Saturday, June 21, 2014

Ba nhà hàng ven biển cháy rụi, du khách hoảng loạn

(Dân trí) - Ngọn lửa sau khi bùng phát từ bếp nhà hàng Minh Nhật (Hải Hòa, Tĩnh Gia, Thanh Hóa) đã nhanh chóng lan sang hai nhà hàng bên cạnh khiến trong phút chốc, cả 3 nhà hàng đều bị thiêu rụi.

Vụ hỏa hoạn trên xảy ra vào khoảng 19h30’ ngày 21/6 tại ba nhà hàng Minh Nhật, Ngọc Hà và Thuận Thắng, trên khu du lịch biển Hải Hòa.
Theo những người dân có mặt tại hiện trường, ngọn lửa bùng phát từ khu vực nhà bếp của nhà hàng Minh Nhật, sau đó lan nhanh qua hai nhà hàng bên cạnh. 
Cả ba nhà hàng ven biển Hải Hòa đều bị thiêu rụi
Cả ba nhà hàng ven biển Hải Hòa đều bị thiêu rụi
Ngay sau khi nhận được tin báo, lực lượng PCCC tại khu kinh tế Nghi Sơn đã có mặt ngăn chặn đám cháy. Tuy nhiên do ngọn lửa lớn nên phải hơn nửa tiếng đám cháy mới được khống chế.  
Tại hiện trường, 3 nhà hàng bị thiêu rụi. Rất may không có thiệt hại về người, tuy nhiên thiệt hại về tài sản ước tính 2-3 tỷ đồng. Do vào dịp cuối tuần nên khách có mặt tại các nhà hàng khá đông, hàng trăm du khách ở đây bị một phen hoảng loạn.
Hiện nguyên nhân vụ hỏa hoạn vẫn đang được cơ quan chức năng tiếp tục điều tra làm rõ.
Chủ Nhật, 22/06/2014 - 09:11
Nguyễn Thùy

Từ Nguyễn Bắc Việt đến Nguyễn Khoa Điềm, bàn về con người và cơ chế CS


Trần Trung Đạo (Danlambao) - Nhận bài thơ Đất nước những năm thật buồn dưới đây khá lâu. Đọc xong và tính viết một bài nhận xét nhưng bận quá quên đi. Mãi cho đến mới đây, nhờNguyễn Bắc Việt, Thường vụ Tỉnh ủy, Đại biểu Quốc hội đơn vị Bình Thuận với câu nói để đời về vụ giàn khoan HD981 “phải biết đau lòng với tình hình hiện nay của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế”, tôi mới sực nhớ đến bài thơ đó. 

Nhắc lại hôm đọc xong bài phát biểu của Nguyễn Bắc Việt trước Quốc hội CSVN, tôi phải google cho ra tấm hình để xem y dáng dấp ra sao. Tôi sẽ thông cảm nếu đương sự là cụ già còn sót lại từ thế hệ Tân Trào hay Pác bó. Không. Nguyễn Bắc Việt còn khá trẻ, sinh năm 1961, trình độ học vấn thạc sĩ nhưng khi phát biểu lại giống như sinh năm 1930, trình độ học vấn mù chữ.

Hôm nay trên quần đảo Hoàng Sa của tổ tiên để lại, Trung Cộng đã xây dựng sân bay, khách sạn, thư viện, đường phố, bưu điện và mới đây còn tiến hành xây trường học để phục vụ việc học hành cho gần hai ngàn dân cư trên đảo mà Nguyễn Bắc Việt không biết nhục, không biết lo lại lo “Hai nước xã hội chủ nghĩa lình xình với nhau như thế này, ai có lợi?”. 

Nếu không sống trong thời đại google, youtube, không chính tai nghe Nguyễn Bắc Việt nói thật khó mà tin. Với một não trạng bị cơ chế hóa trầm trọng như thế, không dễ làm cho anh ta thức tỉnh. Áp dụng kinh nghiệm Liên Xô như Yuri Alexandrovich Bezmenov phát biểu trước đây, dù có mang anh Nguyễn Bắc Việt này “tới tận Liên Xô và chỉ cho anh ta thấy trại tập trung, anh ta cũng không tin... cho đến lúc anh ta bị đá ngay vào đít, khi giày đinh đạp lên anh, rồi anh ta mới hiểu. Nhưng không phải trước đó. Đó là thảm kịch của trình trạng bị băng hoại về đạo đức trong con người.” 

Trở lại với bài thơ Đất nước những năm thật buồn. Bài thơ chuyên chở một nội dung rất bi quan về tương lai đất nước. Rất buồn. Từng câu, từng chữ đều nói lên tâm trạng gần như chán chường của tác giả trong một không gian cũng vô cùng quạnh hiu “yên vắng”. 

Đất nước những năm thật buồn
Nửa đêm ngồi dậy hút thuốc vặt
Lần mò trên trang mạng tìm một tin lành
Như kẻ khát nước qua sa mạc
Chung quanh yên ắng cả
Ngoài đường nhựa vắng tiếng xe lại qua
Người giàu, người nghèo đều ngủ
Cả bầy ve vừa lột xác

Sao mình thức?
Sao mình mải mê đeo đuổi một ngày mai tốt lành?

Bây giờ lá cờ trên Cột cờ Đại Nội
Có còn bay trong đêm
Sớm mai còn giữ được màu đỏ?
Bây giờ con cá hanh còn bơi trên sông vắng
Mong gặp một con cá hanh khác?
Bao giờ buổi sáng, buổi chiều nhìn ra đường
Thấy mọi người nhẹ nhàng, vui tươi
Ấm áp ly cà phê sớm
Các bà các cô khỏe mạnh yêu đời
Hớn hở tập thể dục
Bao giờ giọt nước mắt chảy xuống má
Không phải gạt vội vì xấu hổ
Ngước mắt, tin yêu mọi người

Ai sẽ nắm vận mệnh chúng ta
Trong không gian đầy sợ hãi?
Những cây thông trên núi Ngự Bình thấp thoáng ngọn nến xanh
Đời đời an ủi
Cho người đã khuất và người sống hôm nay…

Nửa đêm thức dậy thắp điếu thuốc, đọc tin tức mong sao có một tin vui. Nhưng không. Chung quanh tác giả chỉ là những tin buồn, tin xấu. Đất nước cũng như tác giả chẳng khác gì một “kẻ khát nước qua sa mạc”, đang lê bước giữa gió cát mênh mông, cô đơn, trống trải và hơn bao giờ hết đang quá cần một giọt nước để hồi sinh. Dường như không ai, dù kẻ nghèo hay người giàu, mang nặng lo âu và khát vọng sâu thẳm về đât nước như tác giả. Nhà thơ viết như thét lên với bóng đêm “Ai sẽ nắm vận mệnh chúng ta. Trong không gian đầy sợ hãi?". Chữ “Ai” trong bài thơ chứa đầy phẫn uất của những oan hồn vọng lại giữa đêm khuya. Và “sợ hãi”, một danh từ đồng nghĩa với bóng đen, xiềng xích, ngục tù, một loại vi khuẩn mà ai sống dưới chế độ CS cũng bị cấy trong người. 

Tác giả của bài thơ chứa đựng niềm u uất đó là ai?

Một trí sĩ ẩn cư như “cây thông trên núi Ngự Bình” âm thầm dùng ngòi bút để diễn tả tâm trạng mình trước vận nước ngả nghiêng? Một nhà cách mạng đang can đảm vượt qua nỗi sợ để đi về phía sự thật? Một nhà thơ có trái tim nhân bản đang đau cùng nỗi đau đất nước? 

Không phải. Tất cả đều sai. Tác giả bài thơ đó là Nguyễn Khoa Điềm. Không xa lạ gì. Không chỉ người dân Huế mà cả nước đều biết tên tuổi ông ta. Chỉ vài năm trước đó tác giả là ủy viên Bộ chính trị, Bí thư Trung ương đảng, Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin, rồi Trưởng ban Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong suốt mười năm, tác giả kiểm soát mạch sống tinh thần của toàn xã hội Việt Nam.

Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng CSVN trong nội quy của đảng CS là “Cơ quan tham mưu của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, trực tiếp và thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư trong công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, về chủ trương, quan điểm và chính sách của Đảng trong lĩnh vực tuyên truyền, báo chí, xuất bản, văn hoá, văn nghệ, khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo và một số lĩnh vực xã hội; đồng thời là cơ quan chuyên môn - nghiệp vụ về các lĩnh vực công tác này của Đảng.” 

Tuyên truyền cùng với khủng bố tạo thành xương sống của mọi chế độ độc tài. Nếu Hitler không có bộ máy tuyên truyền của Joseph Goebbels chế độ Đệ Tam Quốc Xã Đức không thể giết 6 triệu dân Do Thái và 50 triệu người châu Âu trong thế chiến thứ hai. Trước Goebbels, trong cách mạng CS Nga 1917, công việc đầu tiên Lenin phải làm ngay là thành lập cơ quan tuyên truyền và trong giai đoạn đầu còn do chính y đích thân lãnh đạo. Tại Trung Cộng cũng vậy, trong đại hội đảng CS Trung Quốc lần đầu vào năm 1921 chỉ bầu ra vỏn vẹn ba ủy viên trung ương nhưng một trong ba ủy viên đó chịu trách nhiệm tuyên truyền. 

Hệ thống tuyên truyền CS tại Việt Nam kế thừa hai hệ thống tuyên truyền Trung Cộng và Liên Xô tinh vi và độc hại. Chức vụ của Nguyễn Khoa Điềm tương đương với chức vụ Bộ trưởng Tuyên truyền của Joseph Goebbels trong thời Đức Quốc Xã, chức Giám đốc cơ quan Agitatsiya của R. Katanian do Lenin thành lập vào tháng Tám năm 1920 hay chức Trưởng ban Tuyên truyền thuộc trung ương đảng Cộng Sản Trung Quốc của Lý Đạt vào tháng Bảy năm 1921. Về tài năng Nguyễn Khoa Điềm, dĩ nhiên, không thể so sánh với “Thiên tài đen” Joseph Goebbels hay R. Katanian người tin cẩn của Lenin nhưng chức năng của Bộ Tuyên truyền Đức Quốc Xã và nhiệm vụ của Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng CSVN không khác gì nhau lắm. 

Làm thế nào một người trước đó không lâu lãnh đạo một ban ngành có chức năng đầu độc, tẩy não cả một thế hệ Việt Nam, ngăn chận mọi tự do sáng tạo, cố giữ đất nước trong tận cùng lạc hậu và cô lập từ thế giới văn minh bên ngoài lại nhanh chóng trở thành một người mang ước vọng vươn lên cao, vượt ra biển rộng như diễn tả trong bài thơ Đất nước những năm thật buồn?

Làm thế nào một người trước đó không lâu áp đặt một tư tưởng chính trị lạc hậu lên cả nước, một nền giáo dục ngu dân chỉ đào tạo ra những con vẹt như Nguyễn Bắc Việt lại nhanh chóng trở thành một kẻ có tâm hồn khắc khoải trước thời thế, khóc thương cho vận nước nổi trôi trong bài thơ Đất nước những năm thật buồn?

Có hai Nguyễn Khoa Điềm? Có hai nhân cách Nguyễn Khoa Điềm trong cùng một con người theo kiểu bịnh tâm lý đa nhân cách (Multi Personality Disorder)? Một Nguyễn Khoa Điềm nhưng đã lột xác, phản tỉnh? Một Nguyễn Khoa Điềm sống thật và một Nguyễn Khoa Điềm sống giả? 

Không. Chỉ một Nguyễn Khoa Điềm, không lột xác, không phản tỉnh, không đa nhân cách, không giả hay thật nhưng chỉ sống trong hai thời điểm khác nhau, khi còn trong bộ máy toàn trị và khi ở ngoài bộ máy cai trị. Đó chính là sự khác nhau giữa con người và cơ chế CS. 

Nguyễn Khoa Điềm thừa nhận điều này: “Bây giờ tôi chỉ còn chường cái mặt tôi ra trong thơ. Thơ thì phải nói thật lòng mình, không thể giấu mình, không thể nói dối... Việt Nam chúng ta lại quan niệm văn học là đạo lý, trách nhiệm... nên gò bó sự sáng tạo cũng như hạn chế sự thổ lộ. Trong khi văn chương phải thể hiện cái đẹp nội tâm của con người. Gần đây ý thức như vậy đã có, nhưng chưa đủ. Vì vậy tôi đã nghỉ hưu, nhưng nhiều người lãnh đạo mong tôi phải thế này thế kia, phải làm thơ ngợi ca, phải hô hào tiến lên... Vừa rồi khi tôi công bố một số bài thơ trên báo sau khi về Huế, có rất nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí có người chê trách tôi “đổi giọng”, nhưng tôi không quan tâm.

Trong năm 2011, Nguyễn Khoa Điềm còn đi xa hơn khi phê bình Quốc Hội CSVN về chủ trương chống nhân dân biểu tình trong bài thơ Nhân Dân: 

“…Nhưng trên diễn đàn cao nhất nước
Có người nói nhân dân chưa đủ trí tuệ
Để hưởng luật biểu tình!
Tôi nghĩ mãi
Ai đã bầu ra ông nghị này nhỉ?
Sao lại sợ nhân dân biểu tình?
Không!
Sự sợ hãi không cứu được chúng ta
Mà chính là sự can đảm
Đi tới dân chủ…”

Thế nhưng, khi còn là Trưởng Ban Văn Hóa Tư tưởng Trung ương Đảng Nguyễn Khoa Điềm lại là người chủ trương trấn áp những tiếng nói biện hộ cho quyền tự do, dân chủ. Nhà thơ Đỗ Hoàng viết trong blog của ông, Nguyễn Khoa Điềm đã “trù úm Hoàng Minh Chính, bắt nhà văn Dương Thu Hương, bôi nhọ Trần Độ, loại bỏ nhiều nhà bất đồng chính kiến, đàn áp những người đòi tự do dân chủ, cấm mạng , cấm internet, đốt thành tro bụi nhưng tập sách như Học phí trả bằng máu của Nguyễn Khắc Phục, Chuyện kể năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn, Chúa trời ngù gật của Nguyễn Dậu, Tâm sự người lính của Đỗ Hoàng...” 

Ngoài ra, nhà báo Trần Dũng Tiến trong bài “Chất Vấn Các Ông Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Hồng Vinh” viết nhân dịp Kỷ niệm 77 năm Ngày Nhà Báo Việt Nam: “Thật là đáng nghi ngờ và đáng hổ thẹn cho những người cầm đầu Văn hóa Tư tưởng của Đảng ta ! Đảng ta luôn nói vì nước vì dân và tôn trọng tự do báo chí nhưng các ông Điềm, Vinh lại làm ngược lại. Từ ngày 2 ông lên chức cầm đầu Ban VHTT/TƯ các ông đã gây bao nhiêu cảnh rối loạn trong xã hội từ việc bắt giam cựu chiến binh Vũ Cao Quận đến việc quản chế nhà văn Bùi Minh Quốc chỉ vì nhà văn đi thực tế ở mấy tỉnh biên giới mà họ sợ anh sẽ viết về nỗi nhục nhượng đất đai tổ quốc của những người lãnh đạo vừa qua. Từ vụ quản chế Hà Sĩ Phu, Trần Khuê, bỏ tù các trí thức trẻ như Lê Chí Quang, Phạm Hồng Sơn, Nguyễn Khắc Toàn... đến việc cắt điện thoại vừa trái luật pháp vừa trái đạo lý đến nỗi cắt mà không dám công khai tuyên bố điên thoại của Hoàng Minh Chính, Phạm Quế Dương, Trần Dũng Tiến, Hoàng Tiến, Nguyễn Thanh Giang, Nguyễn Vũ Bình...”

Không chỉ nhận xét của nhà thơ Đỗ Hoàng và nhà báo Trần Dũng Tiến mà chính Nguyễn Khoa Điềm qua vô số bài phát biểu trong các hội nghị văn hóa tư tưởng, các buổi học tập v.v. đều không khác tham luận của Nguyễn Việt Bắc đọc trước Quốc Hội bao nhiêu. Một đoạn tường thuật từ Hội nghị công tác tư tưởng văn hoá toàn quốc 2005, trong đó Nguyễn Khoa Điềm phát biểu: “Xuất phát từ tình hình trên, công tác tư tưởng văn hoá năm 2005 có trách nhiệm rất quan trọng và nặng nề đòi hỏi sự thống nhất cao về nhận thức tư tưởng trong toàn Đảng, phát huy tính năng động, cổ vũ những điển hình tiên tiến, những nhân tố tích cực của toàn xã hội, phát huy sức mạnh đại đoàn kết trong Đảng, đại đoàn kết toàn dân tộc. Công tác tư tưởng văn hoá phải đáp ứng yêu cầu đấu tranh chống lại các biểu hiện tiêu cực, trong xã hội, đấu tranh chống lại âm mưu “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch”

Một cô gái vì hoàn cảnh phải bán thân nuôi miệng nhưng không làm hại nhiều người. Nguyễn Khoa Điềm bán lương tâm, nhân cách, sĩ khí để nuôi miệng nhưng di hại đến nhiều thế hệ. Khác với hoàn cảnh của cô gái bán thân, hành vi của Nguyễn Khoa Điềm không chỉ có tính cách cá nhân mà còn mang trách nhiệm xã hội. 

Trách nhiệm xã hội là gì? 

Trách nhiệm xã hội là nguyên tắc mà một người hay một tổ chức phải hành xử lợi ích riêng tư trong sự tôn trọng phúc lợi, an nguy chung của cộng đồng xã hội. Nhà kinh tế Richard Whately phát biểu “Một kẻ bị xem như là ích kỷ không phải vì y chỉ biết lo cho quyền lợi của cá nhân mình nhưng bởi vì y bỏ qua quyền lợi của những người chung quanh”. 

Nhân loại đang chạy đua phát minh khoa học kỹ thuật trong một thế giới mỗi ngày càng nhỏ hẹp dần. Nhiều tiến bộ kỹ thuật được xem là cách mạng hai, ba chục năm trước nay đã lỗi thời. Kỹ thuật hóa được phát triển song song với toàn cầu hóa. Bên cạnh đó, các đổi mới kinh tế chính trị cũng diễn ra nhanh không kém. Nhìn về hướng Đông Âu, các dân tộc đã hồi sinh sau 70 năm dài nô lệ trong ý thức hệ CS. 

Ba Lan là một bằng chứng hùng hồn về phát triển kinh tế. Cộng Hòa Ba Lan, quốc gia bị cắt từng mảnh nhỏ trong mật ước Molotov-Ribbentrop Pact giữa Đức và Liên Xô, quốc gia đầu tiên chịu đựng gót giày xâm lược của Đức Quốc Xã trong thế chiến thứ hai, tuy nhiên, Ba Lan cũng là một nước có nền kinh tế mạnh nhờ liên kết chặt chẽ với Đức hiện nay. Các lãnh đạo Ba Lan học quá khứ nhưng không ai sống trong quá khứ như các lãnh đạo CSVN. 

Trong lúc “bóng ma chủ nghĩa cộng sản” mà Karl Marx dùng để thách thức quyền lực của các nhà nước tư sản giữa thế kỷ 19 trong Tuyên Ngôn Đảng Cộng Sản, đã chìm vào quá khứ và đại đa số nhân loại đang hăng say tiến bước trên con đường dân chủ hóa, tại Việt Nam bịnh sùng bái cá nhân, tôn thờ lãnh tụ vẫn còn đang chế ngự trong hầu hết các lãnh vực của đời sống văn hóa và tinh thần đất nước. Không một giáo án, giáo trình, diễn văn, tham luận, tuyên ngôn, tuyên cáo nào mà không trích dẫn vài câu nói của các lãnh tụ CS. Sự nô lệ tri thức như là một loại vi trùng sinh sôi và lan rộng trong từng con người, qua nhiều thế hệ, xói mòn và tàn phá tính khai phóng, làm thui chột tính sáng tạo trong con người. 

Trong lúc ở một phần lớn thế giới, những tác phẩm của Marx, Engels chỉ còn trong thư viện nghiên cứu, hàng triệu học sinh, sinh viên Việt Nam vẫn phải học thuộc một cách từ chương mỗi ngày những khái niệm, những định nghĩa sai lầm và lỗi thời. Phương tiện internet đã giúp cho một số người Việt có điều kiện đọc các nguồn tin mới nhưng con số những người may mắn đó vẫn còn quá nhỏ so với 90 triệu dân Việt Nam. Đất nước tuy không còn những đại lộ kinh hoàng, những cánh đồng nhuộm máu nhưng đã mọc lên thêm rất nhiều nhà tù, nơi đó, hàng trăm, hàng ngàn người Việt Nam yêu nước vẫn còn bị giam cầm chỉ vì nói lên khát vọng tự do dân chủ, chỉ vì tranh đấu cho chủ quyền biển đảo Việt Nam.

Suốt 10 năm từ 1996 đến 2006, Nguyễn Khoa Điềm là người trực tiếp chịu trách nhiệm cho sự băng hoại tri thức của cả một thế hệ trẻ Việt Nam, biến nhiều trong số họ thành những kẻ bị tàn tật tâm thần, sống trong hoang tưởng, mê muội như trường hợp Nguyễn Bắc Việt. 

Trước một chủ nghĩa bành trướng Đại Hán quá mạnh, quá đông, quá giàu, quá hung bạo, quá lưu manh không những có khả năng đánh Việt Nam từ trên đầu, từ ngoài biển, từ trên không, lẽ ra Việt Nam phải mở tung mọi cánh cửa, chạy đua với thời gian để học hỏi, thu thập mọi cái hay cái đẹp của nhân loại làm vốn liếng cho mình. Nhưng không, suốt 10 năm, thời gian nguy kịch của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm lại tìm cách che đậy, đóng kín mọi nguồn thông tin, giết chết những cố gắng vươn xa của thế hệ trẻ, nhồi nhét vào nhận thức của các em một thứ ý thức hệ CS mà phần lớn nhân loại đã ném vào sọt rác.

Trong lúc phần đông những người thuộc thế hệ “nhảy núi” ở Huế bị lãng quên và ngay cả có người bị bạc đãi như trường hợp Trần Vàng Sao, Nguyễn Khoa Điềm may mắn được thăng quan tiến chức. Nhiều nguồn tin cho rằng sau khi bị loại ra khỏi bộ máy quyền lực và danh lợi sớm hơn tuổi về hưu, ông ta phẩn uất làm thơ “dân chủ” như một cách khiêu khích, châm chọc vào điểm khó chịu của giới cầm quyền. Có lẽ ngoại trừ ông Trần Xuân Bách, hầu hết các lãnh đạo CS chỉ nói đến dân chủ tự do sau khi bị cho về vườn. 

Những lời tố cáo, mỉa mai, châm biếm ông có thể đúng hay sai. Tuy nhiên, nếu ông Nguyễn Khoa Điềm nếu bình tâm suy nghĩ, sẽ biết những bài thơ ông mới viết dù ca ngợi tự do dân chủ thật sự cũng chẳng làm cho giới lãnh đạo CS quan tâm, chẳng đánh tan được sự nghi ngờ, oán trách từ những người vốn là nạn nhân của ông, chẳng nối lại tình bạn từ những người ông tránh né họ trước đây và nhất là không thể xóa hết tội lỗi vì đã góp phần hủy diệt, tàn phá đời sống tinh thần bao nhiêu triệu thanh niên trong suốt 10 năm ông lãnh đạo ngành tẩy não. 

Đức Đạt Lai Lạt Ma giảng “Cầu nguyện không thay đổi được nghiệp mà chỉ hành động mới làm thay đổi nghiệp”. Dĩ nhiên hành động trong ý ngài không phải là bỏ tù, trấn áp, bịt miệng, khóa tay người khác nhưng là làm việc thiện, gieo mầm nhân lên một đất nước đã quá nhiều chịu đựng. Trong tinh thần đó, mong rằng, ít nhất một lần trong đời thay vì chỉ làm thơ , ông Nguyễn Khoa Điềm hãy chứng minh bằng hành động lời ông nói “Sự sợ hãi không cứu được chúng ta. Mà chính là sự can đảm. Đi tới dân chủ…”. Can đảm lên để đi tới dân chủ. Mong lắm thay. 


PICS:Đốt tiền tỷ chơi sang, dân đổi mạng sống qua suối

(Baodatviet.vn) - Không khó để thấy những ngôi biệt thự bỏ hoang ở Thủ đô, còn tại những vùng miền núi vẫn còn những cảnh qua suối không khỏi rợn tóc gáy.


Tại khu vực Mễ Trì, Hà Nội thay vào những ruộng lúa giờ đây là khu đô thị mọc lên san sát. Thế nhưng suốt thời gian qua những đô thị này mọc lên rồi.... bỏ hoang.

Tiếc của, ngày mùa, dân tận dụng để phơi thóc phơi rơm. Những ngôi biệt thự tiền tỷ trở thành nơi lý tưởng của bà con nông dân trong những ngày mùa đến.


Tại Khu Công nghệ cao Hòa Lạc cũng xảy ra tình trạng tương tự. Những diện tích đất chưa được lấp đầy khiến cỏ mọc và trở thành nơi chăn thả gia súc lý tưởng.

Rồi những khoảnh đất được xem là 'đất Vàng' ở Hà Nội cũng chỉ để... bán bia hơi.

Những trụ sở nguy nga vẫn mọc lên đều tại các địa phương trên cả nước dù con số nợ công không ngừng tăng lên. Tính đến ngày 13/6, nợ công của Việt Nam đang ở mức trên 81,885 tỷ USD; bình quân nợ công theo đầu người là 905,18 USD.

Phải gánh trên mình số nợ công lớn nhưng đâu đó vẫn còn thiếu những cây cầu qua suối.

Ngay tại bản Sam Lang, xã Nà Hỳ, huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên cả học sinh và cô giáo phải đến trường hàng ngày bằng phương tiện quen thuộc đó là... chui vào túi nilon

Kể cả chuyện đu dây như những diễn viên xiếc cũng được người dân ở một làng không tên tại Đắk Nông, huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum vượt sông Pô Kô hàng ngày thực hiện.

Có người ước rằng, giá như có thể bớt được những căn biệt thự tiền tỉ bỏ hoang lãng phí để bù vào xây những cây cầu cho học sinh đi qua thì có lẽ các em sẽ hạnh phúc biết nhường nào.

Chủ Nhật, 22/06/2014 06:36

Mực tươi sủi bọt, giò lụa phát sáng

(Baodatviet.vn) - Một người dân mua mực ở chợ Phúc Yên (Vĩnh Phúc) , khi về sơ chế mực, càng rửa chị này càng thấy nước đục ngàu, sủi bọt.
Chị Giang, người gặp phải trường hợp mực sủi bọt, đục ngàu trên bức xúc:  “Chỗ mua là người quen thân, quảng cáo là mực tươi ngon, mình to, dầy, 4 con 1 kg. Vậy mà mua về rửa mãi vẫn không hết nhớt, nước lại đục và sủi bọt như xà phòng, cảm thấy không yên tâm nên tôi đành vứt bỏ. Gần 200.000 bỏ ra không tiếc, chỉ thương mấy đứa nhỏ đang thèm mực mà không được ăn”.
Anh Hoàng Hòa, dân biển chuyên buôn tôm, mực Nam Định – Hà Nội kể lại, có lần tới nhà bạn bán hải sản ở Hà Nội uống rượu, một người trên bàn nhậu khát nước lấy nhầm nước ở thùng đựng ôxy chuyên để ngâm mực uống, đưa tới viện cấp cứu thì đã chảy máu dạ dày nặng rồi.
Chị Linh Giang mua phải mực bị nghi đã ngâm hóa chất tại chợ Phúc Yên, Vĩnh Phúc (ảnh do nhân vật cung cấp).
Chị Linh Giang mua phải mực bị nghi đã ngâm hóa chất tại chợ Phúc Yên, Vĩnh Phúc (ảnh do nhân vật cung cấp).
Anh Hòa cho biết, mực ngâm hóa chất Trung Quốc hiện bán lẻ tại các chợ giá rất rẻ, chỉ 105.000/kg trong khi mực của dân đi biển bán trực tiếp cho khách giá rẻ nhất cũng 230.000/kg.
Chị Mai Thị Thu Phương, chủ hàng hải sản Hạ Long tại Hà Nội khẳng định, mực tươi rửa vẫn ra ít nhớt và bọt nhưng chỉ cần xả dưới vòi nước một lúc là hết chứ không có chuyện sủi bọt như xà phòng và đục màu nước gạo như vậy.
“Giờ mực Trung Quốc, mực ngâm hóa chất nhiều lắm. Ở Hạ Long – Cẩm Phả khách du lịch không tinh còn mua nhầm đầy ra chứ đừng nói ở các tỉnh”. Chị Phương chia sẻ cách chọn mực tươi ngon là mắt mực phải sáng, tròng mắt rõ viền. Mực còn sống da nhấp nháy ánh lên rất đẹp, khi được cấp đông mình mực có đốm màu ánh hồng – đỏ.
Thời gian gần đây liên tiếp xuất hiện những thực phẩm, hải sản....với nhiều biến đổi lạ. Trước đó không lâu tại Quảng Ninh, xuất hiện trường hợp giò lụa phát sáng trong đêm.
Gió lụa phát sáng, không tìm thấy chất lạ trong giò
Ngày 22/5, anh Đỗ Văn Tuấn (làng chài Cửa Vạn, Hạ Long) mua 2 lạng giò lụa từ nguồn một người bán tạp hóa của anh Nguyễn Văn Lưu, trên làng chài Cửa Vạn mang về nhà. Sau đó anh Tuấn bất ngờ phát hiện miếng giò mình mua có tình trạng phát sáng kỳ lạ.
Anh Tuấn đã gọi một số người dân sống quanh nhà mình đến xem. Khi được chứng kiến, lúc đó là 1h đêm, mọi người không khỏi ngỡ ngàng khi miếng giò phát ra ánh sáng màu xanh dương.
Hình ảnh miếng giò phát ánh sáng hình xanh dương
Hình ảnh miếng giò phát ánh sáng hình xanh dương
Mọi người mang một miếng giò lụa mua ở nơi khác ra để so sánh thì thấy miếng giò này không phát sáng trong điều kiện tương tự như miếng giò mà anh Tuấn mua.
Ngay sau đó, Đoàn kiểm tra liên ngành về an toàn vệ sinh thực phẩm TP.Hạ Long đã đến lấy mẫu tại gian hàng được cho là nguồn cung cấp số giò lụa phát sáng và một số cơ sở kinh doanh sản xuất giò chả khác tại chợ Hạ Long 1 để kiểm tra.
Sau hơn 1 tuần xác minh, Chi cục An toàn vệ sinh thực phẩm tỉnh Quảng Ninh cho biết, không tìm thấy chất cấm như foocmol, hàn the hay chất phát quang trong giò chả được lấy mẫu.
Cùng lúc, Viện Kiểm nghiệm an toàn thực phẩm Quốc gia cũng vừa có kết quả kiểm nghiệm 3 mẫu giò, trong đó 2 mẫu giò chả làm thực phẩm và một mẫu giò lụa trước đó phát sáng do anh Tuấn mua về, tất cả đều không chứa chất phát sáng huỳnh quang.
Chủ Nhật, 22/06/2014 06:31
Mạnh Hùng (Tổng hợp)

Vì sao Nga không ủng hộ Trung Quốc ở Biển Đông?

(Kienthuc.net.vn) - Vì nhiều nhân tố chiến lược và chính trị, Moscow không thể ủng hộ các tham vọng của Bắc Kinh ở Biển Đông. 

Sau hàng loạt các hành động hung hăng của Trung Quốc ở Biển Đông, đặc biệt là hành động đơn phương hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng biển Việt Nam, Trung Quốc đã bị nhiều nước trên thế giới như Mỹ, Nhật lên tiếng chỉ trích. Tuy nhiên, Nga, “đối tác chiến lược” của Trung Quốc, vẫn chưa bày tỏ lập trường gì về vấn đề Biển Đông.
Điều đó khiến một số nhân vật ở Bắc Kinh nổi giận vì cho rằng mối quan hệ Nga – Trung không tốt đẹp như họ từng nghĩ. Ngay cả về tranh chấp Nhật - Trung đối với quần đảo Senkaku/Điếu Ngư trên biển Hoa Đông, Nga cũng thể hiện lập trường không rõ ràng.

 
Mối quan hệ giữa Nga và Trung Quốc không thân mật như Trung Quốc tưởng?

Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa Nga “hai lòng” trong mối quan hệ với Trung Quốc mà có các nhân tố phức tạp về chính trị và chiến lược khiến Nga phản ứng như vậy.
Thứ nhất, mối quan hệ Nga – Trung khác với mối quan hệ Mỹ - Philippines. Trung Quốc và Nga không phải là đồng minh. Hai nước không ký hiệp ước nào trong khi Mỹ và Philippines cũng như Mỹ và Nhật Bản có các hiệp ước an ninh song phương.
Trong mối quan hệ đồng minh, mỗi bên có nghĩa vụ ủng hộ về chính trị và thậm chí cả quân sự đối với bên kia. Trong quan hệ quốc tế, đây là hình thức cao nhất của quan hệ song phương. Mặc dù mối quan hệ Nga – Trung có một số điểm thể hiện mối quan hệ chiến lược toàn diện, hai bên vẫn chưa ký kết hiệp ước có tính ràng buộc.
Từ lâu, truyền thông Trung Quốc vẫn nhấn mạnh và đề cao các nhân tố tích cực trong mối quan hệ Nga – Trung và truyền thông hải ngoại thậm chí còn đề cao quá mức mối quan hệ này. Có lúc, một số tờ báo còn cho rằng Nga và Trung Quốc đã là “đồng minh” chỉ còn thiếu một hiệp ước chính thức. Điều đó khiến một số nhân vật ở Trung Quốc tin rằng Nga – Trung đã có mối quan hệ hợp tác chính trị vô cùng rộng lớn giúp cải thiện mạnh mẽ môi trường an ninh của Trung Quốc.
Tuy nhiên, những gì thực sự diễn ra trong các mối quan hệ quốc tế cho thấy bất kể mối quan hệ Nga – Trung tốt đẹp tới đâu, điều đó cũng không làm ảnh hưởng tới chính sách của Nga về Biển Đông và biển Hoa Đông. Trên thực tế, mối quan hệ Nga – Trung cơ bản dựa trên nguyên tắc “đôi bên cùng có lợi”. Biển Đông không phải là nơi Nga có thể mở rộng các lợi ích và cũng không cần thiết phải can thiệp vào vùng biển này. Trung Quốc không thể diễn giải sai bản chất mối quan hệ Nga – Trung và kỳ vọng quá nhiều vào Nga.
Thứ hai, Nga có mối quan hệ tốt đẹp với các quốc gia nằm xung quanh Biển Đông và không cần thiết phải khiến các nước này “mếch lòng” để bảo vệ lợi ích của Trung Quốc. Nga không lên tiếng công khai ủng hộ Trung Quốc về vấn đề Biển Đông và một trong những nguyên nhân quan trọng là Moscow muốn duy trì quan hệ tốt đẹp với các quốc gia Đông Nam Á.
Mối quan hệ Việt – Nga là một ví dụ. Trước đây, Liên Xô có mối quan hệ gần gũi với Việt Nam hơn với Trung Quốc. Nhờ sự ủng hộ mạnh mẽ của Liên Xô, Việt Nam đã chiến thắng Mỹ. Sau khi Liên Xô sụp đổ, Nga thừa hưởng mối quan hệ này. Không có cản trở lớn nào trong mối quan hệ Việt – Nga và đặc biệt có một lĩnh vực giúp mối quan hệ hai nước gắn bó chính là quốc phòng. Nhiều vũ khí của Việt Nam được sản xuất ở Nga trong đó có tàu ngầm lớp Kilo, vũ khí giúp cải thiện sức mạnh của Hải quân Việt Nam. Ngoài ra, vào cuối năm 2014, Nga sẽ giao thêm 4 chiếc máy bay chiến đấu SU-30MK2 cho Việt Nam.
Nga cũng có mối quan hệ tốt đẹp với Philippines. Hai năm trước, 3 tàu Hải quân Nga (trong đó có tàu khu trục chống tàu ngầm Admiral Panteleyev) đã tới Manila trong 3 ngày. Theo phía Nga, chuyến thăm này sẽ giúp cải thiện mối quan hệ Nga – Philippines.
Thứ ba, Nga không cần thiết phải đối đầu trực tiếp với Mỹ về Biển Đông. Hiện Nga đang tập trung vào châu Âu, đặc biệt là cuộc khủng hoảng Ukraine đã khiến đối cầu giữa Nga và phương Tây trở nên vô cùng căng thẳng. Vấn đề đó không thể được giải quyết nhanh chóng. Trong bối cảnh đó, Nga cũng không mong muốn hoặc không có đủ năng lực để đối đầu Mỹ trên Biển Đông.
Ngoài ra, các cuộc tranh chấp trên Biển Đông không phải là tranh chấp giữa Trung Quốc và Mỹ mà là giữa Trung Quốc và các quốc gia Đông Nam Á. Mỹ chỉ là nhân tố gây ảnh hưởng, không phải nhân tố quyết định tương tai của Biển Đông. Trong bối cảnh đó, Nga với tư cách là quốc gia bên ngoài không có lý do gì để hậu thuẫn Trung Quốc và chỉ trích Mỹ.
Thứ tư, những hành động của Trung Quốc trên Biển Đông khiến Nga cho rằng sự “giằng co” giữa Trung Quốc và một số quốc gia Đông Nam Á về Biển Đông sẽ giúp hạn chế Bắc Kinh “bành trướng” sang các khu vực khác. Tại Nga, luôn có tiếng nói lo ngại rằng sự lớn mạnh của Trung Quốc sẽ khiến vùng viễn đông của Nga đứng trước nguy cơ bị người Trung Quốc “xâm chiếm”. Đây là vùng lãnh thổ rộng lớn và có nhiều tài nguyên nên chắc chắn sẽ là “miếng mồi ngon” cho một Trung Quốc đang lớn mạnh. Mặc dù các quan chức Nga vẫn tỏ ra lạc quan về triển vọng hợp tác với Trung Quốc, họ chưa bao giờ ngừng cảnh giác trước cái mà Bắc Kinh gọi là “sự mở rộng lãnh thổ”.
Moscow vẫn ngấm ngầm ủng hộ Bắc Kinh?
Dù vậy, Trung Quốc có thể không cần phải thất vọng trước lập trường của Nga về Biển Đông. Mối quan hệ trong hàng chục năm đã khiến hai quốc gia có thể “ngầm hiểu nhau”.


 Hải quân Nga - Trung tập trận trên biển Hoa Đông là 1 hình thức ủng hộ của Nga dành cho Trung Quốc?

Ví dụ, về vấn đề Crimea vừa qua, Trung Quốc đã tránh công khai ủng hộ Nga; thay vào đó bỏ phiếu trắng tại Liên Hợp Quốc. Điều đó không có nghĩa Trung Quốc phản đối Nga về Crimea. Tương tự, việc Nga thể hiện lập trường trung lập về Biển Đông không có nghĩa Nga không ủng hộ Trung Quốc.
Nga có cách riêng để bày tỏ sự ủng hộ đối với Trung Quốc, ví dụ như thông qua các cuộc tập trận quân sự chung trên biển Hoa Đông. Hành động đó khiến phương Tây không khỏi ghen tỵ.
Trung Quốc và Nga đều cho phép nhau thực hiện các chính sách không rõ ràng và đó là dấu hiệu cho thấy mối quan hệ đối tác đã sâu đậm hơn. Điều đó giúp cả Nga và Trung Quốc tối đa hóa các lợi ích quốc gia của hai nước này.
 13:32 21/06/2014
Tùng Lâm

Báo TQ xuyên tạc: Việt Nam dùng Cam Ranh dụ Nga can thiệp

Biển Đông ĐÔNG BÌNH 22/06/14 08:03
(GDVN) - Báo Trung Quốc lo ngại về hoạt động hợp tác dầu khí, hợp tác quốc phòng tăng cường giữa Việt-Nga trong bối cảnh Trung Quốc đang xâm lược vùng biển Việt Nam.
Tờ "Thời báo Hoàn Cầu" Trung Quốc ngày 21 tháng 6 đăng bài viết nhan đề "Việt Nam không thể tự đối đầu Trung Quốc, muốn lấy vịnh Cam Ranh làm mồi nhử Nga can thiệp Biển Đông" xuyên tạc về quan hệ hữu nghị Việt-Nga.
Theo bài viết, súng trường tự động AK-47 do Liên Xô chế tạo từng được sử dụng rộng rãi trong chiến tranh Việt Nam, đã giúp người Việt Nam chống lại có hiệu quả sự xâm lược của người Mỹ, hiện nay Việt Nam lại muốn "mượn sức" của Nga.
Bài viết cho rằng, Đại sứ Việt Nam tại Nga ngày 19 tháng 6 đã “gửi thư” cho phía Nga, cam kết Nga có quyền ưu tiên ở vịnh Cam Ranh – một quân cảng quan trọng của Việt Nam, trong khi đó biên đội 3 tàu chiến Hạm đội Thái Bình Dương hải quân Nga vào ngày 20 tháng 6 cũng đã kết thúc tiếp tế hậu cần ở vịnh Cam Ranh.
Trước đó, tại Đối thoại Shangri-La 2014, Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Phùng Quang Thanh tuyên bố “vịnh Cam Ranh hoan nghênh tất cả các khách thương mại và quân sự”, điều này cũng được truyền thông Mỹ xem như là “cành ô liu” chìa ra cho tàu chiến Mỹ. Đại sứ mới ở Việt Nam do Tổng thống Mỹ đề cử kêu gọi Mỹ “xem xét hủy bỏ lệnh cấm bán và chuyển nhượng vũ khí sát thương cho Việt Nam”.
Tàu ngầm diesel-điện Hà Nội lớp Kilo của Hải quân Việt Nam, mua của Nga. Đến năm 2016, Việt Nam sẽ có hạm đội tàu ngầm với 6 chiếc thuộc lớp Kilo, hiện hải quân Việt Nam đã biên chế 2 chiếc.
Báo Trung Quốc xuyên tạc cho rằng, để “quốc tế hóa” vấn đề Biển Đông, Việt Nam không tiếc lấy vịnh Cam Ranh để “lôi kéo” Nga, Mỹ, điều này đã đem lại lợi ích thực tế cho Nga, Mỹ, nhưng đồng thời cũng được xem là “mồi câu”.
Đối với vấn đề này, báo Trung Quốc dẫn lời “học giả” Trung Quốc giấu tên võ đoán, lên giọng cho rằng, bất kể là “lôi kéo Nga kiềm chế Trung Quốc ở Biển Đông” hay có được vũ khí tiên tiến của Mỹ, “Việt Nam đều sẽ không được toại nguyện”.
Nga có quyền ưu tiên ở vịnh Cam Ranh
Hãng Itar-Tass Nga ngày 19 tháng 6 cho biết, trong cuộc họp báo về “Ngày văn hóa Việt-Nga” cùng ngày, Đại sứ Việt Nam tại Nga Phạm Xuân Sơn cho biết, hai bên Nga-Việt đang đàm phán thành lập công ty liên doanh cung cấp dịch vụ bảo trì cho các loại tàu dân dụng và quân dụng.
Khi nói về vịnh Cam Ranh, Đại sứ Phạm Xuân Sơn cho biết: “Một phần vịnh Cam Ranh là dân dụng, một phần khác là căn cứ quân sự. Trong tình hình tuân thủ thỏa thuận cần thiết, tàu chiến nước ngoài có thể đi vào khu vực này, nhưng chúng tôi có thể công khai nói, Nga có quyền ưu tiên ở đây. Hợp tác quân sự với Nga rất quan trọng”.
Hình ảnh về vịnh Cam Ranh của Việt Nam
Theo luận điệu phỏng đoán của bài báo, gần đây, tỷ lệ xuất hiện trên truyền hình Nga của Đại sứ Phạm Xuân Sơn rất cao. Báo Nga ngày 19 tháng 6 có bài viết nhan đề “95% vũ khí của Việt Nam mua từ Nga” cho rằng, khi trả lời phỏng vấn, Đại sứ Phạm Xuân Sơn cho biết, Việt-Nga không chỉ có rất nhiều hợp tác trong lĩnh vực khai thác dầu mỏ, mà còn có hợp tác quan trọng trên các lĩnh vực như xây dựng nhà máy điện hạt nhân đầu tiên ở Việt Nam, sản xuất máy bay trực thăng.
Hai bên đã hoàn thành đàm phán về việc phía Nga mua 49% cổ phần của Công ty dầu khí Việt Nam. Những công ty dầu khí lớn của Nga tiến hành thăm dò và khai thác ở thềm lục địa Việt Nam gồm có: Gazprom, Rosneft Oil, Lukoil và Zarubezhneft.
Báo Trung Quốc dẫn lời cái gọi là “học giả Nga” giấu tên phân tích cho rằng, Việt Nam không thể độc lập đối đầu với Trung Quốc trong vấn đề “tranh chấp lãnh thổ”, vì vậy muốn “lôi kéo” Nga vào khu vực này, như vậy có thể làm “quốc tế hóa” vấn đề Biển Đông.
Đối với vai trò của Nga trong tranh chấp Biển Đông, Đại sứ Phạm Xuân Sơn ngày 19 tháng 6 cho rằng, Việt Nam chủ trương cùng Trung Quốc căn cứ vào luật pháp quốc tế, thông qua biện pháp hòa bình giải quyết tất cả bất đồng. Ông đặc biệt nhấn mạnh lập trường khách quan của Nga trong vấn đề “tranh chấp lãnh thổ” Việt-Trung.
Ngày 16 tháng 6 năm 2014, bên lề Hội nghị Dầu khí Thế giới (WPC) lần thứ 21 tại Moscow - Liên bang Nga, Bộ trưởng Bộ Công Thương Vũ Huy Hoàng đã chứng kiến Tổng giám đốc Tập đoàn dầu khí Việt Nam Đỗ Văn Hậu ký biên bản ghi nhớ với ông Igor Sechin, Chủ tịch Tập đoàn Rosneft và ông Sergey Kudryasov, Tổng giám đốc Tập đoàn Zarubezhneft về mở rộng cơ hội hợp tác tại các lô 125 – 126, một số lô mở và các lô hợp đồng khác tại Bể Phú Khánh, thềm lục địa Việt Nam.
Đại sứ Phạm Xuân Sơn nói: “Việt Nam tán thành lập trường của Nga, căn cứ vào lập trường này, tất cả tranh chấp đều cần căn cứ vào luật pháp quốc tế, trước hết là Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982, giải quyết thông qua hòa bình”.
Trong khi đó, trang mạng Rusnews ngày 15 tháng 4 từng đưa tin về thể hiện lập trường từ người phát ngôn Bộ Ngoại giao Nga: “Nga theo dõi chặt chẽ tình hình hiện nay ở Biển Đông. Nga hy vọng các bên có thể giữ kiềm chế, thông qua đàm phán giải quyết bất đồng”.
Theo báo Trung Quốc, truyền thông và học giả Nga rất quan tâm đến quan hệ Việt-Trung. Khi đưa tin về chuyến thăm Việt Nam của ủy viên quốc vụ Trung Quốc Dương Khiết Trì, “Đài tiếng nói nước Nga” cho rằng, cuộc đàm phán không đạt được tiến triển rõ rệt, nhưng hai bên đã đạt được đồng thuận “tiếp tục tiến hành tiếp xúc trên lĩnh vực này”.
Chuyên gia Vinogradov, Viện Viễn Đông, Viện khoa học Nga cho rằng: “Giữa Trung Quốc và Việt Nam sẽ không hoàn toàn gián đoạn liên hệ, đặc biệt là ở cấp cao. Nếu không thể giải quyết vấn đề, ít nhất cũng có thể làm dịu xung đột. Ngoài ra, Hà Nội và Bắc Kinh cũng đều phải xem xét đến lòng dân của nước mình”.
Ngày 16 tháng 6 năm 2014 tại Moscow - Liên bang Nga, Bộ trưởng Bộ Công thương Vũ Huy Hoàng chứng kiến lễ ký bản ghi nhớ hợp tác giữa Tập đoàn dầu khí Việt Nam và Tập đoàn Rosneft và Tập đoàn Zarubezhneft Nga
Tờ “Thời báo Hoàn Cầu” Trung Quốc tìm hiểu thông tin trên báo chí Việt Nam và để ý đến một số thông tin về quan hệ Việt-Nga, gồm có: “Hợp tác quốc phòng là lĩnh vực trọng điểm của quan hệ Việt-Nga”, “Việt-Nga tổ chức đối thoại cấp Thứ trưởng Quốc phòng lần đầu tiên”, “quan hệ hợp tác trên nhiều phương diện giữa Việt-Nga đạt được tiến triển tích cực”…
Theo tờ báo này, hợp tác quốc phòng giữa Việt-Nga còn có cử đoàn đại biểu thăm nhau, đào tạo nhân viên và hải quân, nghiên cứu chiến lược, giao lưu kỹ thuật quân sự. Khai thác dầu khí ở Biển Đông là “quan trọng hàng đầu” của hợp tác Việt-Nga.
Ngày 18 tháng 6, cổng điện tử của Chính phủ Việt Nam đăng hình ảnh cho biết, Tập đoàn dầu khí Việt Nam và Tập đoàn Zarubezhneft và Rosneft Nga ký kết bản ghi nhớ tiến hành hợp tác thăm dò dầu khí ở thềm lục địa Việt Nam. 
Đài tiếng nói Việt Nam cho biết, ngoài doanh nghiệp Nga, còn có các công ty dầu khí lớn quốc tế như công ty Exxon Mobil Mỹ, công ty Oil & Natural Gas Ấn Độ tiếp tục hợp tác với Việt Nam.
Một giếng dầu của Việt Nam trên Biển Đông

Nhập siêu từ Trung Quốc tăng 110 lần sau 12 năm

QUÂN PHẠM -22/06/14 08:17  
(GDVN) - Riêng từ năm 2010 đến nay, nhập khẩu từ Trung Quốc chiếm khoảng 1/4 tổng kim ngạch nhập khẩu hàng năm. Con số đó có thể tăng lên 25 tỉ USD trong năm 2014.
Con số nhập siêu tăng lến chóng mặt
Theo Tổng cục Thống kê năm 2013, Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc đạt 13,1 tỉ USD trong khi nhập khẩu từ quốc gia này lên tới 36,8 tỉ USD, tăng 26,7% so với cùng kỳ năm 2012 (tương đương 7,8 tỉ USD). Trung Quốc trở thành thị trường nhập siêu lớn nhất của Việt Nam với mức 23,7 tỉ USD.
Trung Quốc là thị trường lớn và quan trọng của Việt Nam. Tuy nhiên, việc chỉ số nhập siêu (giá trị nhập khẩu cao hơn xuất khẩu trong một thời gian nhất định) từ Trung Quốc quá cao, trong một thời gian dài, đã tác động xấu tới tình hình sản xuất trong nước, tạo sự lệ thuộc và thiếu chủ động nguồn nguyên liệu của các doanh nghiệp trong nước.
Từ đó, vấn đề giảm dần nhập siêu, từng bước cân bằng cán cân thương mại, kiểm soát và nâng cao chất lượng của hoạt động xuất-nhập khẩu từ thị trường Trung Quốc đang là vấn đề cấp thiết đặt ra với Việt Nam trong quan hệ thương mại giữa hai nước.
Táo bán trên đường có xuất xứ Trung Quốc. Ảnh minh họa. 
Nếu năm 2001, nhập siêu từ Trung Quốc chiếm 15,88% trong tổng nhập siêu của Việt Nam (188,8 triệu USD), thì các năm tiếp theo, nhất là từ sau khi Việt Nam cùng ASEAN ký FTA với Trung Quốc, tỷ lệ này tăng rất nhanh lên mức 61,93% (năm 2005), 98,88% (năm 2010)... 
Năm 2012, lần đầu tiên sau 19 năm, tính chung cả nước, Việt Nam xuất siêu đạt 284 triệu USD và năm 2013 xuất siêu 863 triệu USD, bằng 0,7% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu.
Tuy nhiên, nhập siêu từ Trung Quốc lên tới 16,7 tỷ USD vào năm 2012 và 23,7 tỉ USD vào năm 2013 so với mức chỉ là 210 triệu USD vào năm 2001. Riêng năm 2013, sự bất cân bằng là rất lớn khi Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc chỉ đạt 13,1 tỷ USD, tăng 2,1% (269 triệu USD), thì nhập khẩu từ Trung Quốc lại lên tới khoảng 36,8 tỷ USD, tăng 26,7% (7,8 tỷ USD) so với cùng kỳ năm 2012.
Như vậy, sau 12 năm, nhập siêu của Việt Nam từ Trung Quốc tăng lên hàng trăm lần, cả về quy mô và tỷ trọng trong tổng nhập siêu cả nước và xu hướng vẫn liên tục tăng, bất chấp xu hướng cải thiện dần và tiến tới xuất siêu của Việt được ghi nhận trong 2 năm qua.
Việt Nam xuất siêu trên các thị truờng quốc tế khác và số đó dường như chỉ để bù cho nhập siêu từ Trung Quốc.  Dự báo năm 2014, Việt Nam sẽ xuất siêu sang thị trường Hoa Kỳ khoảng trên 22 tỷ USD, trong khi nhập siêu từ thị trường Trung Quốc cũng khó cải thiện so với năm 2013...
Nhập nhiều nhưng chất lượng tỷ lệ nghịch
Phần lớn nhóm hàng nguyên vật liệu phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu của Việt Nam được nhập khẩu từ Trung Quốc. Trong năm 2013, nhập khẩu nhóm máy móc, thiết bị, phụ tùng, dụng cụ chiếm khoảng 18% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa từ thị trường này; tiếp theo là nhóm nguyên phụ liệu dệt may da giày chiếm 15%; nhóm điện thoại các loại và linh kiện chiếm 15%; nhóm máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện chiếm 12%; nhóm sắt thép các loại và sản phẩm chiếm 9%; còn lại là các nhóm hàng hóa khác.
Hàng Trung Quốc nhập khẩu rất đa dạng, từ "thượng vàng đến hạ cám", “phủ sóng” hầu khắp các chợ đến siêu thị, trung tâm thương mại. Một số mặt hàng gần như chiếm lĩnh thị trường như rau, củ, quả, hàng nông sản,... với khối lượng nhập khẩu hàng trăm đến hàng ngàn tấn mỗi ngày.
Ảnh minh họa.
Hiệp hội Da giày Việt Nam cho biết năm 2013, tổng dung lượng thị trường nội địa ước chừng 130-140 triệu đôi/năm, tương đương 1,5 tỉ USD thì đã có tới 45% sản lượng tiêu thụ được nhập từ Trung Quốc chủ yếu qua con đường tiểu ngạch.
Ngoài ra, thị trường Việt Nam đang bị lệ thuộc khá lớn vào thị trường nhập khẩu một số nông sản tươi sống và than từ Trung Quốc. Hơn nữa, chỉ với vũ khí “giá bỏ thầu thấp”, Trung Quốc đang là “nhà vô địch” thắng thầu lớn nhất và là chủ thầu nhiều dự án nhất ở Việt Nam trong các lĩnh vực nhiệt điện, xi măng, khai khoáng…
Rất nhiều sản phẩm nhập khẩu từ Trung Quốc là hàng giả, hàng kém chất lượng, thậm chí là hàng độc hại như đồ chơi chứa chất độc, sữa nhiễm khuẩn... khiến người tiêu dùng lo sợ.
Tuy nhiên, người bán hàng vẫn luôn ưu ái hàng Trung Quốc hơn vì hai tiêu chí mẫu mã và giá cả. Có nơi còn gắn mác hàng nội để đánh lừa người tiêu dùng như bắp cải, khoai tây, khoai lang, cam quýt Đà Lạt, Tiền Giang...
Việc nhập siêu quá nhiều từ một nước không chỉ dẫn đến nguy cơ bị phụ thuộc nguyên liệu, mà vô hình trung còn trở thành cầu nối xuất khẩu các mặt hàng có thế mạnh của Trung Quốc vào các thị trường khác.
Một nguy cơ khác là nếu không sớm hạn chế việc phụ thuộc quá nhiều vào nguyên phụ liệu từ Trung Quốc cho các ngành như dệt may, da giày, doanh nghiệp Việt Nam sẽ không tận dụng được lợi thế từ các cam kết hội nhập kinh tế trong thời gian tới.
Các chuyên gia kinh tế đang lo ngại, nhập siêu của Việt Nam từ Trung Quốc sẽ trên 25 tỉ USD trong năm 2014 này.
Bởi vậy, giảm nhập siêu và giảm sự lệ thuộc một chiều vào thị trường một nước trở thành lựa chọn bắt buộc của Việt Nam trong thời gian tới.
Hạn chế nhập siêu “khủng” từ Trung Quốc bằng cách nào?
Để hạn chế nhập siêu từ Trung Quốc, nhiều chuyên gia cho rằng chúng ta cần xây dựng một nền sản xuất chủ động và có năng lực chính, từ đó, cần thiết kế một chiến lược tổng thể và lâu dài.
Thời điểm này có thể đã muộn, nhưng nếu có quyết tâm vẫn có thể xoay chuyển được tình thế. Điều quan trọng nhất là cần một tư duy mới trong huy động nguồn lực để phát triển công nghiệp và xuất khẩu.
Trước mắt cần đa dạng hóa danh mục hàng xuất khẩu, nên tính đến việc xây dựng và phát triển những sản phẩm mới sao cho phù hợp với thực lực quốc gia. Trước những giải pháp nhằm duy trì và phát triển thị trường xuất khẩu, Việt Nam cần rà soát những hạn chế tiêu cực có thể gây ảnh hưởng đến uy tín của Việt Nam cũng như xáo trộn thị trường trong nước.
Theo thống kê mới đây của Viện Nghiên cứu cơ khí (Bộ Công Thương), Việt Nam hiện có 20 dự án nhiệt điện thì có 15 công trình do phía Trung Quốc làm tổng thầu. Trước đó, số liệu của Ủy ban Tài chính và Ngân sách Quốc hội công bố, cũng cho thấy tính đến năm 2010, có đến 90% dự án tổng thầu EPC của Việt Nam do nhà thầu Trung Quốc đảm nhiệm, trong đó chủ yếu là dầu khí, hóa chất, điện, dệt kim.
Với tình hình đó, hàng năm chúng ta phải chi ra hàng chục tỷ USD để nhập khẩu máy móc, thiết bị phục vụ các dự án do doanh nghiệp Trung Quốc làm tổng thầu, cũng là điều dễ hiểu. Một số chuyên gia cho rằng để hạn chế nhập siêu, chúng ta phải bớt vay vốn của Trung Quốc và phải tỉnh táo trong thu hút đầu tư, mua sắm máy móc của Trung Quốc.
Trong một hội thảo đầu năm, TS. Phạm Chi Lan cho rằng việc hàng hóa Trung Quốc chiếm lĩnh thị trường Việt một phần là do các doanh nghiệp trong nước quá thụ động. Các doanh nghiệp Việt đã bị ám ảnh quá nên lúc nào cũng tìm cách để cạnh tranh với Trung Quốc thay vì học tập từ họ.
Theo chuyên gia kinh tế Nguyễn Chi Lan, muốn cạnh tranh với Trung Quốc ngay trên thị trường Việt Nam không phải đi soi xem họ xấu gì, tránh gì mà phải tìm các ngách thị trường để đánh trúng thị hiếu và đối tượng khách hàng.
TS Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng Viện Quản lý kinh tế trung ương thì cho rằng, chúng ta phải bớt vay vốn của Trung Quốc và phải tỉnh táo trong thu hút đầu tư, mua sắm máy móc của Trung Quốc. Chúng ta không thể không hợp tác trong kinh tế với Trung Quốc, nhưng phải tỉnh táo để có một mối quan hệ cân bằng.
Một số chuyên gia kinh tế khác thì cho rằng, muốn hạn chế được nhập siêu từ Trung Quốc, nhất định Việt Nam phải tự túc được nguyên liệu thì mới giải quyết được vấn đề.