Sunday, April 7, 2019

Bình Phước lập trạm thu phí đường bộ dày đặc để móc túi dân

Trạm thu phí BOT Tân Lập - Bình Phước. (Hình: Lao Động)
BÌNH PHƯỚC, Việt Nam (NV) – Trên chiều dài khoảng 120 km của cả tỉnh lộ và quốc lộ, nhà cầm quyền tỉnh Bình Phước với sự toa rập của các Bộ Giao Thông Vận Tải và Bộ Tài Chính đã cho đặt tới 6 “trạm thu phí.”
Một số báo mạng như các tờ Đất Việt, Tiền Phong vừa cho hay, giới kinh doanh của tỉnh Bình Phước kêu la chói lói về các “trạm thu phí” dày đặc trong phạm vi tỉnh, tạo khó khăn thêm tốn kém dẫn đến khả năng kém cạnh tranh.
Theo quy định của nhà cầm quyền trung ương, các trạm thu phí phải cách nhau tối thiểu 70 km nhưng ở tỉnh Bình Phước lại chỉ cách nhau có 20 km mà tờ Đất Việt hôm Chủ Nhật nói rằng “Xứng đáng đạt kỷ lục Guiness” thế giới.
Tờ Đất Việt thuật lại cuộc họp ngày 4 Tháng Tư, 2019 “với cơ quan chức năng tỉnh Bình Phước” của ông Võ Quang Thuận – chủ tịch Hiệp Hội Doanh Nghiệp vừa và nhỏ tỉnh Bình Phước, nói ông bày tỏ “sự lo ngại về các dự án BOT trên địa bàn” trong khi “Doanh nghiệp đã phải trả phí trên nhiều tuyến đường nhưng chất lượng đường thì không được nâng cấp, thậm chí còn hỏng hóc trầm trọng, xuất hiện nhiều ổ voi, ổ gà…”
Theo lời ông Thuận, trung bình mỗi năm doanh nghiệp của ông mất hơn 1 tỷ đồng để trả phí qua các trạm BOT. Điều này khiến cho chi phí vận chuyển, giá cả hàng hóa tăng cao, thời gian vận chuyển cũng không được cải thiện nhiều.
Phản bác lại lại lời kêu ca, “Sở Giao Thông Vận Tải Bình Phước lại cho rằng, quy định trạm trên tuyến đường tỉnh dựa trên cơ sở nghiên cứu khoa học, đảm bảo tính khả thi, tính thực tế của dự án và Ủy Ban Nhân Dân tỉnh cũng đã báo cáo Hội Đồng Nhân Dân tỉnh thông qua theo quy định.”
Tờ Đất Việt thuật lời ông Đặng Đình Đào, nguyên viện trưởng Viện Nghiên Cứu Kinh Tế và Phát Triển, đại học Kinh Tế Quốc Dân cho biết “về lịch sử, tỉnh lộ 741 là quốc lộ, không phải đường mới để địa phương và nhà đầu tư phải khai phá, mở đường. Địa phương cũng không thể vì lý do lịch sử để lại, do từng giai đoạn đầu tư mà đổ gánh nặng lên đầu người dân và doanh nghiệp.”
“Địa phương nhìn thấy sự bất hợp lý nhưng lại đòi doanh nghiệp phải chia sẻ. Không thể lấy lý do khó khăn mà đòi hỏi doanh nghiệp phải chia sẻ. Chia sẻ là gì khi nhà đầu tư chỉ đổ một ít tiền làm đường rồi dựng trạm thu phí trong 25-30 năm rồi bắt doanh nghiệp đóng góp? Điều đó không thể chấp nhận được. Tại sao lại bắt doanh nghiệp phải chấp nhận bất cập và chịu đựng gánh nặng chi phí?”
Dịp này ông Đào cũng nhắc lại những vụ chống đối kịch liệt các trạm thu phí trên cả nước tại nhiều địa phương mà tỉnh Bình Phước “phải lấy đó làm bài học để đừng để xảy ra chuyện tương tự.”
Tờ Lao Động hôm 5 Tháng Tư cũng cho hay, nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ tỉnh này vừa có văn bản kêu ca về việc có quá nhiều trạm BOT mọc lên ở Bình Phước, khiến doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, kém cạnh tranh…
Tại “đơn thỉnh cầu” của Hiệp Hội Doanh Nghiệp vừa và nhỏ tỉnh Bình Phước cho biết: Bình Phước là tỉnh nghèo của cả nước; nhưng hiện nay, lại có nhiều trạm thu phí (BOT) nhất cả nước, với mật độ dày đặc trên hai tuyến đường Quốc Lộ 13 và đường ĐT 741.
“Chỉ tính riêng trên đường ĐT 741 từ thị xã Phước Long đến Sài Gòn có chiều dài khoảng 150km; nhưng có tới 6 trạm thu phí là: Phước Long – Bù Nho, Bù Nho – Đồng Xoài (hai trạm nằm trong đoạn đường khoảng 46 km), Đồng Xoài – Tân Lập 29km, Tân Lập – Bố Lá 30km, Bố Lá – Suối Giữa 58km và Suối Giữa – Lái Thiêu cách nhau 17,2km,” tờ Lao Động viết. “Trong khi đó, trên tuyến Quốc Lộ 13 từ huyện Chơn Thành đến cửa khẩu quốc tế Hoa Lưu đặt 2 trạm thu phí. Trên Quốc Lộ 14 đoạn qua Bình Phước đặt 1 trạm thu phí. Đó là chưa tính kế hoạch xây dựng thêm tuyến đường BOT mới nối từ Đồng Phú – Bình Dương…”
Vẫn theo tờ Lao Động, “Mỗi sản phẩm sản xuất ra ở Bình Phước, tính từ đầu vào đến đầu ra phải chịu đến 24 lần thu phí, khi đi qua 6 trạm BOT trên đường ĐT 741 từ Bình Phước đến Sài Gòn. Doanh nghiệp mỗi lần nhập hàng về đi qua 6 trạm thu phí phải chịu mất phí tới 12 lần. Hàng sản xuất xong và chở đi tiêu thụ lại chịu thêm 12 lần phí nữa. Tổng cộng 24 lần phí đã kéo theo giá thành sản phẩm lên rất cao.”
Một năm trước, báo Bình Phước ngày 7 Tháng Tư, 2018, tờ báo xưng danh là “Cơ quan của đảng bộ đảng CSVN tỉnh Bình Phước. Tiếng nói của đảng, chính quyền và nhân dân tỉnh Bình Phước” có một bài viết dài về các dự án BOT trong tỉnh với tựa đề “Thực trạng các dự án BOT trên địa bàn tỉnh.”
Trong bài viết này, báo Bình Phước khoe: “Từ khi các dự án BOT được triển khai và đi vào khai thác, hệ thống giao thông trên địa bàn tỉnh đã được cải thiện đáng kể, tạo điều kiện phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng – an ninh. Diện mạo của tỉnh, nhất là khu vực có các dự án BOT đi qua đã có những đổi thay tích cực. Nhân dân phấn khởi, đồng tình ủng hộ vì sản xuất và đời sống được cải thiện đáng kể.”
Không những vậy, bài viết của báo Bình Phước còn cho biết các dự án BOT dày đặc tại địa phương rằng “các trạm thu phí không thuộc quy hoạch hoặc không đảm bảo khoảng cách 70km/trạm trên cùng một tuyến đường thì phải được Bộ Tài Chính, Bộ Giao Thông vận tải có ý kiến thống nhất. Do các dự án có quy mô lớn, tổng mức đầu tư cao nên để bảo đảm tính khả thi, Ủy Ban Nhân Dân tỉnh đã kiến nghị các bộ, ngành liên quan thống nhất vị trí đặt trạm thu phí, mức thu phí và được Bộ Giao thông vận tải, Bộ Tài Chính chấp thuận.”
Trên mạng xã hội và cả mặt báo chính thống trong nước, người ta thấy những lời tố cáo “Lợi ích nhóm” của các quan chức Bộ Giao Thông Vận Tải, Bộ Tài Chính, với đám tư bản đỏ và đám quan quyền các địa phương cấu kết với nhau.(TN)

Sài Gòn lại đổ thêm $345 triệu chống ngập

Người dân Sài Gòn đã quen chịu đựng cảnh thành phố ngập nặng, nhất là trong mùa mưa. (Hình: Đại Đoàn Kết)
SÀI GÒN, Việt Nam (NV) – Trong năm 2019, nhà cầm quyền thành phố Sài Gòn sẽ thực hiện 218 dự án chống ngập với tổng kinh phí khoảng 8,000 tỷ đồng ($345 triệu), theo báo Thanh Niên hôm 7 Tháng Tư.
Tờ báo cho biết thêm: “Thành phố sẽ ưu tiên tập trung giải quyết dứt điểm tình trạng ngập nước tại lưu vực trung tâm thành phố và 5 lưu vực ngoại vi (Bắc, Tây, Nam và một phần Đông Bắc, Đông Nam) rộng 550 km vuông với khoảng 6.5 triệu dân. Đồng thời, cải thiện môi trường nước, tăng không gian trữ nước và tạo cảnh quan đô thị; góp phần cải thiện đời sống dân sinh, bảo vệ môi trường.”

“Cụ thể, nhà chức trách sẽ hoàn thành hai dự án cải tạo hệ thống thoát nước trên đường Mai Thị Lựu (quận 1) và nâng cấp đường Huỳnh Tấn Phát (quận 7), hoàn thành dự án chống ngập do triều cường khu vực trung tâm thành phố có xét đến yếu tố biến đổi khí hậu (giai đoạn 1) để giải quyết 4/9 tuyến đường ngập nước do triều cường,” theo báo Thanh Niên.
Tình trạng ngập lụt ở Sài Gòn được ghi nhận càng lúc càng tệ hại hơn sau mỗi năm, dù nhà chức trách luôn hứa hẹn bằng các tuyên bố “sẽ hết ngập vào năm…” trong lúc đổ hàng trăm triệu đô la từ tiền thuế của dân vào các “dự án chống ngập.”
Cảnh tượng tại đường Phan Huy Ích, quận Gò Vấp vào đêm 19 Tháng Năm, 2018. (Hình: Thanh Niên)
Điều khiến công luận giận dữ không hẳn vì tình trạng ngập mà còn vì giới chức đưa ra những lời biện hộ trơ trẽn, dùng “uyển ngữ” để đánh tráo khái niệm.
Trong đợt Sài Gòn ngập nặng vào Tháng Năm, 2018, công luận nổi giận vì hàng loạt tuyến đường ngập nặng, người và xe phải lội bì bõm trong lúc đại diện Trung Tâm Điều Hành Chống Ngập Nước công bố rằng trên toàn thành phố “hiện chỉ có 10 điểm ngập, còn lại là… tụ nước.”
Giải thích vì sao chuyện chống ngập tại Sài Gòn sau nhiều năm vẫn không hiệu quả dù được đổ rất nhiều tiền vào các dự án, Tiến Sĩ Hồ Long Phi, cựu giám đốc Trung Tâm Quản Lý Nước-Biến Đổi Khí Hậu thuộc Đại Học Quốc Gia thành phố ở Sài Gòn được Đài Á Châu Tự Do dẫn lời: “Công tác chống ngập ở Sài Gòn hiện đi sau Bangkok, Thái Lan khoảng 20, 30 năm. Đầu tiên phải đi vào xây dựng các công trình truyền thống, không ngoại lệ. Bangkok hoàn thiện cách đây 20 năm rồi, từ 1995 đến 2000 là họ gần như xong hết. Tokyo chẳng hạn, họ đã xong cách đây 50, 70 năm rồi và bây giờ họ đang ở các bước bổ sung. Còn mình thì hiện nay chưa xong bước căn bản.”
“Để chống ngập, các nước thường xây dựng các công trình cứng hay còn gọi là công trình truyền thống, như: cống thoát nước, cống ngăn triều… nhằm giúp giải quyết khoảng 90% tình trạng ngập; 10% còn lại giải quyết bằng các giải pháp phi truyền thống, bao gồm các công cụ về chính sách, về thể chế, về xã hội, cùng các công trình thích nghi với môi trường như hồ điều tiết nước, dải phân cách thấp…,” theo Đài Á Châu Tự Do. (T.K.)

Quảng Ninh: Hai học sinh bị 10 nữ sinh đánh hội đồng, phải đi cấp cứu

Một nhóm 10 nữ sinh đánh hội đồng 2 học sinh Quảng Ninh phải đi bệnh viện cấp cứu. (Hình: Tiền Phong)
QUẢNG NINH, Việt Nam (NV) – Một nhóm 10 nữ sinh xông vào đánh một nam sinh và một nữ sinh ở tỉnh Quảng Ninh đến phải vào bệnh viện cấp cứu hôm Thứ Bảy. 6 Tháng Tư, 2019 bất chấp sự can ngăn của một số người.
Theo tin một số báo tại Việt Nam, qua hình ảnh người ta thấy phổ biến trên mạng youtube, một nhóm 10 nữ sinh, trong đó có nhiều nữ sinh mặc đồng phục, đã “lao vào đánh hội đồng 1 nữ sinh cùng 1 nam sinh khác mặc sự can ngăn của các bạn đi cùng,” tờ Người Lao Động kể lại hôm Chủ Nhật.
Theo nguồn tin vừa kể cũng như một số báo khác, nữ sinh Nguyễn T.H.L. (sinh năm 2002) và nam sinh Lưu Q.H. (sinh năm 2000) bị một nhóm nữ sinh đánh hội đồng nặng đến nỗi phải đi bệnh viện cấp cứu.
Báo mạng Zing kể “Trưa 7 Tháng Tư, mạng xã hội xuất hiện clip dài 38 giây ghi lại cảnh nữ sinh đánh hội đồng bạn được cho là diễn ra tại Cung Quy Hoạch, Hội Chợ và Triển Lãm (hay còn gọi là Cung Cá Heo) thành phố Hạ Long. Theo hình ảnh ghi lại trong clip, khoảng 10 nữ sinh vây xung quanh nạn nhân đánh, liên tục đạp mạnh chân vào đầu.”
Tờ Người Lao Động thuật lời viên chức y tế địa phương cho hay “Bệnh nhân nữ bị sưng nề kèm xây xát da trán phải. Bệnh nhân nam bị sưng nề vùng đầu và lưng, vết thương nhỏ 0.5 cm vùng thái dương phải. Sau khi tiếp nhận bệnh nhân, bệnh viện đã kịp thời cấp cứu, tiến hành các xét nghiệm cần thiết, kết quả chụp CT hiện tại cả hai bệnh nhân không có tổn thương nội sọ, chỉ có tụ máu dưới da đầu.”
Sau khi sự việc xảy ra, báo Tiền Phong dẫn lời bà Vũ Liên Oanh, giám đốc Sở Giáo Dục và Đào Tạo tỉnh Quảng Ninh, cho biết: “Lâu nay Sở Giáo Dục và Đào Tạo luôn lên án mạnh mẽ những hành vi bạo lực học đường, chúng tôi cũng thường xuyên nhắc nhở các thầy cô giáo quán triệt vấn đề này trong giờ học cũng như những buổi chào cờ. Nhưng không hiểu sao vẫn để xảy ra sự việc như thế.”
Ba ngày trước, theo tờ Pháp Luật ở Sài Gòn, một nam học sinh lớp 7 trường THCS Hòa Hiệp (xã Hòa Hiệp, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long) bị một học sinh lớp trên đánh ở đầu gây thương tích.
Trước đó không bao lâu, dư luận bàng hoàng khi thấy các báo đưa tin, vào ngày 22 Tháng Ba, 2019, một nhóm 5 nữ sinh lớp 9 đã tham gia đánh dã man nữ sinh N.T.H.Y., học sinh lớp 9A tại trường THCS Phù Ủng, huyện Ân Thi tỉnh Hưng Yên) ngay tại lớp học, làm em này phải nhập viện điều trị. Không những đánh đập mà nhóm nữ sinh đã lột quần áo và liên tiếp đấm đá vào vùng mặt nữ sinh H.Y.
Đây không phải là lần đầu cô nữ sinh H.Y. bị bạn học hành hung ngay tại lớp học mà đã từng xảy ra nhiều lần “không có sự can ngăn của các bạn cùng lớp và ngay cả giáo viên.”
Nạn bạo lực học đường và những chuyện thanh thiếu niên nam nữ đánh nhau, dùng máy điện thoại quay phim rồi tung lên mạng khá phổ biến những năm gần đây tại Việt Nam. Đó là chưa nói tới những vụ việc như cô giáo ra lệnh cho cả lớp tát một học sinh hàng trăm cái tát. Thầy giáo đánh học sinh vẹo cột sống. (TN)

Muốn chiếm tài sản, thuê công an gài ma túy để ‘tống’ bạn trai vào tù

Ông Nguyễn Văn Thiện may mắn thoát khỏi âm mưu của bạn gái. (Hình: Tuổi Trẻ)
HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Để ăn trọn 200 tỷ đồng là tài sản chung với bạn trai, một phụ nữ ở Hà Nội đã bỏ ra 1 tỷ đồng thuê nữ thượng úy Cục Cảnh Sát phòng chống buôn lậu, Bộ Công An gài ma túy vào xe hơi bắt nhốt bạn trai.
Tòa Án Nhân Dân quận Nam Từ Liêm (thành phố Hà Nội) cho biết dự kiến ngày 10 Tháng Tư, 2019, sẽ đưa ra xét xử sơ thẩm bị cáo Nguyễn Thị Vân (37 tuổi) về hai tội “tàng trữ trái phép chất ma túy và vu khống.” Người bị hại là ông Nguyễn Văn Thiện (44 tuổi, ở quận Tây Hồ), bạn trai lâu năm với bà Vân.
Báo Tuổi Trẻ ngày 6 Tháng Tư, 2019, dẫn cáo trạng cho biết, ông Thiện và bà Vân đã yêu nhau nhiều năm. Do mâu thuẫn và muốn “ôm” hết tài sản chung, bà Vân nảy sinh ý bỏ ma túy vào xe hơi của ông Thiện để tống ông vào tù.
Để thực hiện mưu đồ, bà Vân đưa cho bà V., thượng úy, công tác tại Cục Cảnh Sát Phòng Chống Buôn Lậu, Bộ Công An, số tiền một 1 tỷ đồng ($43,000) để gài bẩy đưa ông Thiện vào tù.
Ngày 28 Tháng Mười, 2016, nhân lúc lái xe hơi đưa ông Thiện đi làm, bà V. đưa ma túy cho một người đàn ông (chưa xác định được lai lịch) mang đến để dưới gốc cây gần nơi bà Vân đậu xe và điện thoại báo cho bà Vân. Bà Vân đến lấy ma túy rồi cho vào cốp trước ghế xe hơi của ông Thiện.
Chiều tối cùng ngày, khi ông Thiện và bà Vân cùng đi gặp khách hàng, bà Vân gọi điện thoại báo cho bà V. biết lịch trình di chuyển của ông Thiện. Sau khi nhận được thông tin, bà V. đã gọi điện thoại báo cho ông Đ., tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn I, Trung Đoàn Cảnh Sát Cơ Động, Công An Hà Nội, về việc xe ông Thiện “chứa ma túy.”
Khi ông Thiện đang lái xe chở bà Vân thì bị cảnh sát yêu cầu dừng xe, kiểm tra cốp xe và phát hiện một bọc giấy bên trong có nhiều gói ma túy nhỏ. Ông Thiện bị bắt với kết quả giám định “chứa 7 gr heroin và 1.4 gr ma túy dạng methamphetamine.”
Điều đáng nói là khi xảy ra vụ án nêu trên, giữa ông Thiện và bà Vân đang có tranh chấp tài sản chung. Theo ông Thiện, hai người đã tạo lập được khối tài sản chung là các bất động sản trị giá khoảng hơn 200 tỷ đồng ($ 8.6 triệu).
Tất cả các bất động sản này đều do Vân đứng tên. Tuy nhiên, cả hai đều đã ký thỏa thuận đây là tài sản chung và mỗi bên được hưởng 50% giá trị.
Tại cơ quan điều tra, ông Thiện một mực kêu oan và cho rằng có người cố tình bỏ ma túy vào xe của mình. Sau 8 ngày tạm giữ nhưng không chứng minh được tội của ông Thiện, cơ quan điều tra phải trả tự do.
Khi trở về nhà, ông Thiện nghi ngờ bà Vân là người đã hại mình nên âm thầm thu thập chứng cứ. Hai tháng sau, ông nộp cho cơ quan điều tra đầy đủ chứng cứ, chứng minh bà Vân là người đẩy ông vào tù.
Ngày 9 Tháng Tư, 2018, Cơ Quan Cảnh Sát Điều Tra Công An quận Nam Từ Liêm đã khởi tố bà Nguyễn Thị Vân về hai tội danh trên và đối diện mức án 11 năm tù.
Tuy nhiên, tại cơ quan điều tra, bà Vân phủ nhận việc đẩy ông Thiện vào tù để chiếm đoạt tài sản. Vụ án tranh chấp tài sản chung này, hiện tòa án Hà Nội cũng đang thụ lý và chuẩn bị đưa ra xét xử.
Riêng việc bà Vân khai đã thuê bà V. 1 tỷ đồng để đẩy ông Thiện vào tù và bà V. chính là người đưa ma túy cho mình thực hiện, thì bà V phủ nhận.
Tin cho biết, Cơ Quan Ðiều Tra cũng nhận định “chưa đủ căn cứ để xác định bà V. có vai trò đồng phạm với bà Nguyễn Thị Vân nên cơ quan điều tra sẽ tách phần liên quan đến bà V. và thanh niên mang ma túy cho Vân để xử sau.”
Không đồng tình với nhận định trên, ông Thiện đã có đơn gửi cơ quan điều tra yêu cầu  phải làm rõ vai trò đồng phạm của bà V. và làm rõ động cơ phạm tội của Nguyễn Thị Vân.
Ông Thiện đã nộp cho cơ quan điều tra nhiều đoạn ghi âm cuộc điện thoại giữa bà Vân và bà V. dài 3 tiếng đồng hồ. Nội dung đoạn ghi âm xoay quanh việc cho ông Thiện vào tù.
“Đoạn ghi âm dài hơn 3 tiếng đồng hồ nhưng cơ quan điều tra chỉ trích nội dung đến phút thứ 59 là thiếu khách quan và bỏ lọt chứng cứ của vụ án. Tôi không đồng ý việc cơ quan điều tra tách vụ án và chỉ đưa một mình Vân ra xét xử,” ông Thiện bất bình cho biết. (Tr.N)

Trung Quốc sắp đưa giàn sản xuất dầu khí vào Biển Đông

Theo VOA-08/04/2019 
Giàn khoan dầu 981 của Trung Quốc.
Giàn khoan dầu 981 của Trung Quốc.
Tân Hoa Xã hôm 7/4 đưa tin rằng một giàn sản xuất dầu khí lớn thứ hai của Trung Quốc sẽ được kéo vào Lưu vực Yinggehai ở Biển Đông ngày 10/4.
Hãng tin nhà nước Trung Quốc nói rằng giàn có tên gọi Dongfang 13-2 CEPB đã được đóng xong đầu tháng này tại tỉnh Quảng Đông.
Theo Tân Hoa Xã, giàn nổi này nặng 17.247 tấn, tương đương với 10 nghìn chiếc xe ôtô thông thường và rộng bằng một sân bóng đá.

Giàn sản xuất dầu khí dự kiến sẽ đi vào hoạt động vào tháng Sáu.
Lưu vực Yinggehai, nơi dự kiến sẽ đặt giàn sản xuất dầu khí lớn thứ hai của Trung Quốc, nằm ở phía tây bắc Biển Đông, giữa Đảo Hải Nam và bờ biển phía Bắc của Việt Nam.
Tới tối ngày 7/4 (giờ Hà Nội), chưa thấy có phản ứng từ phía Việt Nam.
Giữa năm 2014, quan hệ giữa hai quốc gia láng giềng phương bắc rơi xuống mức thấp nhất trong nhiều năm sau khi Trung Quốc kéo giàn khoan dầu Hải Dương 981 vào khu vực Hoàng Sa mà Hà Nội nói là vùng đặc quyền kinh tế của mình.
Sự hiện diện của giàn khoan dầu Hải Dương 981 ở Biển Đông đã dẫn tới các cuộc biểu tình bài Trung Quốc gây chết người ở Việt Nam.

Xâm hại tình dục trên thế giới bị xử lý thế nào?

Theo BBC-04-04-2019 

Hình minh họaBản quyền hình ảnhGETTY IMAGES
Image captionHình minh họa
Tình trạng xâm hại tình dục gần đây gây ra sự bức xúc lớn trong dư luận Việt Nam khi có hai vụ quấy rối tình dục trong thang máy xảy ra trong vòng chưa đầy một tháng.
Vụ việc đầu tiên, khi ông Đỗ Mạnh Hùng "cưỡng hôn" một cô gái trẻ trong thang máy ở Hà Nội hôm 4/3 và bị phạt hành chính 200.000 đồng, đã gây ra nhiều bức xúc, cho rằng mức xử phạt quá nhẹ.
Mới tuần này, ông Nguyễn Hữu Linh, nguyên phó Viện trưởng Viện Kiểm Sát Đà Nẵng được trông thấy ôm ấp một bé gái ở trong thang máy tại TP Hồ Chí Minh hôm 2/4.
Vụ việc khiến dư luận bức xúc, nhiều người cho rằng vụ việc thứ hai là hệ lụy của việc xử phạt 200.000 đồng từ vụ quấy rối đầu tiên.
"Đúng pháp luật chỉ có 200K thôi nhé," một độc giả tên Trần Việt Hưng viết.
"Có 200K không sao cả," một người tên Hà Tá viết.
"Cứ 200K thì còn nhiều biến thái nữa," một bạn tên Nhật Mai viết.

Thực trạng quấy rối tình dục ở Việt Nam

Phụ nữ và trẻ em gái tại Việt Nam, cứ 4 người ít nhất 3 người đã từng bị quấy rối tình dục nơi công cộng, theo khảo sát tại 5 thành phố vào 2016 của Tổ chức ActionAid Việt Nam.
87% phụ nữ và trẻ em gái từng bị quấy rối tình dục ở nơi công cộng như đường phố, công viên, xe buýt, nhà vệ sinh công cộng và có 89% nam giới chứng kiến điều này.
Và khi xảy ra tình trạng bị quấy rối và bạo lực tình dục, thì gần một nửa (47,1%) nạn nhân giữ im lặng thay vì trình báo công an hay cảnh báo người khác.
Trong đó tình trạng quấy rối tình dục phổ biến là bị huýt sáo, trêu ghẹo (28.5%), bị liếc mắt đưa tình (24.4%), bị nhìn chằm chằm vào một bộ phận trên cơ thể hoặc toàn bộ cơ thể (19.8%) và bị sờ mó đụng chạm một cách cố ý (11.6%).
Theo như Bộ Lao Động Việt Nam, hơn 2000 trẻ em mỗi năm bị lạm dụng.
Cuộc tuần hành phản đối chống xâm hại ở HongkongBản quyền hình ảnhGETTY IMAGES
Image captionCuộc tuần hành phản đối chống xâm hại ở Hong Kong

Cách xử phạt quấy rối tình dục trên thế giới

Đức: Đức mở một dự án mang tên "Đừng xâm hại" vào 2005, cung cấp các dịch vụ tư vấn tâm lý miễn phí cho những người trưởng thành cảm thấy có mong muốn xâm hại tình dục trẻ em. Dự án này bị chỉ trích vì giữ bí mật danh tính những kẻ tấn công tình dục.
Anh Quốc: Cũng có các chương trình tư vấn tâm lý như Đức, nhưng có một khác biệt. Những người được tư vấn biết rằng bất kỳ vụ lạm dụng tình dục nào họ khai báo cũng sẽ bị tố cáo lên các cơ quan chức năng.
Thụy Điển: Nước này vừa thông qua luật rằng quan hệ tình dục không có sự đồng thuận là cưỡng hiếp.
Lạm dụng tình dục và hiếp dâm ở nước này có mức án tù tối đa là 4 năm.
Pháp: Bạo lực tình dục không bao gồm cưỡng hiếp sẽ bị phạt tối đa 5 năm tù giam và 75.000 Euro (gần 2 tỷ đồng).
Đối với tội cưỡng hiếp, có thể bị phạt 15 năm đến chung thân.
Hoa Kỳ: Tùy thuộc vào luật liên bang và tiểu bang, nhưng tại bang Texas, người phạm tội hiếp dâm có thể bị phạt tù đến 20 năm và 10.000 đôla tiền phạt (khoảng 230 triệu đồng).
Brazil: Người phạm tội hiếp dâm sẽ bị phạt từ 6 đến 10 năm tù giam.

Thiến hóa học gây tranh cãi

Một biện pháp gây tranh cãi, được một số nước áp dụng là thiến hóa học, hoặc thậm chí là thiến bộ phận sinh dục.
Indonesia, Nga, Ba Lan và Hàn Quốc: Hình phạt cho tội lạm dụng tình dục trẻ em có thể bằng hình thức thiến hóa chất. Thiến hóa chất là hình thức dùng thuốc để làm giảm nhu cầu tình dục mà không cần thiến sinh lý hoặc cắt bỏ nội tạng.
Cộng hòa Séc: Séc áp dụng hình thức thiến dương vật 'tự nguyện', với 94 ca phẫu thuật đã được tiến hành từ 1999. Đây là biện pháp gây tranh cãi ở Czech.

Nói chuyện với lưu manh giả danh trí thức

”...Những trường hợp như vụ Nguyễn Hữu Linh cho thấy sự thất bại tuyệt đối của một nền chính trị. Nó cho thấy, khi công lý đã bị chính quyền chà đạp đến mức chẳng ai còn tin vào sự phán xét và trừng trị của pháp luật thì người dân sẽ có khuynh hướng cho mình quyền phán xét và quyền trừng phạt. Chưa bao giờ mà giá trị công lý bị mờ nhạt như vậy...”
1. Lưu manh giả danh trí thức: chúng nó cũng là chúng ta mà thôi
Trả lời: “Chúng nó” (trong đó có thể có cả mày) không phải là “Chúng ta” hay ít nhất cũng không phải là “chúng tao”. Milovan Djilas cách đây hơn 60 năm (1957) đã gọi chúng nó (trong đó có thể có cả mày) là Giai cấp mới. Chỉ có chúng nó mới có quyền lực, Chúng tao (có thể không có mày) chẳng bao giờ được mon men tới gần quyền lực. Chúng nó có thể tự tung tự tác, muốn làm gì thì làm, chẳng phải báo cáo với ai, chẳng phải chịu trách nhiệm trước bất cứ người nào, ngoài đồng đảng của chúng nó mà chúng nó thì bao che nhau. “Chúng nó” “nâng đỡ không trong sáng nhau”, cái này mày biết rồi, không cần nói nữa.
Chúng nó xử nhau theo “lệ”, nhẹ hều: ăn cắp/làm thất thoát hàng chục, hàng trăm tỉ đồng có khi chỉ phải kiểm điểm rồi hạ cánh an toàn. Trong khi đó Chúng nó xử Chúng tao bằng luật cực kì hà khắc: Con cái chúng tao ăn cắp 1 con vịt về nhậu, 7 năm tù https://dantri.com.vn/…/mot-thanh-nien-lanh-7-nam-tu-vi-bat…; cái này mày cũng biết rồi.

Tóm lại: “Chúng nó” có thể giống Chúng tao ở một số điểm nào đó, nhưng “CHÚNG NÓ” thực chất không phải là “CHÚNG TAO”. “Chúng nó” (trong đó có thể có cả mày) là giai cấp cai trị, còn “Chúng tao” là bọn bị trị.
Thế cũng đủ cho hôm nay. Ngày mai sẽ tiếp.
***
 DANTRI.COM.VN
(Dân trí) - Khang và Kiệt đang nhậu thì hết mồi, Khang rủ Kiệt đi kiếm mồi về nhậu tiếp. Lúc đi, Khang và Kiệt mang theo 2 con dao và khi gặp đàn vịt của anh Ngân, Khang móc dao ra đe dọa và bảo Kiệt vào bắt một con vịt… về làm mồi nh...
***
Nói chuyện với lưu manh giả danh trí thức (2) 
nguyenhuulinh01
Nguyễn Hữu Linh, cựu phó viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân
TP. Đà Nẵng
Ngày mai là chủ nhật, tao nghỉ, hôm nay tao rinh bài này của nhà báo Manh Kim về để trả lời một nhận xét của mày.
Thực tế những gì đang xảy ra ở VN tương tự với rất nhiều nơi trên thế giới chứ đâu phải chỉ là “đặc sản riêng” của chúng ta. Các facebooker có ảnh hưởng dư sức biết điều này.
MẠNH KIM: Nếu Nguyễn Hữu Linh không phải là đảng viên và là cựu phó viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân TP. Đà Nẵng, mà chỉ là một anh xe ôm, thì phản ứng dư luận có dữ dội như vậy không? Người ta có thể chia buồn trước cái chết của ông Mười nào đó nhưng tại sao “dân mạng” lại hả hê trước cái chết của “đồng chí Đỗ Mười”?... Người dân thù ghét chính quyền là “hiện tượng” có thực. Sẽ không có một phân tích tâm lý nào đúng với bản chất vấn đề trước “hiện tượng” xã hội này nếu nguồn gốc dẫn đến hiện tượng bị phớt lờ đi. Trước khi lên án những hành động và phát biểu “vô văn hóa” của “dân mạng”, hãy đặt câu hỏi tại sao người ta thù ghét chính quyền; tâm lý thù ghét chính quyền đến từ đâu; và chính quyền có đáng để bị ghét không?
Báo Tuổi Trẻ dẫn lời luật sư Lê Cao (Đoàn luật sư TP. Đà Nẵng) cho biết, hành động ném chất bẩn vào nhà Nguyễn Hữu Linh là “không nên và pháp luật không cho phép”, rằng “có thể bị xử phạt hành chính theo Nghị định 167”, rằng “có thể bị truy tố trách nhiệm hình sự theo điều 178 Bộ luật hình sự 2015”. Tuy nhiên, có đại diện pháp luật nào đã lên tiếng cho những tiền lệ trước đó: không phải một mà là rất nhiều lần, nhà của những nhân vật đấu tranh đã từng bị tạt chất bẩn, từng bị khóa trái cửa, từng bị ném đá làm hư hỏng toàn bộ đồ đạc… Trong vài trường hợp, chất bẩn được ném vào nhà “những kẻ phản động” là phân trộn nhớt hoặc phân pha với sơn; cửa nhà họ không chỉ bị khóa trái mà ổ khóa còn bị xịt keo dán sắt; cổng nhà họ cũng bị một nhóm “lạ mặt” nào đó đến quấy nhiễu, trước sự chứng kiến của con cái họ.
Trong gần như bất kỳ xã hội nào, người dân cũng có khuynh hướng chỉ trích chính quyền, từ thuế má đến bảo hiểm y tế... Tuy nhiên, chỉ trích chính sách nhà nước khác với tâm lý thù hằn chế độ. “Ở đâu cũng có” cảnh sát đánh dân nhưng chỉ “ở đây” mới có chuyện “thanh niên tự đập mặt vào gậy cảnh sát giao thông khiến hốc mắt bị lún” hoặc “thanh niên nhập viện cấp cứu sau khi tự va vào dùi cui và súng của công an”…
Khoan vội nói đến các vấn đề chính sách vĩ mô như chuyện đất đai và quy hoạch vốn là một trong những nguồn gốc lớn nhất của bất công dẫn đến xã hội bất bình, hãy nói những chuyện “nhỏ lẻ” hơn để thấy chế độ này sai như thế nào khi nghĩ rằng bàn tay sắt có thể giải quyết mọi vấn đề. Các vụ đánh đập tàn bạo vào người biểu tình quả là có gây sợ hãi nhưng sợ hãi không là cảm giác duy nhất khi người ta xem các cảnh bọn an ninh chìm vung tay đạp chân tàn bạo. Bên cạnh sự sợ hãi là sự trào lên cảm giác oán giận và căm thù. Giận dữ là tức thì. Thù ghét thì âm ỉ. Nó trở thành cảm giác dồn nén chực chờ nổ tung. Có thể người ta không dám xuống đường nữa để biểu thị sự tức giận. Thì người ta sẽ chọn hình thức “khủng bố” bằng những quả bom ngôn từ. Thay vì tìm cách “gỡ bom”, chính quyền thường xuyên tạo ra chất nổ cho các quả bom tiếp theo.
Những trường hợp như vụ Nguyễn Hữu Linh cho thấy sự thất bại tuyệt đối của một nền chính trị. Nó cho thấy, khi công lý đã bị chính quyền chà đạp đến mức chẳng ai còn tin vào sự phán xét và trừng trị của pháp luật thì người dân sẽ có khuynh hướng cho mình quyền phán xét và quyền trừng phạt. Chưa bao giờ mà giá trị công lý bị mờ nhạt như vậy. Mà ai là thủ phạm chính làm cho công lý trở thành trò cười? Đừng chỉ đơn giản trách tại sao xã hội ngày càng trở nên hung hãn. Đừng chỉ trách “một đám dân mạng” ngày càng trở nên “vô học” hoặc “vô văn hóa” khi dễ dàng “ném đá” vào bất cứ chuyện gì. Khi chính quyền là “bà đẻ” cho những cái ác thì đừng trách cái ác quay lại “cắn” chính quyền. Trước khi lên án “tâm lý bệnh hoạn” của cái xã hội đảo điên này, cần nên tìm hiểu “virus” nào gây ra “căn bệnh xã hội” đó. Mà bản thân thầy thuốc cũng bệnh, cả cái bệnh viện cũng bệnh, còn đòi trị ai?
Tâm lý thù ghét chính quyền ngày càng in sâu vào đầu người dân. Hãy thừa nhận “hiện tượng” có thực này. Đến mức này mà còn nghĩ bàn tay sắt có thể làm khiếp nhược người dân thì là một hoang tưởng. Đến mức này mà còn chưa cấp bách sửa lại những sai lầm thì sẽ đến ngày sự giận dữ không chỉ nhắm vào một hoặc vài cá nhân, và sự cuồng nộ sẽ không chỉ giới hạn ở những tiếng chửi rủa hoặc cái cau mày. Đừng nhìn dân như “một bầy cá thể” yếu ớt. Dân tộc (nation) có trước, nhà nước (state) có sau. Dân tộc tạo ra nhà nước. Không có nhà nước nào “đẻ” ra dân tộc. (Hết trích MK)
KẾT LUẬN: Những gì đang xảy ra ở VN không phải chỉ là “đặc sản riêng” của chúng ta, nhưng nó không xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới như mày viết. Đây là giọng lưỡi của LOÀI RẮN ĐỘC. Chúng tao không chấp nhận loài rắn độc, cũng như dân chủ không chấp nhận Hitler, Stalin, Pol Pot, Hugo Chavez, Maduro… và những kẻ đồng hội đồng thuyền với chúng.
Thế cũng đủ cho hôm nay. Thứ 2 tiếp.
Phạm Nguyên Trường

Cần trả lại sự thật cho tổng thống Nguyễn Văn Thiệu 30-4-2019 (

”...Cho đến hôm nay tôi kính trọng ông Thiệu như là một gương hào hùng của một kẻ dám chiến đấu cho nền tự do dân tộc của ông, một kẻ sau này đã chiến bại bởi những hoàn cảnh ngoài tầm tay cá nhân ông, đất nước ông và ngay cả ngoài vòng quyết định của chúng ta…”
Cần trả lại sự thật cho tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Sau 30/4/1975 Mỹ mở chiến dịch đổ tội làm mất nước cho Tổng Thống Thiệu để cho người ta không oán hận Mỹ đã bỏ rơi VNCH. Giờ đây đã 44 năm trôi qua, nếu người Mỹ không lên tiếng giải oan cho Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, thì cũng nên trả lại sự thật cho lịch sử.
tongthong_nguyenvanthieu01
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cho tới trước khi chết Ông vẫn cúi đầu nhận chịu trách nhiệm đã làm cho mất nước, một lỗi lầm quá to lớn mà cá nhân một người không thể nào gánh vác. Nếu có một người nào đó đứng ra nhận chịu thì quả là vô lý, thế nhưng Ông Nguyễn Văn Thiệu đã làm.
Kể từ ngày lập quốc, nước Mỹ thực sự sụp đổ vào năm 1975 với 3 triệu cựu chiến binh tại chiến trường Việt Nam, 58 ngàn người đã chết, và 3.000 quân nhân còn mất tích. Xã hội Mỹ phân hóa trầm trọng với tranh cãi đổ lỗi cho nhau.
Chính vì vậy mà những người quân nhân VNCH không bao giờ động chạm tới nỗi đau của người bạn chiến đấu Mỹ, họ đã làm hết sức của họ rồi, họ đã phải chết tới 58.000 người và đã hao tốn 300 tỉ USD, lại còn phải nuôi 3 triệu cựu chiến binh Mỹ mà người nào cuộc đời cũng tan nát do bị khủng hoảng, bị thất bại vì không thể trở lại trường để làm lại cuộc đời.
Hai chữ “Bỏ Rơi” là do BBC và RFI dùng để xoa dịu sự oán hận của người Việt sau khi Mỹ cắt ông tiếp huyết cho VNCH. “Bỏ Rơi Đồng Minh” khác với “Phản Bội Đồng Minh”. Bỏ Rơi có nghĩa là tôi thích thì tôi giúp, khi thấy mệt mõi quá thì tôi không giúp nữa. Còn Phản Bội là phỉnh gạt, lừa đảo. Cho nên người Mỹ muốn nhận là họ Bỏ Rơi VNCH còn hơn là nhận Phản Bội VNCH.
Năm 1968 anh sinh viên Frank Snepp quyết định làm đơn xin đầu quân vào CIA để tránh khỏi phải đi lính và chiến đấu tại VN. Năm 1969 Snepp bắt đầu làm viêc tại chi nhánh CIA tại Sài Gòn trong tư thế một nhân viên mới vào nghề. Năm 1971 ông trở về Trung tâm CIA tại Mỹ với nhiệm vụ phân tích những tin tức thu thập từ báo chí của Bắc Việt.
tongthong_nguyenvanthieu02
Đến năm 1972 ông bị đày đi VN vì tội đã báo trực tiếp cho Tòa Bạch Ốc một thông tin ông đọc được trên báo của Hà Nội mà không qua các xếp lớn của CIA. Nhiệm vụ lần thứ hai của Frank Snepp tại Việt Nam là đọc báo và nghe đài phát thanh của CSVN và VNCH để trình cho Polgar, trưởng CIA tại Sài Gòn, những tin nào mà ông ta thấy đáng quan tâm.
Sau biến cố 1975 Frank Snepp quyết định viết thành sách về những gì ông chứng kiến trong vai trò một nhân viên CIA làm việc tại VN trong giai đoạn Hoa Kỳ cuốn cờ ra khỏi Việt Nam. Nhờ đó ông nhanh chóng trở thành nhân chứng sống duy nhất dám tiết lộ những bí mật mà một nhân viên CIA không được phép tiết lộ.
CIA đã đưa ông ra tòa vì ông đã hành động trái với lời tuyên thệ khi ông bước chân vào tổ chức CIA. Tòa án đã phán quyết Frank Snepp không bị tội tiết lộ bí mật nghiệp vụ nhưng cũng quyết định cho thu hồi quyển sách “Decent Interval” của Frank Snepp. Tuy nhiên phán quyết này chỉ có hiệu lực hình thức bởi vì cả thế giới đều đã đọc Decent Interval.
Theo Frank Snepp thì mọi chuyện đều bắt đầu từ khi ký kết Hiệp Định Paris. Rồi 3 tháng sau khi ký kết Hiệp Định, Tổng Thống Nixon cử Martin làm đại sứ Mỹ tại VN thay Bunker. Frank Snepp mô tả vai trò của Đại sứ Martin: “Mỹ buộc phải bỏ khỏi Việt Nam trong tư thế đường hoàng, và muốn tạo được ấn tượng như vậy thì cần phải có một chuyên gia về ảo thuật và kịch nghệ mà Martin thuộc vào hạng sư phụ. (Trang 75, nguyên văn: “The United States was obliged to crawl out of Vietnam standing up, and to foster that illusion required the kind of conjuring and stagecraft at which Martin so adept”). Như vậy màn kịch bỏ rơi Việt Nam đã được lên giàn từ tháng 4 năm 1973.
Năm 1974 giữa năm, Tổng Thống Mỹ Nixon đệ trình Quốc Hội Mỹ bản dự thảo hiệp ước giao thương giữa Mỹ và Liên Xô. Đến lúc này Quốc Hội Mỹ mới biết rằng đây là cái giá mà Nixon đã trả cho việc Liên Xô ngưng cung cấp vũ khí cho Hà Nội và ép Hà Nội phải ký hiệp ước ngưng bắn 1973. Dĩ nhiên khi đưa ra trước Quốc hội, Nixon tin rằng sẽ được thông qua dễ dàng vì lợi ích chung của cả hai nước, nhất là từng bước giải quyết chiến tranh lạnh là điều mà dân chúng Hoa Kỳ mong chờ.
Tuy nhiên ông đã tính lầm, Quốc Hội Mỹ đoán rằng còn nhiều cái giá khác nữa giữa Nixon và Liên Xô, Trung Quốc, Hà Nội vào năm 1972. Vì vậy Quốc Hội bác bỏ thẳng thừng hiệp ước thương mại Xô – Mỹ để buộc Nixon phải lòi ra những thỏa thuận khác. Dĩ nhiên là Nixon không đưa ra, ông dùng đặc quyền hành pháp để từ chối.
Vì vậy Quốc Hội có một cách khác để moi ra những gì mà Nixon đã cam kết với LX, TQ và Hà Nội vào năm 1972; đó là cách lợi dụng vụ Watergate để triệu tập một Ủy ban điều tra đặc biệt về sai phạm của Nixon trong vụ nghe lén, nhờ đó công tố viên của ủy ban điều tra có quyền bắt Nixon phải đưa ra tất cả những cam kết ngầm với Bắc Kinh, Mạc Tư Khoa và cả Hà Nội.
Nixon chỉ còn có cách từ chức để né tránh Ủy ban điều tra bởi vì ông và Kissinger đã có những thỏa thuận mật với đối phương mà không xin phép Quốc Hội. Một khi ông từ chức thì những cam kết của ông trở thành vô hiệu lực. Quốc Hội sẽ không còn cớ để truy xét.
Sau khi Nixon từ chức thì Quốc Hội Hoa Kỳ cho thông qua đạo luật cấm HK buôn bán với các nước Cộng Sản vào cuối năm 1974 (Đạo luật Jackson-Vanik). Sự trở mặt của Quốc Hội Mỹ đã khiến Liên Xô tức giận bởi vì những cam kết của Nixon khi ông ta viếng thăm Liên xô vào năm 1972 đã không được thi hành. Vì vậy, cuối năm 1974, Đại Tướng Kulikov của Liên Xô đến Hà Nội để xúi Hà Nội đưa quân đánh chiếm Miền Nam, Liên Xô sẽ cung cấp vũ khí và chiến phí.
Theo như 7 mục, 23 điều khoản của Hiệp Định Paris thì Hà Nội ngưng bắn vô điều kiện, trao trả cho Mỹ 591 tù binh Mỹ vô kiện, trao trả tù binh VNCH để đổi lại VNCH trao trả 28 ngàn tù binh Bắc Việt. Trong khi đó Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu không phải từ chức, 38 ngàn tù chính trị của mặt trận GPMN vẫn tiếp tục bị giam giữ.
Đặc biệt là “ngưng chiến da beo”, nghĩa là quân đội CSVN vẫn ở trên rừng và quân đội VNCH kiểm soát thành thị và thôn quê Nam Việt Nam. Biên giới hai miền Nam Bắc vẫn được tôn trọng theo như Hiệp Định Geneve 1954.
Nhìn bề mặt của Hiệp Định Paris quá vô lý cho nên giới quan sát quốc tế thừa biết bên trong phải có một mật ước riêng. Quả nhiên sau này vào năm 1977 Tổng Thống Jimmy Cater của Mỹ xác nhận có một mật ước riêng đằng sau Hiệp Định Paris được Nixon ký với Hà Nội 4 ngày sau khi ký kết Hiệp Định Paris 1973. Vào tháng 10 năm 1988 Hà Nội cho công bố toàn văn bản mật ước Nixon & Phạm Văn Đồng.
Theo đó thì Nixon hứa sẽ viện trợ tái thiết cho Bắc Việt 3,25 tỉ USD và viện trợ phát triển kinh tế cho Hà Nội 1,5 tỉ USD. Trong vòng 30 ngày sau khi người tù binh HK cuối cùng rời khỏi VN thì hai bên sẽ thiết lập xong hệ thống viện trợ tái thiết, và trong vòng 60 ngày sau đó thì lập xong hệ thống viện trợ phát triển kinh tế.
kissinger01
Bản mật ước do đích thân Kissinger mang tới Hà Nội cho Phạm Văn Đồng ký nhận. Từ đó Lê Duẩn ngày đêm trông chờ món tiền của Kissinger và đến cuối năm 1974, Liên Xô cử tướng Kulikov sang Hà Nội xúi Lê Duẩn đánh chiếm Miền Nam thì có nghĩa là Hiệp Định Paris coi như tờ giấy lộn. Rốt cuộc Hà Nội biếu không 591 tù binh Hoa Kỳ mà chẳng nhận được đồng nào, suốt 10 năm chiến đấu gian khổ, hằng triệu người chết, hằng chục tỉ đô la nợ chiến phí… đến nay chỉ còn là con số không (sic).
Tướng Kulikov xúi Hà Nội phát động chiến tranh trở lại nhưng Lê Duẩn và tập đoàn lãnh đạo CSVN thực sự trắng mắt. Dân chúng Miền Bắc đã kiệt sức, trong 5 năm nhà nước đã đóng cửa tất cả 18 trường đại học và cao đẳng, bòn vét nhân lực đến độ phải gọi lính ở tuổi 16, tại Miền Bắc chỉ còn một trời đàn bà góa… thì lấy đâu để gây chiến tranh trở lại.
*(Theo hồi ký của tướng CSVN Hoàng Văn Thái thì cho tới năm 1974 Hà Nội đã động viên đến 16% dân số, không thể nào động viên thêm được nữa. Trong khi Miền Nam là 5,88%)
Bắt đầu từ năm 1975 Đại Tướng Cao Văn Viên viết tường trình cho Ngũ Giác Đài về những ngày cuối cùng của chiến tranh Việt Nam nhưng đến năm 1983 mới được in thành sách với tựa đề “The Final Collapse” và hai mươi năm sau, 2003 The Final Collapse được nhà nghiên cứu sử Nguyễn Kỳ Phong dịch ra tiếng Việt với tựa đề “Những ngày cuối của Việt Nam Cộng Hòa”. Trong sách có kèm theo những chú giải mới nhất của Đại Tướng Cao Văn Viên. “Một sự thực không thể chối cãi là quân đội VNCH sẽ hết đạn và nhiên liệu vào tháng 6 năm 1975…” (Tài liệu của Ngũ Giác Đài: Cao Văn Viên, The Final Collapse, bản dịch của Nguyễn Kỳ Phong trang 136).
Năm 1974 tháng Giêng, theo tài liệu của CIA: “Từ cuối tháng 12-1973 đến đầu tháng Giêng 1974 Tướng John Murray và ban tham mưu của ông đã làm việc ngày đêm để cố gắng tìm đáp số cho bài toán viện trợ quân sự. Nhưng mỗi lần họ tìm ra một giải pháp để giải quyết vấn đề thì lại phát sinh một vấn đề khác mà kết quả cũng chỉ đưa tới bí lối” (Frank Snepp, Decent Interval, trang 95).
Tướng John Murray là Tư Lệnh cuối cùng của quân đội Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam.. Ông đến Việt Nam sau Hiệp Định Paris 1973, sang đầu năm 1974 ông và Bộ Tham Mưu Hoa Kỳ tại Việt Nam phải tính toán sổ sách về viện trợ quân sự cho Nam Việt Nam trong nửa cuối 1974 và đầu năm 1975. Tuy nhiên Ngũ Giác Đài đã cho ông biết trước là có thể dưới 700 triệu đô la nhưng theo các chuyên viên tham mưu của John Murray thì 700 triệu chỉ đủ giữ được Vùng 4.
Năm 1974 cũng theo Frank Snepp, ngày 16-8 John Murray họp buổi họp chót với Đại Tướng Cao Văn Viên (Tổng Tham Mưu Trưởng), Tướng Đồng Văn Khuyên (Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận) và một số tướng lãnh của Bộ TTM. John Murray khuyên Tướng Viên nên liệu cơm gắp mắm, gấp rút lên kế hoạch sẵn sàng bỏ Vùng 1, Vùng 2 và cả Vùng 3 để về cố thủ Vùng 4. Tuy nhiên “Tướng Viên lẫn Tướng Khuyên đều nói rằng lên kế hoạch về quân sự thì được, nhưng về mặt chính trị thì không thể nào thi hành nổi”. Sau buổi họp này thì John Murray giải ngũ, trở về Hoa Kỳ.
Năm 1974 tháng 5, theo Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng (Bộ Trưởng Bộ Kế Hoạch của VNCH) thì ông đã tình cờ trông thấy bản kế hoạch “Cắt Đất Theo Lượng Viện Trợ” của Murray nằm trên bàn của Tổng Thống Thiệu vào tháng 5 năm 1974, nghĩa là 2 tháng trước khi Nixon từ chức. Như vậy Murray chính là tác giả của kế hoạch bỏ Vùng 1, Vùng 2 vào năm 1975, một kế hoạch mà cho tới 40 năm sau người ta vẫn cho là sáng kiến (tối kiến) của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Sự thực Tổng Thống đã bị báo chí Mỹ cố tình gieo tiếng oan mà lúc đó Ông không thể lên tiếng thanh minh.
Năm 1974, ngày 24-12: Theo hồi ký của Đại Tá Phạm Bá Hoa “Ngày 24-12-1974, lúc quân CSVN đang tấn công Phước Long sang ngày thứ 10; một buổi tiệc mừng Giáng Sinh được Tướng Đồng Văn Khuyên, Tham Mưu Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu, tổ chức trên lầu của Câu lạc Bộ trong BTTM”. Khách tham dự gồm có Tướng Smith (Chỉ Huy Trưởng cơ quan quân sự HK tại VN; Tướng Quân Y Phạm Hà Thanh; Tướng Công Binh Nguyễn Văn Chức; Đại Tá Phạm Kỳ Loan (Tổng Cục Phó Tiếp Vận); Đại Tá Phạm Bá Hoa (Tham Mưu Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận); Đại Tá Pelosky (Phụ Tá của Tướng Smith); Trung Tá Nguyễn Đình Bá (Chánh Văn Phòng của Tướng Khuyên).
Tướng Smith tiết lộ rằng: “Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ có kế hoạch với ngân khoản dự trù hơn 300 triệu đollar để di tản sang Hoa Kỳ khoảng 40 ngàn sĩ quan và gia đình, nhưng thời gian thì chưa rõ” (Phạm Bá Hoa, Đôi Dòng Ghi Nhớ, Bản in lần 4, trang 264). Khi sách của Phạm Bá Hoa phát hành thì tất cả các nhân vật trong bữa tiệc đều còn sống mạnh khỏe nhưng không ai phản đối, kể cả Tướng Smith; chứng tỏ chuyện này hoàn toàn có thật.
Như vậy là kịch bản bỏ rơi Miền Nam đã được lên giàn trước khi mất Phước Long chứ không phải là sau khi mất Ban Mê Thuột. Người ta đã tính toán sẵn kế hoạch để cho VNCH sụp đổ trước tháng 6 năm 1975, kể cả ước tính trước ngân sách chi dụng cho kế hoạch.
Năm 1975, ngày 7-1: Phản ứng của Mỹ sau khi mất Phước Long là: “Nhà Trắng nói rằng: Tổng Thống Ford không có ý vi phạm những điều cấm chỉ (của Quốc Hội) về việc sử dụng lực lượng quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam” (Hồi ký của Tướng CSVN Hoàng Văn Thái, trang 161). Khi vừa nghe tin này Phạm Văn Đồng tuyên bố: “Cho kẹo quân Mỹ cũng không dám trở lại VN”(trang 146).
Ngay sau khi nhận được tin, Lê Duẩn chỉ thị cho Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng Hoàng Văn Thái lên kế hoạch tiến chiếm miền Nam: “Một tháng sau chiến thắng Phước Long, ngày 5 tháng 2, anh Văn Tiến Dũng lên đường vào Tây Nguyên” (Hoàng Văn Thái, trang 172).
Ngày đó cơ quan USIS của CIA tung tin quân VNCH thua tại Phước Long là do Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cố tình bỏ Phước Long để thử xem phản ứng của Mỹ.
Sở dĩ CIA đổ cho Nguyễn Văn Thiệu là để Quốc Hội Mỹ có cớ biểu quyết ngưng viện trợ quân sự cho VNCH.
tongthong_nguyenvanthieu03
-Tuần đầu của tháng 3 năm 1975. Trong một cuộc họp đầu tuần của Bộ Ngoại Giao HK, Kissinger đã giải thích hành động viện trợ “Lấy Có” cho Cam Bốt: “Chính Phủ Lon Nol đang trên đà sụp đổ, đây là nguyên do chính khiến chúng ta phải tiếp tục viện trợ để cho sau này không ai có thể trách chúng ta vô trách nhiệm”. (Frank Snepp, Decent Interval, trang 175). *(Nguyên văn: “…he say, the Lon Nol Government was on the brink of collapse, it was essential to keep open the aid pipeline so no one could later blame the United States for the disaster”).
– Ngày 7-3-1975, Kissinger chỉ thị cho các viên chức Ngoại Giao HK trước khi ông ta lên đường đi Trung Đông: “Hãy làm mọi cách để Quốc Hội tiếp tục duy trì viện trợ (Lấy Có) cho Cam Bốt và Việt Nam. Không phải để cứu vãn hai nước đó, mà vì không thể nào cứu vãn được hai nước đó” (Frank Snepp, Decent Interval trang 176). *(Nguyên Văn: Do every thing possible to ensure that Congress lived up our aid commitments to Cambodia and Vietnam- not because the two countries were necessarily salvageable, but precisely because they might not be).
Hai ngày sau khi Kissinger nói câu này thì Văn Tiến Dũng ra lệnh tấn công Ban Mê Thuột.
Kissinger không muốn thiên hạ nghĩ rằng Việt Nam sụp đổ do không còn viện trợ. Và với mức độ viện trợ nhỏ giọt thì đến ngày 30-6-1975 quân đội VNCH sẽ không còn Gạo và không còn Đạn (Tài Liệu The Final Collapse của Đại Tướng Cao Văn Viên). Vì thế Kissinger mong cho Quân đội VNCH tự tan rã trước khi hết Gạo và Đạn trước tháng Sáu năm 1975. Lúc đó thiên hạ sẽ nghĩ rằng Quân Đội Sài Gòn đã thua chạy trước sức tiến công vũ bão của quân Hà Nội.
Năm 1975 ngày 11-3, một ngày sau khi mất Ban Mê Thuột. Theo Đại Tướng Cao Văn Viên “Ngày 11-3 Tổng Thống Thiệu mời các Tướng Khiêm, Viên, Quang ăn sáng tại Dinh Độc Lập và sau đó trình bày ý định muốn cắt bỏ bớt lãnh thổ cho vừa với mức viện trợ quân sự của HK vào năm 1975”. Tướng Viên ghi lại cảm nghĩ của ông lúc đó: “Quyết định của Tổng Thống Thiệu cho chúng tôi thấy đây là một quyết định ông đã suy xét thận trọng. Hình như Tổng Thống Thiệu đã ngần ngại về quyết định đó, và bây giờ ông chỉ thổ lộ cho ba người chúng tôi trong bữa ăn sáng…”
*“… Tổng Thống Thiệu phác họa sơ: …Một vài phần đất quan trọng đang bị Cộng Sản chiếm, chúng ta sẽ cố gắng lấy lại bằng mọi gía…Ban Mê Thuột quan trọng hơn hai tỉnh Kontum và Pleiku nhập lại…” (Cao Văn Viên, The Final Collapse, bản dịch của Nguyễn Kỳ Phong, trang 129-131).
“Ngay sau khi Phước Long bị tấn công, Hoa Kỳ không có một phản ứng nào … Một thực tế gần như hiển nhiên là Hoa Kỳ không muốn cuộc chiến tiếp tục và biểu quyết viện trợ để VNCH đánh tiếp là chuyện sẽ không xảy ra. Đối với Hoa Kỳ cuộc chiến Việt Nam đã kết thúc” (trang 132).
Henry Kissinger viết trong hồi ký của ông:

“Cho đến hôm nay tôi kính trọng ông Thiệu như là một gương hào hùng của một kẻ dám chiến đấu cho nền tự do dân tộc của ông, một kẻ sau này đã chiến bại bởi những hoàn cảnh ngoài tầm tay cá nhân ông, đất nước ông và ngay cả ngoài vòng quyết định của chúng ta…” (Henry Kissinger, Years of Upheaval, 1981, Bản dịch của Xuân Khuê)
Kissinger là người mà T.T. Nguyễn Văn Thiệu ghét cay ghét đắng cho tới khi xuống mồ. Trong khi ngược lại, Kissinger cũng làm ra vẻ ghét cay ghét đắng T.T. Nguyễn Văn Thiệu, kẻ mà báo chí và nhân dân Mỹ luôn luôn nguyền rủa là cản trở và phá hoại hòa bình.
Tuy nhiên cuối cùng, khi mà hòa bình đã đạt được bằng cái giá phản bội dân tộc Việt Nam, Kissinger mới bình tâm thú thực cảm nghĩ của ông ta về người anh hùng lãnh đạo đất nước Việt Nam trong thời gian gay cấn nhất của lịch sử. Kissinger nói :
“… Sau khi ngưng bắn, quân đội chúng ta sẽ rút về bên kia bán cầu, còn dân tộc của ông vẫn còn cảnh một đội quân tiếp tục hy sinh cho những hy vọng mong manh của nền độc lập tại Đông Dương. Chúng ta đã chắc rằng biện pháp của chúng ta sẽ kềm hãm tham vọng của Hà Nội. Nhưng mắt của ông T.T. Thiệu chỉ quan ngại vào những điều mong manh về sau này…” ( Bản dịch của Xuân Khuê ).
Kissinger cũng thú thực là vì không còn cách lựa chọn nào khác cho nên Mỹ đành phải hy sinh Nam Việt Nam, và cũng vì vậy mà Kissinger đành phải đóng vai làm kẻ thù của T.T. Nguyễn Văn Thiệu nhưng tự sâu xa trong đáy lòng, Kissinger khâm phục T.T. Thiệu :
“…Như là một phép lạ phát xuất từ lòng dũng cảm, ông Thiệu đã cố gắng lèo lái quốc gia trong giai đoạn cam go này, chiến đấu chống lại quân thù cố tâm xâm lấn và làm an tâm đồng minh nào chưa thông hiểu ông …
… Về riêng tư tuy tôi dành ít cảm tình về ông T.T. Thiệu nhưng tôi rất kính nể ông vì ông là một người kiên tâm chiến đấu trong nỗi cô đơn ghê gớm ( nguyên văn: terrible loneliness ) sau cuộc rút quân của Hoa kỳ. Ông chấp nhận những cảm tình và thông hiểu ít ỏi dành cho ông. Chuyện đó không làm phẩm chất của ông hao mòn đi…” ( Bản dịch của Xuân Khuê ).
Ngày 22-10-1972 Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã nổi giận khi Kissinger ép buộc ông phải chấp nhận bản dự thảo Hiệp định đình chiến mà Kissinger đã cùng Lê Đức Thọ soạn thảo tại Paris. Ông khuyến cáo Kissinger:
“Tôi không đồng ý về việc một số nhân viên của quý vị đi nói khắp Sài Gòn là tôi đã ký. Tôi chưa ký kết gì cả. Tôi không phản đối hòa bình nhưng tôi chưa nhận được một trả lời thỏa đáng nào của quý vị cho nên tôi sẽ không ký”.
Kissinger mất bình tỉnh với tuyên bố của Tổng thống Thiệu, ông nói ông đã thành công ở Bắc Kinh, Mạc Tư Khoa và Paris mà bây giờ ông phải thất bại tại Sài Gòn: “Nếu ngài không ký, chúng tôi sẽ xúc tiến một mình”.
Tới phiên Thiệu nổi giận, ông buộc tội Kissinger là thông đồng với Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa để bán đứng Miền Nam. Hồi ký của Kissinger ghi lại lời lẽ của Thiệu:
“Là một quân nhân thì lúc nào cũng phải chiến đấu, nếu tôi không phải là một quân nhân thì tôi đã từ chức khi HK yêu cầu tôi từ chức và còn mặc cả với tôi về ngày giờ từ chức… … Tôi chưa hề nói với ai là người Mỹ đã đòi tôi từ chức, vì như vậy là nhục; cho nên tôi đã làm như tự mình chọn lấy quyết định đó…” (Kissinger, White House Years, trang 1385).
Kissinger đáp lại: “Tôi cảm phục tính hy sinh và lòng can đảm của ngài qua lời phát biểu vừa rồi. Tuy nhiên, là một người Hoa Kỳ, tôi không khỏi phiền lòng khi ngài cho rằng chúng tôi thông đồng với Liên Xô và Trung Quốc.
Làm sao ngài có thể nghĩ như vậy được trong khi quyết định ngày 8-5 của Tổng thống Nixon ( Thả bom Hà Nội và phong tỏa các hải cảng Bắc Việt ) đã liều cả tương lai chính trị của mình để giúp quý ngài. Chúng tôi điều đình với Liên Xô và Trung Quốc là để làm áp lực, buộc họ phải làm áp lực với Hà Nội… Nếu như chúng tôi muốn bán đứng quý ngài thì đã có nhiều cách dễ dàng hơn để hoàn thành việc đó…” (Kissinger, White House Years, trang 1385, 1386).
Rồi tới phiên Đại sứ Bunker mất bình tỉnh: “Vậy thì thưa Tổng thống, lập trường chót của ngài là không ký, có phải không?”
T.T. Thiệu đáp: “Vâng, đó là lập trường cuối cùng của tôi. Tôi sẽ không ký và tôi xin ngài thông báo cho Tổng thống Nixon biết như thế. Xin quý vị trở lại Washington và nói với Tổng thống Nixon rằng tôi cần được trả lời”.
Tổng thống Thiệu chỉ tay vào bản đồ Việt Nam rồi nói: “Có gì quan trọng khi Hoa Kỳ để mất một quốc gia nhỏ bé như Nam Việt Nam? Chúng tôi không hơn gì một chấm nhỏ trên bản đồ của thế giới đối với các ông… … Nhưng đối với chúng tôi, đó là một sự chọn lựa giữa sự sống và sự chết.
Đối với chúng tôi, đặt bút ký vào một hiệp ước tương đương với sự đầu hàng là chấp nhận một bản án tử hình, vì cuộc sống không có tự do là sự chết. Không, nó còn tệ hơn là sự chết” ( Larry Berman; No Peace, No Honor; trích từ Văn khố Bộ ngoại giao HK, bản dịch của Nguyễn Mạnh Hùng trang 230 ).
Sau 1975 thì người Mỹ muốn lái sự oán hận mất nước của nhân dân Miền Nam vào ông T.T. Nguyễn Văn Thiệu và quân đội VNCH để quên đi hành động “bán đứng đồng minh” của Mỹ *( Lời của ông T.T. Nguyễn Văn Thiệu nói thẳng vào mặt Kissinger năm 1972 ). Họ vận động các phương tiện truyền thông tiếng Việt tại hải ngoại kết án ông Thiệu làm cho mất nước. Họ kết án quân đội VNCH hèn nhát, tham nhũng v.v,… Họ dập tắt tiếng nói thanh minh của ông Thiệu và của những quân nhân VNCH. Họ thuê bọn vô lại biến phong trào chống Cọng sản tại hải ngoại thành những trò thối tha vô liêm sỉ….!
Hằng năm cứ vào mùa tháng Tư thì các phương tiện truyền thông tiếng Việt như RFA, BBC, …lại rộn lên những luận điệu kêu gọi hòa hợp hòa giải giữa chế độ CSVN và những người đã bị đuổi chạy ra nước ngoài. Họ coi những người rượt đuổi và những người bị đuổi đều tội lỗi như nhau.
Trong khi đó cuộc chiến Nam Bắc Hàn cũng giống hệt như cuộc chiến Việt Nam. Nhưng ngày nay RFA, BBC… nói cho con cháu Nam Hàn rằng năm 1950 quân Bắc Hàn tràn qua vĩ tuyến 38 đánh chiếm Nam Hàn. Quân đội Mỹ đã giúp nhân dân Nam Hàn đẩy lui quân Bắc Hàn về Bắc. Tội lỗi đều là phía Bắc Hàn chứ phía Nam Hàn không có lỗi.
Nhưng đối với cuộc chiến Việt Nam thì quân Bắc Việt cũng tràn qua vĩ tuyến 17 đánh chiếm Miền Nam nhưng Mỹ lại nói : Phía CSVN và phía VNCH đều có lỗi cho nên Mỹ đứng giữa không biết giúp bên nào !! Cho tới nay cũng chưa ngã ngũ bên nào phải bên nào trái.
Cũng vì chưa ngã ngũ bên nào phải bên nào trái cho nên cho tới nay danh dự của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu vẫn chưa được phục hồi. Người Mỹ vẫn muốn con cháu Việt Nam nhìn Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu như là một kẻ luôn luôn cản trở và phá hoại hòa bình.
Bùi Anh Trinh