng Tháng Tám.

Sau cuộc bàn bạc sôi nổi, và sau lời giải thích rõ ràng của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, mọi người đều tán thành thống nhất cả ba nhóm thành một đảng. Thế là Đảng ta chân chính thành lập...".(Trần thắng Lợi, tức Hồ chí Minh)) 

Với sự các nhận này, Thiếu tá Hồ Chí Minh (Huguang) và Nguyễn Ái Quốc không thể là một người, nhưng là hai người hoàn toàn khác nhau. Họ cũng có lý lịch khác nhau. Xin nhớ, đây không phải là một bài báo thường. Trái lại, bài viết mang tính cách lịch sử của đảng cộng sản Việt Nam. Bởi vì, nó được chính một trong bày ủy viên dự hội nghị còn sống, lại đang giữ vai trò lớn nhất trong đảng, viết lại sự việc thành lập đảng của mình. Theo đó, một câu, một chữ trong bài viết ấy là lịch sử đảng. Tưởng cũng cần nhắc lại là truy theo nguồn tài liệu chính thức của nhà nước Viêt cộng còn lưu giữ. Bảy ủy viên đứng ra thành lập dảng cộng sản vào ngày 3-2-1930 tại Hồng Kông là: Hồ tập Chương (đại diện CSQT) Hồ tùng Mậu, Trịnh đình Cửu, Lê Tản Anh, Trần Văn Cung, Lê Hồng Sơn và Nguyễn Ái Quốc*

Đặc biệt, nhân cuộc tổng đình công tại Hà Nội đưa đến việc sụp đổ chính quyền của Việt Nam lúc bấy giờ, Việt Minh đã cướp lấy chính quyền vào ngày 2-9-1945, nhưng người ta không hề bết Hồ chí Minh là ai. Sau đó, có tin đồn lan ra bên ngoài HCM là Nguyễn ái Quốc. Tuy nhiên chính ông ta đã nhiều lần phủ nhận điều này. Theo ông Hoàng Văn Chí ghi trong "Từ thực dân đến cộng sản - Một kinh nghiệm lịch sử của Việt Nam" , thì ông Hồ nhiều lần đã nói ông không phải là Nguyễn Ái Quốc! Rồi về phía người ngoại quốc cũng thế. “Ngay cả khi tướng Salan, đại diện Pháp dự cuộc đàm phán năm 1946, hỏi thẳng vào mặt ông Hồ, Y vẫn một mực chối cãi. Ông không phải là Nguyễn ái Quốc”.

Lại nữa, theo ông Phạm quế Dương trong bài, “HCM là thiếu tá Hồ Quang” có đoạn: “Ghi chú gia phả và sự nghiệp của Hồ Tập Chương trong hồ sơ HTC 4567 lưu trữ tại Quân Ủy Trung Ương (CPC) và tình báo Hoa Nam như sau: Đương sự được đảng cộng sản Trung cộng huấn luyện hơn một thập niên tại học viện Hoàng Phố, Vân Nam…Kết quả, Trung cộng dốc hết nhân lực, tài khi, tài vật lập ra một thế lực mới tại Việt Nam và tình báo Hoa Nam thổi lên một Hồ chí Minh làm chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng Hòa”. Điều này đúng hay sai thì chưa ai dám quả quyết, nhưng nó cho thêm một bằng chứng nữa là Thiếu tá Huguang sau đổi là Hồ chí Minh là một người Trung Hoa.

c. Sự nghiệp Hán hóa Việt Nam của thiếu tá Hồ Chí Minh.

Tóm tắt. Thiếu tá Huguang năm 1939, 38 tuổi, (sinh năm1901) sau đổi ra là Hồ Chí Minh. Theo tài liệu, ông ta ta đến công tác tại văn phòng bát lộ quân ở Quế Lâm sau đó là Qúy Dương, Côn Minh rồi đến Diên An, căn cứ đầu não của cộng sản Trung Quốc và và Hồng vệ binh của Trung quôc. Thiếu tá Huguang bước vào (trở về) địa giới Việt Nam lần đầu tiên vào ngày 28 tháng 01năm 1941. Đến tháng 8-1942 ông ta trở lại Trung quốc với cái tên mới là Hồ chí Minh và bị bắt vì giấy tờ đã hết hạn. Đến tháng 9-1944 HCM trở lại Việt Nam và cuối năm 1944 trở lại Côn Minh hoạt động cho tới đầu năm 1945(Wikipedia). Nhân cuộc tổng đình công tại Hà Nội đưa đến việc sụp đổ chính quyền của Việt Nam lúc bấy giờ, Việt Minh đã cướp lấy chính quyền vào ngày 2-9-1945. Tuy nhiên, cho đến lúc này, người ta không hề biết tung tích Hồ chí Minh là ai.

Việc này được kể lại trong” Truyện Hồ chí Minh” của William j. Duiker, trang 449, (cũng được trích lại trong bình sinh khảo) như sau: "Vào năm 1946, khi triệu tập Hội nghị Quốc dân đại hội, Bộ trưởng Lao động Nguyễn Văn Thái có đề nghị vinh danh Hồ Chí Minh là "công dân số một" của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Bởi lẽ, lúc ấy thân phận Hồ Chí Minh chưa được xác nhận là Nguyễn Ái Quốc (nhiều người cho rằng). Hồ Chí Minh chính là Hoa kiều tại Việt Nam, là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, là phái viên "Quốc tế cộng sản" được cử đến Việt Nam với nhiệm vụ thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.". Như thế họ chấp nhận vai trò lịch sử của HCM là người của quốc tế cộng sản hơn là người Việt nam!

Tuy nhiên, đến năm 1949, tin tức Hồ Chí Minh là Nguyễn Sinh Cung dần dần xuất hiện mạnh mẽ hơn. Nó mạnh mẽ mang tính chiếm đoạt hơn là vì cuốn “những mẫu chuyện về đời hoạt động của bác” do Trần dân Tiên viết đã được xuất bản bên Trung quốc. Và vì những người thân huyết thống, và liên hệ gần gũi trong sinh hoạt với Nguyễn Ái Quốc từ trước 1932 đã không còn:

- Bà Nguyễn Thị Thanh, chị ruột, chưa từng gặp lại Hồ Chí Minh từ khi Y vào Huế, rồi bị đuổi khỏi trường quốc học. Bà chết năm 1946.

- Ông Nguyễn sinh Khiêm, anh ruột, nghe nói được Hồ Chí Minh tiếp riêng khoảng 5 phút trong một căn nhà không đủ ánh sáng ở Hà Nội và chết năm 1951.

- Cụ Phan chu Trinh, người đỡ đầu cho Nguyễn Tất Thành ở Paris qua đời năm 1926.

- Luật sư Phan Văn Trường, mất 1933.

- Nguyễn Tất Thành, mất 1933?

- Nguyễn An Ninh người anh em kết nghĩa với Nguyễn Tất Thành ở Paris, mất 1943.

- Riêng ông Nguyễn thế Truyền, một trong ngũ long tạo ra cái tên chung là Nguyễn ái Quốc để viét báo ở Paris, đã về sống ở Hà nội trước 1945. Ông đã di cư vào miền nam và chưa hề gặp mặt HCM lần nào. đã chết vào 1969.

Đến năm 1951, khi đã vững chân với tên gọi mới, Thiếu tá Hồ Chí Minh bắt đầu thực hiện sách lược Hán hóa Việt Nam theo đường lôi của Trung quốc. Việc trước tiên là lệnh cho Trường Chinh viết lời kêu gọi “Việt Minh vận động cho Việt Nam xin làm chư hầu cho Trung quốc”. Đến năm 1958, chỉ đạo cho Phạm văn Đồng viết công hàm công nhận chủ quyền 12 hải lý thuộc Trung cộng trong vùng đảo Trường Sa, Hoàng Sa của Việt Nam. Từ đó mở ra cửa ngõ để những kẻ kế tiếp ký hiệp thương và hiệp định biên giới năm 1999 và năm 2000. Kết quả những phần đất của Bản Giốc, Nam Quan, Lão Sơn, bãi biển Tục Lảm và 3/4 vịnh bắc bộ là máu xương của Việt Nam biến thành đất của Trung cộng. Cũng từ đó, nhà nưóc cộng sản tại Việt Nam đã tạo ra cảnh không có biên giới trên biển đông để tàu bè của Trung cộng, cũng như giàn khoan của họ tự do ra vào đánh bắt cá, thăm dò dầu khi trong thềm lục dịa Việt Nam. Trên đất liền cũng có chung một chủ trương. Biên giới mở cửa, quân, cán và dân Trung cộng tha hồ ra vào tự đo. Họ vào định cư và làm việc nhiều đến nỗi chính nhà nước này cũng không còn kiểm soát đươc con số là bao nhiêu.

Trước cảnh bị mất đất, mất biển của cha ông để lại, người dân không được quyền lên tiếng. Nếu có phản đối thì đều bị bắt bớ, bị đánh đập dã man hay bị tù đày. Phần nhà nước, đã có sẵn kế hoạch trước những phản ứng của người dân. Họ liên kết với đối tác Trung cộng, vẽ ra những kế hoạch mới như: Tổ Hợp Khai Thác dầu khí Việt Trung, để cho Trung cộng tự do đưa các dàn khoan ra vào trên biển đông mà người dân không thể thắc mắc thêm. Trên đất liền thì cho Trung cộng thắng đấu thầu xây dựng toàn bộ các cơ sở hạ tầng, đến khu kỹ nghệ, khai thác rừng đầu nguồn, hầm mỏ… tất cả đều hợp lệ. Từ đó, Trung cộng tự do đưa dân quân cán ra vào và từ từ chiếm trọn lấy giang sơn Việt Nam theo kế hoạch Hán hóa dân nam do thiếu tá Hồ Chí Minh đã thực hiện từ năm 1939.

Thế là ta mất nước. Người Việt Nam thành dân mất nước ngay trên quê hương minh. Nhìn lại, có lẽ không còn một nỗi đau đớn nào dành cho chúng ta hơn nỗi đau này. Chúng ta đã mất quê hương, đã mất tổ quốc qua từng ngày từ hơn 80 năm qua mà không hay biết. Bởi vì Hồ Chí Minh, người được cộng sản ca tụng là lãnh tụ vĩ đại, là người sáng lập đảng CSVN, là chủ tịch đảng, là chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Thậm chí, còn nghêu ngao là “cha già dân tộc”, thực ra chỉ là một đảng viên đảng cộng sản Trung quốc. Là thiếu tá trong quân đội nhân dân Trung quốc. Y được chọn, được đào tạo để xâm nhập vào hàng ngũ CSVN bằng kế sách “ve sầu lột xác” sau khi Nguyễn Tất Thành cũng gọi là Nguyễn Ái Quốc chết vào năm 1933.

Ở đây, có cái rủi của thời khắc lịch sử là khi y được xếp đặt, chính thức chiếm đoạt cái tên Nguyễn Ái Quốc thì tất cả những người có liên hệ huyết thống hay có sinh hoạt gần gũi với Nguyễn tất thành trước năm 1932 đều đã không còn (ngoại trừ Hồ tùng Mậu đang ở trung tù và Trịnh đình Cửu mất tích). Nên chẳng có một ai đủ vị thế để lột mặt xác ve ra trước công luận.

Đã có thời khắc rủi ro như thế, những kẻ theo cộng sản vào đầu thập niên 40 như Phạm văn Đồng, Lê Duẫn, Võ Nguyên Giáp , Nguyễn duy Trinh, Hoàng văn Hoan… có thể không biết chuyện của xác ve do Trung quốc đạo diễn, chỉ thấy Y được Trung cộng dồn hết tài lực vật lực vào hỗ trợ. Lại thấy những đảng viên tên tuổi khác như Hà huy Tập, Trần Phú, Lê hồng Phong… đã chết, nên đã chấp nhận Hồ Chí Minh như là một cứu cánh của thời cuộc. Bởi lẽ từ chốn rừng hoang thâm u, nếu không có cơm gạo, lương thực, súng đạn, tiền bạc, nhân sự của Trung cộng gởi sang chi viện, CS lấy gì mà sống, nói chi đến việc tổ chức chiến đấu với Pháp. Nên những thành phần này chẳng còn một lối đi nào khác ngoài việc phải ủng hộ và chấp nhận sự sai khiến của Hồ Chí Minh, mà quên hẳn đi cái họa tàu xâm lược nước ta từ hàng nghìn năm trước.

Kết quả, cái lầm lẫn không biết từ buổi ban đầu trở thành cái ngoan cố bệnh hoạn về sau. Nghĩa là, lúc về chiều có lẽ thành phần chóp bu này đã biết được toàn bộ sự thật về câu chuyện ve sầu thoát xác. Nhưng không thể, hay không đủ can đảm mở ra. Hoạc giả, cái rễ lệ thuộc của họ bám vào Tàu quá sâu đậm, nên không thể quay lại được nữa. Họ đành nhắm mắt, ngậm miệng cho qua đời mình rồi nghiệp chướng, nếu có, dành đổ lên đầu những người đi sau. Nói cách khác, họ có thể chết, đảng cộng sản có thể bị tiêu diệt, nhưng sự thật về Hồ Chí Minh dầu như có đầy đủ bằng chứng “ve lột xác”, tập đoàn CS cũng không bao giờ dám lên tiếng. Chính cái sự ngoan cố đến bệnh hoạn của tập đoàn lãnh đạo CS này đã là nguyên nhân gây ra cái họa trăm năm cho dân tộc và cho đất nước ta.

Ta phải làm gì đây?

Câu hỏi này buộc vào chúng ta. Theo đó, những người Việt Nam còn có chút lòng với quê hương và với dân tộc Việt Nam, không thể ngồi yên mãi. Trái lại, phải trả lời. Phải cùng nhau đứng dậy. Phải ra khỏi nhà. Phải làm một công việc nhỏ bé nhất, cùng nói với nhau về trường hợp ve sầu thoát xác của Hồ Chí Minh. Dĩ nhiên, với sức tuyên truyền như thác dội của CS, người dân lúc đầu không để ý, cũng không tin. Nhưng chúng ta vẫn cương quyết làm công việc vạch mặt chỉ tên Hồ chí Minh là đảng viên đảng cộng sản Trung cộng, là thiếu tá trong quân đội nhân dân Trung quốc xâm lược. Y không phải là Nguyễn Tất Thành nhưng giả danh nghĩa của Nguyễn Ái Quốc trong mưu đồ Hán hóa Việt Nam. Câu chuyện càng có nhiều người nói, càng có cơ lan truyền rộng rãi. Khi cả nước đều ồn ào thắc mắc, hoặc giả, khi có 60, 70% dân chúng, cán bộ cùng đặt vấn đề giải mã sự thật về Hồ Chí Minh thì đó cũng chính là lúc, người dân tự đứng lên giải thể chế độ cộng sản. Và Việt Nam sẽ bước vào kỷ nguyên khôi phục lại toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền. Trái lại, nếu chúng ta cứ ngồi yên như thóc ngâm, đảng CSVN không bị giải thể, chuyện con cháu chúng ta phải học tiếng Tàu ngay trên đất nước mình để tìm sống không phải là chuyện xa vời.

60 năm ngày 20-7

danlambaovn.blogspot.com