Wednesday, April 30, 2014

Nghĩ về hòa giải sau cuộc chiến nhìn từ một nghĩa trang


000_Was7691756-600.jpg
Lễ kỷ niệm lần thứ 150 trận chiến giữa quân Liên minh miền Nam và quân Liên bang miền Bắc tại Gettysburg, Pennsylvania hôm 29/6/2013.-AFP photo

Đã từ lâu, tôi muốn viết một điều gì đó về ngày kết thúc chiến Bắc - Nam.

Nhưng biết viết gì? Mọi cuộc chiến tranh đều là nỗi bất hạnh cho đất nước, dân tộc, ngay cả khi đó là cuộc chiến chính nghĩa. Do vậy, khi một cuộc chiến đi qua, người ta muốn quên đi thật nhanh những nỗi kinh hoàng của nó đã đem lại.

Thế nhưng, có những điều đã không qua đi.

Những ngày hào hứng của con trẻ

Những ngày này 39 năm trước là khi tôi ở vào lớp trẻ con 13-14 tuổi, cái tuổi luôn hướng cái tai và cặp mắt ra ngoài, tìm tòi, hóng hớt mọi thông tin để chứng tỏ mình đã là người lớn. Cái tuổi này là tuổi dễ dễ bị tuyên truyền mua chuộc và kích động. Đây cũng là lứa tuổi  rất sẵn sàng để gia nhập đội quân Hồng vệ binh sẵn sàng theo lệnh của Đảng đi giết người như ở Trung Quốc. Ở lứa tuổi đó, chúng tôi nô nức, hào hứng, thấp thỏm chờ những bản tin từ chiếc loa công cộng về những “chiến thắng ở “Miền Nam”. Báo chí thì hiếm nhưng những chiếc loa công cộng luôn sang sảng những bản tin “chiến thắng làm nức lòng” người dân miền Bắc.

Những bản tin liên tiếp từ thành phố nọ, đến tỉnh kia được “giải phóng” với tốc độ mà ngay cả tin tức truyền miệng cũng không đuổi kịp. “Nhịp bước thần tốc của quân giải phóng” đã nức lòng người dân miền Bắc vốn chỉ được ăn mỗi một món: Loa đài nhà nước và cán bộ tuyên truyền.

Với cái loa đó, đồng bào Miền Nam bao năm qua đã và đang phải rên xiết dưới ách thống trị của Đế Quốc Mỹ và Ngụy quyền Sài Gòn. Đồng bào Miền Nam đang đau khổ, đang kêu gọi chúng ta, những con người được may mắn có Đảng quang vinh lãnh đạo đang được sống dưới ở Thiên đường Xã Hội Chủ Nghĩa hãy “Tất cả vì miền Nam ruột thịt, vì Chủ nghĩa Xã hội, mỗi người làm việc bằng hai”, “Tất cả cho sản xuất, tất cả cho tiền tuyến” “Thề cứu lấy nước nhà, thà hy sinh đến cùng”…

Không nức lòng sao được, không phấn khởi sao được, bởi vì khi đó nhân dân Miền Nam được mô tả:

Có những ông già, nó khảo tra
Chẳng khai, nó chém giữa sân nhà
Có chị gần sinh không chịu nhục
Lấy vồ, nó đập, vọt thai ra”

Hay là:

“Có em nhỏ nghịch, ra xem giặc
Nó bắt vô vườn, trói gốc cau
Nó đốt, nó cười… em nhỏ hét
"Má ơi, nóng quá, cứu con mau"!
(Tố Hữu – Lá thư Bến Tre)

Và nay nhân dân Miền Nam đã được "giải phóng". Vâng tất cả những chiếc loa, từ những chiếc loa đã tạo nên cho không chỉ lớp trẻ mà hầu hết mọi người dân Miền Bắc lúc bấy giờ một cảm giác rạo rực, phấn chấn, hồi hộp khi Miền Nam được “giải phóng” và nhân dân Miền Nam được thoát khỏi ách kìm kẹp của ngoại xâm. Họ cũng sẽ được hưởng niềm vui và hạnh phúc của Thiên đường XHCN, “Miền bắc thiên đường của các con tôi” – Tố Hữu.

Giải phóng!

Thế rồi, Miền Nam được “giải phóng”, nhân dân Miền Nam thoát “ách thống trị của Mỹ - Ngụy” để rơi vào ách thống trị của Đảng Cộng sản.

Với một số người, thì đây là lần thứ hai họ được người Cộng sản đến “giải phóng” và họ đã phải bỏ chạy. Lần thứ nhất là năm 1954 ở Miền Bắc. Khi Cộng sản tràn vào Miền Bắc, thì đã có hơn 1 triệu người di tản từ Bắc vào Nam.

Thế rồi, một cuộc bỏ phiếu bằng chân vĩ đại lần thứ hai đối với Cộng sản đã bắt đầu và càng ngày càng quyết liệt. Theo con số thống kê được của Cao Uỷ Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc (UNHCR) thì đã có gần một triệu người tham gia cuộc bỏ phiếu bằng chân này (Chính xác là 989.100 người). Con số chưa và không thể thống kê được đã phải bỏ quê hương chôn rau cắt rốn của mình đi tìm tự do, thì chắc sẽ rất lớn. Ngoài ra con số nạn nhân đã bỏ mình trên biển, bị chết khi tìm đến xứ sở tự do được ước tính khoảng nửa triệu người.

Những người ở lại thì sao?

Rất nhiều trong số họ đã được đi “tập trung học tập” dài hạn – một hình thức đi tù không cần án – cho đến ngày bỏ xác hoặc trở về trong đau thương, tủi nhục.

Rất nhiều trong số họ được nếm mùi của “chuyên chính vô sản” bằng những cuộc “Đánh tư sản mại bản” rồi “Cải tạo Công thương nghiệp tư bản tư doanh”… phút chốc cơ ngơi hàng bao đời bị cướp đoạt và cầm tù bởi họ chỉ có một tội lớn đối với Đảng là giàu có.

Rất nhiều trong số họ đã được sống cuộc đời của một “công dân hạng ba” kể từ đó. Những quân nhân, công chức của chế độ Việt Nam Cộng Hòa luôn sống trong mặc cảm rằng mình là tội nhân, những thương phế binh của một thời đã kiêu dũng ra cầm súng với lý tưởng sẵn sàng hi sinh cho đất nước, nay lầm lũi, tủi nhục kiếm ăn bằng mọi cách bên lề xã hội.

Kết quả là cả Miền Nam bạc nhược và mang tâm lý bại trận, tâm lý sợ hãi không chỉ trong các hoạt động tập thể mà ngay từ trong từng hơi thở, từng suy nghĩ của mỗi cá nhân. Và khi đó, được sống đã là “Ơn đảng, ơn chính phủ”. Để rồi, đến một lúc nào đó, nạn nhân lại quay về ca ngợi thủ phạm.

                   JB. Nguyễn Hữu Vinh trước Nghĩa trang Chiến sĩ Quốc gia Gettysburg, Hoa Kỳ

Nghĩa trang Chiến sĩ Quốc gia ở Gettysburg

Tôi đến Nghĩa trang Chiến sĩ Quốc gia Gettysburg, tiểu  bang Pennsylvania của Hoa Kỳ vào một buổi chiều hè không có nắng. Con đường dẫn vào đây, vẫn còn dựng lại cảnh tượng chiến sự thời nước Mỹ nội chiến với hàng rào gỗ đan chéo bên đường, Cuối con đường là những quả đồi rộng lớn với bạt ngàn các ngôi mộ thuộc khu đất rộng 17 mẫu Anh (gần 7ha).

Không khí lành lạnh và trong vắt, thỉnh thoảng một cơn gió nhẹ thoảng qua làm những cành cây lay động nhè nhẹ tạo cảm giác âm khí ở đây khá nặng nề. Những người bạn tôi cùng đi cho biết: Đây là nơi cuộc nội chiến diễn ra ác liệt khủng khiếp. Quân Liên minh miền Nam và quân Liên bang miền Bắc đã đánh nhau suốt 3 ngày từ ngày 1 đến ngày 3/7/1863. Chỉ trong 3 ngày, thương vong của cả hai bên là khoảng 46.000 đến 51.000 người. Trận này thường được xem là một bước ngoặt quan trọng hơn cả của cuộc nội chiến Nam - Bắc nước Mỹ.

Tôi đi giữa các hàng mộ, cũng như các ngôi mộ khác của nước Mỹ, những ngôi mộ ở đây không đắp hoặc xây nổi. Ở đây, các ngôi mộ chìm dưới đất và phía trên là tấm biển ghi tên tuổi và các thông tin liên quan người nằm dưới mộ.

Những ngôi mộ ở nghĩa trang này nằm san sát bên nhau thành hàng, thành lối ngay ngắn dưới những tán cây đại thụ hoặc những thảm cỏ xanh. Điều đặc biệt là ở đây, tất cả đều là những người đã hi sinh trong cuộc chiến mà không có bất cứ sự phân biệt nào bên ta, bên địch, bên chiến thắng hay bên bại trận.

Tôi cố tìm một hàng chữ nào đó, một biểu hiện nào đó khả dĩ có thể phân biệt được đâu là những ngôi mộ của bên bại trận hoặc bên thắng trận. Nhưng tuyệt nhiên không hề có. Người bạn cùng đi giải thích cho tôi rằng: Ở đây, tại nghĩa trang này không có khái niệm “Quân Ngụy” hay “Quân ta” mà tất cả là những người đã ngã xuống tại trận chiến này, Nước Mỹ tôn trọng họ như trong bài phát biểu của Tổng thống Lincoln khi cung hiến nghĩa trang này, rằng đây là “nơi yên nghỉ cuối cùng của những người đã hiến dâng mạng sống mình để Tổ quốc được sống”.

Câu chuyện của người bạn bên cạnh đã đưa tôi đi từ ngạc nhiên đến kính phục. Một nước Mỹ hùng mạnh, một nước Mỹ xứng đáng được cả thế giới nể sợ không phải chỉ là bom nguyên tử, là vũ khí hiện đại hay sự giàu có, mà bắt đầu từ những xử sự của con người đối với con người.

Người bạn tôi kể lại câu chuyện rằng: Phần kết của trận chiến ở đây là khi tin đầu hàng của tướng Lee lan ra, tiếng súng của binh sĩ Miền Bắc vang lên để reo mừng chiến thắng. Ngay lập tức tướng Grant ra lệnh: “Quân đội miền Nam đã đầu hàng. Chiến tranh đã chấm dứt. Họ là đồng bào của chúng ta, chúng ta không được phép reo mừng trên chiến bại của họ.” Và tiếng súng đã ngưng bặt.

Sau 4 năm nội chiến làm 620 ngàn người thiệt mạng và hàng triệu người bị thương, các đô thị ở miền Đông Bắc Hoa Kỳ bị tàn phá nặng nề. Theo điều kiện trong văn kiện đầu hàng, ngày 12/4 là ngày quân đội Miền Nam sẽ nộp súng ống và cờ xí cho quân đội Miền Bắc. Khi các binh sĩ Miền Nam đi theo đội ngũ tới địa điểm để giao súng ống và cờ xí, Đại tá Chamberlain đã ra lệnh binh sĩ của mình đứng nghiêm chào các chiến binh bại trận đang đi ngang qua để bày tỏ lòng kính trọng.

Viên tướng Gordon ghi lại: “Trong giây phút đó, không hề có một tiếng kèn hay tiếng trống, không một tiếng reo mừng, không một lời nói, không cả một tiếng thì thầm, không một cử động, nhưng là một sự tĩnh lặng khủng khiếp, mọi nhịp thở như ngừng lại và như thể họ đang nhìn những hồn tử sĩ đi qua”.

Đó là cách xử sự của người Mỹ thắng cuộc với người Mỹ thua cuộc.

Và Tổng thống Mỹ thời bấy giờ đã có bài diễn văn bất hủ kết thúc như sau: “Chính tại nơi đây, chúng ta quyết tâm để họ không chết vô nghĩa. Đất nước này, dưới tay Thiên Chúa sẽ có một nền tự do mới. Và một chính quyền của dân, do dân, vì dân sẽ không phải chết rục trên đất này”.

Nghĩ về hòa giải sau cuộc chiến

Đã hơn một thế kỷ sau cuộc nội chiến Bắc – Nam nước Mỹ, người Việt Nam chúng ta cũng đã kết thúc một cuộc chiến Nam – Bắc.

Tiếc rằng, ở đó có quá nhiều kẻ thù, quân “ngụy”. Ở đó chỉ có những màn reo mừng, cổ vũ, hò reo, pháo hoa để ăn mừng chiến thắng với cờ xí ngợp trời. Ở đó người ta vỗ ngực tự hào là đã đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ, và “Từ nay vĩnh viễn không còn một tên xâm lược nào trên đất nước chúng ta” trong khi cả một quần đảo đang do nước ngoài “quản lý”.

Điều khác nhau là ở chỗ: Nếu như cách hơn 110 năm trước, những người lính Mỹ bại trận trong cuộc nội chiến được ưu tiên không thu ngựa chiến để đưa về quê nhà làm ăn, thì những người lính bại trận Việt Nam được đưa đi nuôi cơm bao năm sau đó trong nhà tù. Còn sau khi ra tù, họ, con cái họ hàng nhà họ vẫn còn bị hệ lụy đến tận bao đời sau.

Điều khác nhau là ở chỗ: Nếu nghĩa trang Chiến sĩ Quốc gia Gettysburg đã chôn tất cả những người lính như nhau không phân biệt, thì hơn 150 năm sau ở Việt Nam từ Bắc đến Nam đâu đâu cũng trắng những Nghĩa trang liệt sĩ quân đội Miền Bắc. Còn quân đội Việt Nam Cộng Hòa có một nghĩa trang Biên Hòa thì đã bị đưa vào Khu quân sự, nghĩa là không ai được tự do đến để thăm viếng, cho đến gần đây mới được chuyển sang dân sự. Ở đó những nấm mồ bị cây cối ăn rễ xuyên thủng, những tấm bia bị đập nát, không thể phân biệt được danh tính của người dưới mộ…

Nếu như trong khi người dân không đội mũ bảo hiểm thì lập tức công an đánh chết, thì những thương binh miền Bắc đang có thể tự do chế xe ba bánh đàng hoàng chở hàng bất chấp cồng kềnh nguy hiểm khi lưu thông mà không ai dám ngăn cản. Thì những thương phế binh miền Nam đã âm thầm tủi nhục, để bán tờ vé số thậm chí xin ăn để sống qua ngày.

Nếu như, sau chiến tranh, nước Mỹ đã “quyết tâm để họ không chết vô nghĩa” thì ở Việt Nam, gần bốn chục năm qua, những người bên bại trận vẫn ngầm hoặc công khai được nhắc nhở rằng: “Họ là tội đồ và được sống là nhờ ơn đảng, ơn nhà nước”.

Mà không chỉ với những binh sĩ bên bại trận, sự phân biệt còn ở cả những người của bên thắng trận nhưng đã hy sinh ở cuộc chiến nào. Và thật vô phúc cho họ, nếu họ đã ngã xuống trong cuộc chiến chống sự xâm lược của anh bạn 16 chữ vàng và 4 tốt của Đảng Cộng sản.

Vậy, đâu là vướng mắc cần hóa giải để lời kêu gào “Hòa Giải” trên mảnh đất này thành sự thật, để mọi người con đất Việt có thể chung sức chung lòng lo xây dựng non sông?

Hà Nội, ngày 29/4/2014

J.B Nguyễn Hữu Vinh

*Nội dung bài viết không phản ảnh quan điểm của RFA.

Ý kiến: 'Dân phải trả trăm loại lệ phí'

Ama Tây Nguyên
Bài gửi tới Diễn đàn BBC
09:55 GMT - thứ ba, 29 tháng 4, 2014

'Người dân giật mình vì có quá nhiều các khoản phí và lệ phí'

Nói ra chắc chắn những người Việt đang sống ở nước ngoài phải giật nảy mình bởi ngoài các loại thuế ra còn tới 357 khoản phí và 75 khoản lệ phí mà dân Việt Nam đang oằn lưng gánh chịu.

Phí và lệ phí này được tổ chức thu trên phạm vi cả nước từ năm 2002 đến nay, trong đó thẩm quyền quyết định của trung ương 393 khoản, phân cấp thẩm quyền quyết định định cho địa phương 39 khoản.

Trên thực tế từ hồi nào đến giờ ở những vùng nông thôn như quê tôi, dân cứ thấy chính quyền địa phương báo dân đóng thì đóng chứ chẳng mấy người tìm hiểu nó là những thứ phí, lệ phí gì.
Nhưng mới chiều 11/4/2014, tại phiên giải trình về chấp hành pháp luật về phí và lệ phí trong 12 năm thực hiện Pháp lệnh này trước Ủy ban Tài chính Ngân sách của Quốc hội được phát lên truyền hình người dân mới giật mình vì quá ư là nhiều các khoản phí và lệ phí.
Dài dòng lệ phí
Bạn đọc không tin sao? Kể hết các khoản thì nó dài dòng quá, xin chỉ đưa một số phí, lệ phí mà các hộ gia đình ở quê tôi năm nào cũng phải đóng để làm tin, gồm: Thuỷ lợi phí. Phí kiểm nghiệm thuốc dùng cho động vật, thực vật. Phí xây dựng. Phí đo đạc, lập bản đồ địa chính. Phí thẩm định cấp quyền sử dụng đất. Phí kiểm dịch động vật, thực vật. Phí kiểm nghiệm chất lượng động vật, thực vật. Phí kiểm tra vệ sinh thú y. Phí bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản… Ấy trời đất ơi, riêng các loại phí người dân nông thôn thuộc thành phần bần cùng nhất của các ngành nghề khác trong xã hội kê ra đã muốn mỏi tay chứ chưa nói tới các lĩnh vực khác.
Thêm nữa, ở các cơ quan hành chính cấp huyện, cấp xã còn bày ra lắm trò thu phí và lệ phí… chẳng giống ai, đơn cử phí đăng ký khai sinh; phí bản sao giấy khai sinh; phí đăng ký kết hôn; phí đăng ký khai tử; phí chứng thực hồ sơ đi học; phí chứng thực hồ sơ đi làm; phí đăng ký hộ khẩu thường trú; phí xác nhận hộ khẩu; phí cắt chuyển khẩu; phí cấp đổi sổ hộ khẩu vì thay đổi địa giới hành chính; phí xác nhận hộ tịch; phí cấp giấy chứng minh nhân dân; phí đăng ký tạm trú, tạm vắng…

"Tùy theo nhận định của từng cấp đơn vị hành chính mà mỗi nơi sẽ quy định các loại phí theo các cách khác nhau khiến cho việc quyết định loại phí; mức phí; cách thức tổ chức thu, nộp, quản lý, sử dụng không đồng bộ, chồng chéo lên nhau"

Mỗi các khoản phí này phí thấp nhất cũng 10.000 đồng, cao nhất lên đến vài ba trăm ngàn, có khi đến cả triệu đồng như phí xây dựng, phí thẩm định cấp quyền sử dụng đất…
Có một điều là tất cả những người đóng các phí này đều không nhận được biên lai, có chăng nữa thì là cái hóa đơn thu tiền có đóng dấu treo (đóng ở góc trái) của ủy ban xã hoặc ủy ban huyện mà thôi.

Việt Nam có nhiều loại phí liên quan đến giao thông

Rồi các loại phí ở các lĩnh vực khác như: Phí thuộc lĩnh vực công nghiệp, xây dựng bốn loại. Phí thuộc lĩnh vực thương mại, đầu tư tám loại. Phí thuộc lĩnh vực giao thông vận tải 13 loại. Phí thuộc lĩnh vực thông tin, liên lạc bốn loại. Phí thuộc lĩnh vực văn hoá, xã hội bốn loại. Phí thuộc lĩnh vực giáo dục và đào tạo hai loại. Phí thuộc lĩnh vực y tế tám loại...
Pháp lệnh phí và lệ phí có quy định là: Hội Đồng Nhân Dân tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương quyết định thu phí, lệ phí nhưng lại được phân cấp cho Uỷ Ban Nhân Dân cùng cấp xem xét số tiền thu ‘theo tình hình thực tế của địa phương’ rồi trình lên.
Như vậy, tùy theo nhận định của từng cấp đơn vị hành chính mà mỗi nơi sẽ quy định các loại phí theo các cách khác nhau khiến cho việc quyết định loại phí; mức phí; cách thức tổ chức thu, nộp, quản lý, sử dụng không đồng bộ, chồng chéo lên nhau.
Dân than ‘đau hơn cả là phí đường bộ’, mỗi xe điện, xe gắn máy, xe du lịch, xe khách, xe tải… ngoài việc đóng phí bắt buộc hàng năm với từng loại xe, song bất kỳ loại xe nào hễ đi qua trạm thu phí đều phải mua vé qua trạm theo quy định, ít là 10.000 đồng, nhiều lên tới 50-80 ngàn đồng.
Trả lời báo chí về vấn đề này, Thứ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Nguyễn Hồng Trường cho biêt chỉ thu phí những đoạn đường thuộc diện đường BOT.
Tìm hiểu mãi mới được biết: BOT là tên viết tắt của Built-Operation-Transfer, có nghĩa Xây dựng -Vận hành - Chuyển giao. Rõ ràng hơn là Chính Phủ kêu gọi các công ty, nhà thầu bỏ vốn xây dựng trước (Built) thông qua đấu thầu, sau đó khai thác vận hành một thời gian (Operation) và sau cùng là chuyển giao (Transfer) lại cho nhà nước sở tại.
Vậy thì ở Việt nam rất ít những tỉnh lộ, quốc lộ được xây dựng 100% vốn của nhà nước mà hầu hết thuộc diện đường BOT, sau khi khai thác vận hành chưa kịp bàn giao cho Nhà nước thì đường đã hư hỏng thì hết đời cha đến đời con, đời cháu cứ phải còng lưng đóng phí đường dài dài.
Bài viết gửi tham gia Diễn đàn của BBC thể hiện quan điểm riêng của Ama Tây Nguyên từ Đắc Nông, Việt Nam.

Báo cáo Nhân quyền Việt Nam năm 2013

Hòa Ái, phóng viên RFA-2014-04-30

Luật sư Lê Quốc Quân tại Tòa án nhân dân Hà Nội hôm 18/2/2014-AFP photo

Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam, The Vietnam Human Rights Network vừa công bố phúc trình thường niên về tình hình nhân quyền ở VN trong năm 2013. Chủ tịch Điều hành-TS Nguyễn Bá Tùng có cuộc trao đổi với Hòa Ái về bản báo cáo này. Trước tiên, ông Nguyễn Bá Tùng cho biết những ghi nhận đáng chú ý trong năm qua:

Công tác làm báo cáo nhân quyền hằng năm của mạng lưới nhân quyền đã được thực hiện trong 5 năm vừa qua. Mỗi năm chúng tôi ghi nhận sắc thái đặc biệt của năm đó. Năm vừa rồi chúng tôi nói đến quyền tự do chính trị và hình như sau đó thì báo cáo của bộ Ngoại giao Mỹ cũng nói đến vấn đề đó.

Năm nay chúng tôi nói đến vấn đề công bằng xã hội và quyền an sinh của người dân. Tất cả có 8 chương. Chúng tôi đã dành 3 chương cuối để nói đến vấn đề đó. Nhà nước Việt Nam đã gia nhập vào các công ước quốc tế về những quyền kinh tế, xã hội và văn hóa từ năm 1982, như vậy là đã 32 năm rồi.

Năm nay sở dĩ chúng tôi nói đến vấn đề đó là vì muốn chứng minh rằng ngay cả những điều mà họ rêu rao là họ đã thực hiện được cũng không thực hiện được. Họ đã vi phạm trầm trọng những quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa đối với người dân Việt Nam. Đó là điểm chính của bản báo cáo năm này, thưa cô.

"Họ đã vi phạm trầm trọng những quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa đối với người dân Việt Nam. Đó là điểm chính của bản báo cáo năm này.- TS Nguyễn Bá Tùng

Hòa Ái: Thưa ông, như vậy trong năm qua có những ghi nhận nào cho thấy Nhà nước VN có những thay đổi gọi là tích cực trong vấn đề nhân quyền ở VN hay không?

TS Nguyễn Bá Tùng: Thật ra thì có mà không. Có thì đó là họ đã được thâu nhận vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc, đã gia nhập vào Công ước về chống tra tấn; rồi trong bản hiến pháp đã sửa đổi vào cuối năm 2013 thì họ cũng đã xen vào ý niệm về nhân quyền trong bản hiến pháp đó. Đó là những điểm mà tôi cho là tích cực. Tuy nhiên, trong thực tế, đối với những người dân, vấn đề tôn trọng nhân quyền không được cải thiện chút nào cả và càng ngày càng tồi tệ hơn; nhiều người bị bắt bớ hơn; nhiều người bị kết án hơn; ruộng đất của người dân cũng bị nhà nước chiếm đoạt nhiều hơn.


Blogger Trương Duy Nhất tại tòa án Đà Nẵng hôm 04/3/2014. AFP photo

Hòa Ái: Trong bản cáo này, con số những tù nhân lương tâm được ghi nhận lên đến 237 người. Con số này có phản ảnh thực trạng ở VN càng ngày tình hình vi phạm nhân quyền càng tệ hay nói ngược lại là người dân càng ngày họ càng bị đè nén, bị áp bức nhiều quá cho nên họ phải đấu tranh cho quyền làm người trong đời sống hằng ngày của họ?

TS Nguyễn Bá Tùng: Bản danh sách tù nhân đó chúng tôi cập nhật mới đây. Tuy nhiên, trước khi chúng tôi cho phát hành báo cáo của năm 2013 thì có một số người trong danh sách đó được thả về nên chỉ nằm trong danh sách bị quản thúc chứ không bị ở tù nữa. Trở lại vấn đề cô nói là số lượng đó nói lên cái gì, tôi hoàn toàn đồng ý nói lên cả hai. Thứ nhất là vấn đề nhà nước càng ngày càng bắt bớ nhiều hơn vì người dân càng ngày càng đòi hỏi nhiều hơn. Năm vừa rồi rõ ràng số lượng người bị bắt bớ nhiều hơn như trong bản báo cáo chúng tôi cho thấy, có đến 60 trường hợp bị bắt, truy tố. Trong số đó có đến 52 (nếu tôi nhớ không lầm) là đã có án, 8 người còn đang bị truy tố và chưa có án. Đó là con số kể đến tháng 12 năm 2013.
"Thật sự ra chúng tôi với tư cách là những người đấu tranh cho nhân quyền và bản báo cáo nhân quyền này được hoàn thành nhờ sự cộng tác của anh em đấu tranh ở trong nước nữa. - TS Nguyễn Bá Tùng
Hòa Ái: Qua các bản báo cáo thường niên liên tục trong suốt 5 năm qua của Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam, ông có thể đưa ra nhận xét nào về xu hướng tranh đấu cho nhân quyền của người dân sẽ chuyển biến ra sao, thưa ông?

TS Nguyễn Bá Tùng: Một điều đáng mừng, nhờ vào những phương tiện thông tin hiện đại như internet này nọ, người dân biết nhiều hơn về những điều họ có quyền hưởng với tư cách là con người, với tư cách là người dân. Nói tóm lại là khái niệm về nhân quyền được được phổ cập hơn ở Việt Nam. Nhờ đó mà người ta tranh đấu hơn và vì vậy mà nhà nước một mặt muốn giữ độc quyền cho mình nên đã bắt bớ nhiều hơn.

Hòa Ái: Trong bản báo cáo Nhân quyền VN năm nay, ở mục kiến nghị với Nhà nước VN, kiến nghị nào thật sự quan trọng mà chính quyền Hà Nội cần phải cân nhắc?

TS Nguyễn Bá Tùng: Tôi nghĩ là quyền chính trị vì tất cả sự vi phạm nhân quyền phát xuất từ tham vọng độc quyền lãnh đạo chính trị của nhà nước Việt Nam đã gây ra những hệ lụy khác cho nên cái vấn đề bỏ điều 4 của hiến pháp ra khỏi hiến pháp có thể là mấu chốt. Trong bản báo cáo chúng tôi cũng đã nêu lên kiến nghị đó và đó là kiến nghị căn bản nhất.

Hòa Ái: Với vị trí VN đã là thành viên của Hội đồng Nhân quyền LHQ và chuẩn bị tham gia ký kết Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương, cũng như xu thế đấu tranh của người dân ngày càng mạnh mẽ, ông có nghĩ rằng Chính phủ VN sẽ lắng nghe các kiến nghị trong bản phúc trình này?

TS Nguyễn Bá Tùng: Thật sự ra chúng tôi với tư cách là những người đấu tranh cho nhân quyền và bản báo cáo nhân quyền này được hoàn thành nhờ sự cộng tác của anh em đấu tranh ở trong nước nữa. Do vậy đây là tiếng nói không chỉ những người ở hải ngoại mà còn là của anh em ở trong nước, những người đã bỏ máu xương để đấu tranh cho quyền làm người của người dân Việt Nam. Còn chuyện nhà nước có nghe hay không  là quyền của họ và thái độ khôn khéo của họ. Tôi nghĩ, dĩ nhiên nếu nhà nước khôn ngoan thì nhà nước nên lắng nghe người dân. Còn bằng không họ cứ một mực bảo vệ cái quyền lãnh đạo độc tôn của họ, tôi nghĩ rằng, không sớm thì muộn cái chế độ độc tài nào rồi cũng sẽ qua. Sự ngoan cố sẽ làm cho sự sụp đổ càng nhanh hơn.

Hòa Ái: Chân thành cảm ơn TS Nguyễn Bá Tùng dành thời gian cho cuộc phỏng vấn này.
Nguồn: www.rfa.org

Nếu Việt Nam Cộng Hòa chiến thắng?

LS Nguyễn Văn Đài Gửi tới BBC từ Hà Nội
04:11 GMT - thứ hai, 29 tháng 4, 2013

Người vui, người buồn trong dịp 30/4

Mỗi dịp 30-4 hàng năm, tôi lại nhận được câu hỏi của những người đồng bào Việt Nam ở hải ngoại là “anh nghĩ và có cảm xúc gì khi sắp tới ngày 30-4?”. Tôi lại có dịp kể cho họ nghe về suy nghĩ và cảm xúc của mình.

Từ nhỏ cho đến năm mười chín tuổi, mỗi dịp 30-4 tôi thực sự vui mừng và tự hào bởi đó là ngày chiến thắng và thống nhất của đất nước. Việt Nam đã chiến thắng cường quốc số một thế giới về quân sự và kinh tế.
Cuối năm 1989, tôi có cơ hội được sang CHDC Đức (cũ) và được chứng kiến người dân Đông Đức lật đổ chế độ cộng sản để thống nhất với chế độ tư bản, dân chủ ở Tây Đức. Tôi lại có dịp may mắn được sang Tây Berlin để xem cuộc sống sung túc và tự do của chế độ tư bản, dân chủ. Và tôi hiểu tại sao người dân Đông Đức đã không cam chịu sống dưới sự cai trị độc đoán, phi lý, lạc hậu của chế độ cộng sản.
Cùng thời điểm đó, tất cả người dân các nước Đông Âu đã vùng lên đập tan sự cai trị của các chế độ cộng sản. Và họ đã xây dựng lại từ đầu chế độ tư bản, dân chủ. Cho đến nay, tất cả các nước Đông Âu, người dân đều có cuộc sống sung túc và hạnh phúc trong một chế độ chính trị tự do và dân chủ mà không có sự cai trị của chế độ cộng sản.

Hoài nghi, nuối tiếc

Cuối năm 1990, tôi trở lại Việt Nam, kể từ đó cứ mỗi dịp 30-4, tôi không còn cảm xúc vui mừng, mà thay vào đó là sự hoài nghi và nuối tiếc.

"Nếu ngày 30-4-1975, bên chiến thắng là Việt Nam Cộng Hòa thì giờ đây trong khu vực châu Á, Việt Nam có thể chỉ thua duy nhất Nhật Bản về kinh tế, còn chắc chắn sẽ ngang bằng hoặc hơn Hàn Quốc về cả kinh tế và quân sự."

Năm 2001 và 2003, tôi có dịp được sang thăm Hàn Quốc và thấy đó là một quốc gia hùng mạnh về kinh tế và quân sự. Ở đó không bao giờ có sự hiện diện và tồn tại của đảng cộng sản. Trong khi đó, Bắc Triều Tiên dưới sự cai trị độc đoán và tàn bạo của chế độ cộng sản. Mỗi năm có cả trăm ngàn người chết đói mặc dù họ đã nhận được sự giúp đỡ to lớn từ Hàn Quốc và cộng đồng quốc tế. Tôi cảm thấy buồn và nối tiếc cho chế độ Việt Nam Cộng Hòa.

Nhìn lại Việt Nam chúng ta, sau ngày 30-4-1975, trong chế độ quan liêu bao cấp, ngăn sông cấm chợ, nhân dân phải chịu đói khổ, lầm than. Khi tiến hành công cuộc đổi mới, kinh tế có phát triển, đời sống người dân khấm khá hơn, đủ ăn, đủ mặc, có được phương tiện sinh hoạt và đi lại hiện đại. Nhưng tham nhũng đã trở thành quốc nạn, thành giặc nội xâm của dân tộc. Sự suy thoái đạo đức và lối sống diễn ra một cách toàn diện, trên mọi phương diện của đời sống xã hội từ giáo dục, y tế, ngành tư pháp, cơ quan hành chính,... và trên mọi cấp độ từ trung ương đến địa phương.

Nhiều người trong chúng ta đã từng chứng kiến cảnh doanh nghiệp, quan chức chính quyền, các lực lượng vũ trang và xã hội đen hợp sức với nhau để cưỡng chế người nông dân lấy đi tư liệu sản xuất quan trọng nhất của họ là ruộng đất. Biết bao người dân vô tội khi bước vào đồn công an thì khỏe mạnh, nhưng chỉ ít giờ sau, họ chỉ còn là một cái xác không hồn. Và còn biết bao nhiêu những người dũng cảm đứng lên đấu tranh đòi quyền tự do, dân chủ đã bị sách nhiễu, đánh đập, và bị cầm tù. Thật sự đau lòng và xót xa.

Giờ đây, mọi người lại hỏi tôi “anh nghĩ và có cảm xúc như thế nào về ngày 30-4?”
Tôi trả lời: Một chế độ dân chủ và văn minh đã thua một chế độ độc đảng toàn trị và lạc hậu. Cái ác đã chiến thắng. Còn cảm xúc thì buồn và nuối tiếc cho chế độ Việt Nam Cộng Hòa, bởi tôi và rất nhiều người đều cho rằng nếu ngày 30-4-1975, bên chiến thắng là Việt Nam Cộng Hòa thì giờ đây trong khu vực châu Á, Việt Nam có thể chỉ thua duy nhất Nhật Bản về kinh tế, còn chắc chắn sẽ ngang bằng hoặc hơn Hàn Quốc về cả kinh tế và quân sự.

Bài phản ánh quan điểm và văn phong của riêng tác giả, một luật sư bất đồng chính kiến sống tại Hà Nội.

Huỳnh Thục Vy : 'Xã hội dân sự đáp ứng khát vọng dân chủ'

LTS: Khoảng hai năm trở lại đây, người ta thấy có một số hội đoàn dân sự độc lập xuất hiện tại Việt Nam. Họ không nằm trong hệ thống Hội đoàn do nhà nước CSVN thành lập phục vụ nhu cầu chính trị và tuyên truyền của nhà cầm quyền qua cái dù “Mặt Trận Tổ Quốc”.

Một số hội đoàn độc lập nổi bật như Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị, Mạng Lưới Blogger Việt Nam, Hội Dân Oan, Hội Anh Em Dân Chủ, Hội Phụ Nữ Nhân Quyền v.v...  Tất cả đều bị sức ép rất mạnh từ nhà cầm quyền nhằm vô hiệu hóa các tổ chức độc lập nhưng không dập tắt được.

Mới đây, ông Trương Đình Tuyển, nguyên Bộ trưởng Thương Mại CSVN, nêu ý kiến trong một phiên họp về cải cách thể chế tại Việt Nam là “đã đến lúc thừa nhận xã hội dân sự. Bản chất của nhà nước mang tính quan liêu, và để khắc phục quan liêu thì cần phát huy vai trò của xã hội dân sự”. Ông Tuyển dùng từ “quan liêu” thay cho nhóm từ “độc tài”, “đảng trị” hiện nay tại Việt Nam.

Nhân dịp này, chúng tôi phỏng vấn cô Huỳnh Thục Vy, một trong những thành viên thành lập và điều hành Hội Phụ Nữ Nhân Quyền Việt Nam về hoạt động của một hội đoàn dân sự trong hoàn cảnh rất khó khăn và nhận định về ý kiến của ông cựu bộ trưởng thương mại Trương Đình Tuyển.

Huỳnh Thục Vy, 28 tuổi, con gái ông Huỳnh Ngọc Tuấn ở Hội An, là một trong những blogger nổi tiếng tại Việt Nam. Cô có nhiều bài viết liên quan tới thời sự Việt Nam được nhiều báo mạng đăng tải những năm gần đây, vì vậy thường xuyên bị nhà cầm quyền CSVN sách nhiễu, đàn áp. Bố của cô từng bị Công an đánh đập dã man rất nhiều lần, nhà bị công an vào lục soát, tịch thu tài sản gồm cả tiền bạc.

 Hình trên: Đại diện Hội Phụ Nữ Nhân Quyền Việt Nam đến thăm gia đình tù nhân lương tâm Nguyễn Văn Lía (dang ở tù). Hình dưới: thăm tu sĩ Võ Văn Thanh Liêm (cựu tù nhân lương tâm) ở huyện Chợ Mới, An Giang hồi giữa Tháng Tư vừa qua. (Hình: PNNQVN)

Người Việt: Xin cô cho biết Hội Phụ Nữ Nhân Quyền Việt Nam (PNNQVN) thành lập được bao lâu rồi? Được nhiều thành viên không?

Huỳnh Thục Vy: Hội Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam được thành lập vào ngày 25 tháng 11 năm 2013 đúng vào ngày đầu tiên của loạt 16 ngày Hành động chống bạo hành phụ nữ trên toàn thế giới. Chúng tôi có khoảng hơn một 100 thành viên.

NV: Vậy lý do dẫn đến việc thành lập Hội Phụ nữ Nhân Quyền là gì?

HTV: Có nhiều lý do khiến chị em chúng tôi ngồi lại với nhau. Thứ nhất, vì nhu cầu bảo vệ quyền và lợi ích cho những nạn nhân trực tiếp và gián tiếp của chế độ cộng sản như Các tù nhân lưong tâm, các nhà hoạt động Nhân quyền, Dân oan và những nạn nhân bị công an đánh chết...Thứ hai, trong cuộc đấu tranh cho Dân chủ tự do hiện nay, vai trò của phụ nữ rất quan trọng và không kém phần nổi bật so với nam giới nhưng lại chưa có một tổ chức xã hội dân sự nào của riêng phụ nữ, để vinh danh vai trò của chúng tôi. Thứ ba, là tình hình đàn áp nhân quyền ở Việt Nam không có dấu hiệu được cải thiện nên chúng tôi muốn các nhà hoạt động nữ góp sức vào công cuộc bảo vệ Nhân quyền bằng cách hoạt động trong một tổ chức, vì hoạt động cá nhân chưa hiệu quả như mong muốn. Và cái lý cớ để chúng tôi ra mắt thời điểm đó là vì cuối năm 2013 Việt Nam trở thành Thành viên của Hội đồng Nhân quyền LHQ bất chấp hồ sơ Nhân quyền tội tệ của họ. Chúng tôi muốn Hội này làm chứng nhân sống động cho sự giải trá của chính quyền Việt Nam.

NV: Cô có thể cho biết phản ứng của phía chính quyền và của dư luận ra sao?

HTV: Chính quyền tất nhiên là phản ứng rất tiêu cực. Trước tiên, họ cho hàng trăm công an bao vây, ngăn chặn mọi người tham dự buổi họp mặt đầu tiên của chúng tôi tại chùa Giác Hoa, Sài Gòn. Tiếp theo, họ cho an ninh đến tận nhà các thành viên để áp lực họ rút khỏi Hội PNNQVN. Thứ nữa, họ liên tục sách nhiều, đánh đập các thành viên của chúng tôi như chị Trần Thị Nga ở Hà Nam, cô Trần Thị Hài ở Bình Dương, chị Nguyễn Ngọc Lụa ở An Giang, và họ đuổi vợ chồng tôi khỏi chỗ ở trọ của mình tại Sài Gòn. Họ còn cho dư luận viên bôi nhọ, xuyên tạc các hoạt động của chúng tôi và chụp mũ chúng tôi là một tổ chức ngoại vi của Việt Tân dù thực chất chúng tôi là một tổ chức vô vị lợi và độc lập. Tất nhiên. những động thái này nhằm bóp chết chúng tôi từ những ngày đầu. Nhưng chúng tôi đã tồn tại và phát triển đến ngày hôm nay bất chấp mọi khó khăn.

Còn từ phía dư luận tất nhiên cũng có nhiều ý kiến. Có nhiều cá nhận và tổ chức NGO rất vui mừng trước sự ra đời và phát triển của chúng tôi. Nhưng cũng có không ít người có cái nhìn không thiện cảm với chúng tôi, vì họ nghĩ chúng tôi đánh mất không gian hoạt động và ảnh hưởng của họ. Nhưng thiết nghĩ rằng, tình hình Nhân quyền Việt Nam hiện nay rất tồi tệ, Đảng cộng sản có nhiều thủ đoạn để đánh phá Phong trào Dân chủ và các nạn nhân của chế độ ngày càng nhiều; vậy nên càng có nhiều tổ chức xã hội dân sự thực sự ra đời càng nhiều càng tốt. Thay vì tranh giành ảnh hưởng và bôi nhọ nhau, chúng ta nên kết hợp và hỗ trợ nhau để hoạt động chúng hiệu quả hơn và mục tiêu Dân chủ Tự do của chúng ta sớm thành công.

NV: Hội có xin phép chính quyền không? Nếu không thì tại sao?

HTV: Chúng tôi không xin phép chính quyền. Vì chúng tôi biết rằng nếu làm theo đúng thủ tục và trông chờ vào chính quyền, chúng tôi sẽ không bao giờ thành lập được tổ chức vì chính quyền sẽ ngâm hồ sơ mà không xem xét. Chúng tôi thiết nghĩ sự thành lập và hoạt động của Hội PNNQVN, dù không được chính quyền Việt Nam công nhận, vẫn nằm trong khuôn khổ điều chính của Công pháp Quốc tế và phù hợp với Nguyên tắc về Quyền tự do lập hội theo Tuyên Ngôn Quốc tế Nhân quyền LHQ và các Công ước quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị.


NV: Những người vận động lập hội ban đầu và các thành viên có bị nhân viên an ninh sách nhiễu, đe dọa không? Họ có theo dõi không? Nói chung xin cô cho biết khó khăn đang gặp phải.

HTV: Ngoài sự sách nhiễu từ chính quyền như tôi đã nói ở trên, chúng tôi còn gặp nhiều khó khăn khác như: Thiếu tài chính để hoạt động, các thành viên chưa có đủ bản lĩnh và điều kiện để dấn thân cho công việc của Hội, các chị em chưa có nhiều kiến thức về tổ chức và các thành viên Ban điều hành của Hội như cô Dương Thị Tân  do sức khoẻ kém và chị Lê Thị Công Nhân do bận công việc gia đình nên chưa đóng góp nhiều cho việc quản lý Hội.


Logo của Hội Phụ Nữ Nhân Quyền Việt Nam thành lập từ Tháng 11-2013. (Hình Hội PNNQVN)

NV:  Liệu những lời phát biểu có tính cá nhân của ông Trương Đình Tuyển có được những kẻ đang nắm vận mệnh đất nước nghe theo không? Và cô ước mong gì?

HTV: Những phát biểu của ông Tuyển tất nhiên hữu lý và thức thời. Nhưng trong một chế độ độc tài đã tồn tại khá lâu và hệ thống chân rết của các nhóm lợi ích đã bám chặt vào hệ thống chính trị và kinh tế như ở Việt Nam, những nhận thức thức thời của một vài cá nhân lãnh đạo không giúp thay đổi chế độ. Nhiều lắm, nó chỉ giúp người dân thức tỉnh phần nào và cổ vũ những nỗ lực dân thân của các nhà hoạt động của chúng ta. Tôi không trông cậy gì vào chính quyền này, tôi chỉ hy vọng vào giới trí thức quốc nội cũng như hải ngoại có thể quan sát chặt chẽ các diễn biến phát triển của xã hội dân sự và hô trợ cho các hội đoàn này phát triển.

Tôi mong rằng ngày càng có nhiều nhà hoạt động bước ra khỏi sợ hãi để góp sức vào cuộc vận động phát triển của xã hội dân sự. Chúng ta cần nhiều người trẻ có tri thức, bản lĩnh và lương tâm để nâng đỡ cho sự phát triển của xã hội dân sự.

NV: Theo cô, làm thế nào để có một xã hội dân sự trong tình thế này?

HTV: Dù chính quyền có muốn hay không, xu hướng tập hợp lại với nhau trong các hội đoàn dân sự là điều tự nhiên. Và điều đó khiến sự tồn tại và phát triển của các hội đoàn này là phù hợp với nguyện vọng của người dân cũng như khuynh hướng phát triển đa nguyên của nhân loại. Một xã hội dân sự được xác định như một xã hội mà trong đó có thể chế chính trị dân chủ, tôn trọng Nhân quyền, nền kinh tế tự do và chú trọng phúc lợi xã hội và một nền văn hoá giáo dục khai minh, sáng tạo đáp ứng được xu hướng "người dân tự lo liệu cho cuộc sống của mình còn Nhà nước chỉ có vai trò làm trọng tài, điều phối và áp dụng pháp luật pháp công bằng. Nói chung một xã hội dân sự thực sự đáp ứng các khát vọng Dân chủ, đa nguyên, đa đảng, công lý  và thịnh vượng.

Còn làm sao để có thể xây dựng được nó là một câu hỏi lớn, một vấn đề nghiêm túc cần nghiên cứu chứ không thể trả lời được trong một vài câu. Nhưng tựu trung, chúng ta phải phát triển được các hội đoàn dân sự độc lập và phi chính trị để đặt nền móng cho Dân chủ.

NV: Cảm ơn Huỳnh Thục Vy đã dành cho báo Người Việt cuộc phỏng vấn này.

04-30-2014 2:08:42 PM

"Sập bẫy" bởi những chiêu lừa đảo muôn hình vạn trạng

SMO-Trước đây, đạo chích làm việc bằng cách trèo tường, phá khóa, lợi dụng sơ hở của người dân để trộm đồ. Thế nhưng, ngày nay, trộm cắp ngày càng tinh vi hơn với những “quái chiêu” lừa đảo khiến những ai dù đã rất cảnh giác cũng dễ bị “sập bẫy” bởi khi thì chúng dùng tình cảm đánh vào tâm lý người bị hại, lưc lại giấu mặt lừa đảo qua mạng.

Ngày 20/3/2014, cô gái cho một nam thanh niên đi nhờ xe thì bị chính người này cướp xe Attila - Ảnh: Ngôi sao
“Rước họa vào thân” khi giúp đỡ người già, trẻ nhỏ

 Chỉ vì thương hai đứa nhỏ (một đứa khoảng 7,8 tuổi bồng đứa em mới 1,2 tuổi) mà chị Minh đã cho chúng đi nhờ một đoạn và bị mất xe. Sau khi chở được 2 đứa bé đi khoảng 300m thì chị bị một người đàn ông và một người đàn bà chạy lên chặn đầu xe, kêu chị cướp xe và bắt cóc 2 đứa trẻ. Lợi dụng lúc mọi người đứng xem, lộn xộn người đàn ông leo lên xe rồi phóng xe của chị đi mất.

Tương tự, một cô gái thấy bà cụ bị ngã vật xuống đường đã có lòng tốt dừng xe lại xuống đỡ bà cụ. Nhưng cuối cùng lại bị một nhóm la lên nói “hôi của” của bà cụ rồi lao vào đánh hội đồng khiến cô bị ngã rồi bị kẻ gian giật mất chìa khóa xe và cướp xe.


Giả danh người quen, cán bộ


Chiều 3/3/2014, tại Hà Nội, một cô bé tên Nhi đã bị lừa mất chiếc xe đạp điện vì bị kẻ gian lừa đảo một cách tinh vi. Những kẻ lừa đảo này đã tìm hiểu tên, số điện thoại của cha mẹ cô bé rồi xưngkj là bạn bè cha mẹ của Nhi, hòng lấy lòng tin, sau đó lừa mượn xe của cô bé rồi “chạy mất tiêu”.

Ngoài ra, đánh vào tâm lý phun thuốc xịt muỗi của người dân, những kẻ lừa đảo còn ăn mặc lịch sự, xách cặp giả danh làm cán bộ phường đến từng hộ gia đình lừa đảo về việc đóng phí phun thuốc muỗi cho gia đình với mức giá từ 200.000-500.000 đồng/hộ. Thường đối tượng của chúng là những nhà có trẻ nhỏ hoặc người già ở nhà để dễ dụ dỗ.

Lừa đảo qua Facebook


Giả danh diễn viên Diễm Hương lập Facebook lừa tiền người hâm mộ

Facebook đang là mạng xã hội được đông đảo người dân ưa thích. Tuy nhiên, nhiều kẻ gian cũng đã lợi dụng trang mạng này để lừa đảo người dân. Ngày 26/3/2014, một người dùng Facebook đã giả danh diễn viên Diễm Hương để mượn tiền khiến nhiều người hâm mộ bị “vào tròng”. Thủ đoạn của kẻ gian là lập nick tên của người nổi tiếng rồi luôn cập nhật thông tin về gia đình và cuộc sống. Sau đó chúng giả vờ tung tin tạo những tình hướng éo le khiến người hâm mộ, bạn bè bị “sập bẫy”.

Trong khi đó, cũng không ít bà mẹ đã bị lừa đảo qua mạng khi bị dụ dỗ mua các sản phẩm dinh dưỡng và thuốc bổ tốt cho sức khoẻ của con. Lợi dụng tâm lý cha nẹ hay dồn mọi quan tâm cho con cái, nhiều kẻ lừa đảo đã lập nhiều nick trên Facebook để bán loại thuốc giúp con ăn tốt, lớn nhanhnhưng thực chất đây có thể là thuốc gây nguy hiểm tới sức khỏe của con trẻ. Nhiều phụ huynh vì thiếu hiểu biết đã bị mắc lừa.

Chiêu lừa đảo không ngờ tới

Nhiều người vẫn lưu trong danh bạ tên “vợ” hoặc “chồng” khiến khi bị mất điện thoại, kẻ gian lập tức gửi tin nhắn cho “chồng” hoặc “vợ” để hỏi mật khẩu thẻ tín dụng, ATM. Nhiều người vì không nghi ngờ gì nên đã nhắn tin trả lời ngay và khiến số tiền trong tài khoản “không cánh mà bay”. Hay trước đó, vào ngày 2/1/2014, một facebooker đã "đau đớn" kể lại câu chuyện mất xe SH để ngay trong nhà cho cộng đồng biết mà đề phòng. Mai phục thấy nhà chỉ còn người già, bọn trộm đã rải tiền lẻ từ nhà cho tới tận ngoài đường để đánh lạc hướng rồi đột nhập vào nhà chưa đầy 1 phút đã trộm được chiếc xe SH.


Giả bắt cóc, tống tiền thật

 
Trong khi đó, khoảng vào những ngày đầu tháng 3 vừa qua, tại Hà Nội xuất hiện nhiều vụ đối tượng lừa đảo dùng điện thoại đầu số ở nước ngoài gọi điện về Việt Nam báo người thân bị bắt cóc, còn giả giọng người thân của họ kêu cứu khi bị đánh đập. Sau đó, chúng đòi tiền chuộc nhưng khi chuyển tiền thì người dân mới biết mình đã bị lừa. Qua những vụ án như trên thì công an thành phố Hà Nội khuyến cáo đến những người dân nhận các cuộc điện thoại do các đối tượng lạ gọi điện đến thông báo và yêu cầu phải nộp tiền để chuộc người thân thì cần phải bình tĩnh trì hoãn thời gian trò chuyện rồi tìm cách thông báo cho người thân của mình biết để xác minh.

Ngoài ra, vài tháng trước, Hà Nội cũng rộ lên việc người đi đường vì nhiệt tình chỉ đường hoặc giúp đỡ hai người phụ nữ trẻ đeo bịt mặt mà bị vẩy thuốc mê, mất hết cả điện thoại và tư trang. Là một "nạn nhân hụt" trong hoàn cảnh ấy, chị Trang thở phào khi kiên quyết không dừng xe để giúp hai cô gái trẻ bịt mặt đeo bám chị cả một đoạn đường dài để nhờ chị hướng dẫn cách sử dụng điện thoại. Tuy nhiên, với những chiêu lừa đảo khiến thật giả lẫn lộn này, cũng phần nào khiến cho lòng trắc ẩn, sự giúp đỡ những hoạn nạn ngoài đường ngày càng hiếm đi những tấm lòng tốt.
 30/04/2014 - 08:59

Thầy giáo không phát đề thi cho học sinh vì không chịu… nhặt rác?

Trường THPT Trần Quang Khải nơi xảy ra vụ việc.
TN-Một sự việc đáng tiếc đã xẩy ra tại một trường THPT của huyện Cư M’gar - Đắk Lắk , theo đó, trước buổi thi môn Sinh học, thầy giáo yêu cầu mọi học sinh nhặt giấy dưới chân mình bỏ vào sọt rác và chỉ định 1 học sinh nhặt mảnh giấy ở bàn giáo viên, do chậm trễ nhặt giấy học sinh này đã không được thầy giáo cho thi môn học này.
Không nhặt rác thì không phát đề

Vụ việc xảy ra vào ngày 24/4 tại Trường THPT Trần Quang Khải (xã Ea H’Đing, huyện Cư M’gar, Đắk Lắk) khi em Trần Văn Nam học sinh lớp 10A1 của trường, tham gia môn thi Sinh học cùng 23 học sinh khác tại phòng thi số 7, được thầy giáo Nguyễn Minh Hải (giáo viên môn Tin học) phụ trách coi thi.

Khi vừa vào lớp, thầy Hải có yêu cầu tất cả các em học sinh làm vệ sinh chỗ ngồi của mình nhặt hết những mảnh giấy loại dưới chân mình bỏ vào sọt rác. Tất cả học sinh đều làm theo lời thầy giáo nói.

Tuy nhiên, khi thấy tại bàn giáo viên có 1 mảnh giấy dưới bàn nên thầy Hải đã chỉ định Nam lên nhặt, vì ngồi cách xa bàn giáo viên nên Nam có trả lời: “em làm vệ sinh rồi, mảnh giấy đó không thuộc bàn em”, lúc đó thầy Hải có trả lời rằng: “em không nhặt, tôi không phát đề thi”. 

Sau đó Nam đã lên nhặt giấy và về chỗ chờ nhận đề thi của giáo viên.

Tuy nhiên, khi đến giờ phát đề thi thầy Hải lại “bỏ qua” Nam và không phát đề thi môn Sinh cho em, đến giờ bắt đầu làm bài thi cũng không thấy thầy đưa đề, nhưng lại đưa giấy ký danh sách dự thi cho Nam,  Nam thắc mắc: “Em có được phát đề đâu mà ký”, lúc này thầy Hải quát lớn” “Mày không ký thì biến”. Sau đó Nam bị đuổi khỏi phòng thi và có gọi điện cho bố mình lên giải quyết vụ việc.

Nhận được điện thoại, ông Trần Văn Hồng bố của Nam đã gấp tốc chạy xe lên trường. Khi nghe sự việc ông Hồng có gặp thầy Hải và to tiếng, thấy ồn ào Ban giám hiệu có mặt và yêu cầu ông Hồng ra khỏi trường, riêng em Nam và thầy Hải nhà trường yêu cầu lên phòng hiệu bộ viết bản tường trình vụ việc. 

Học sinh H.N ngồi cạnh Nam trong phòng thi số 7 hôm đó cho biết em chứng kiến toàn bộ sự việc, thầy Hải không phát đề thi cho Nam và câu mắng của thầy “Mày không ký thì biến” là có thật. Cả lớp chúng em được nhà trường yêu cầu viết tường trình và em đã kể lại đúng sự việc xảy ra.

Sẽ xử lý sau khi xác minh

Để tìm hiểu ngọn ngành sự việc, PV liên lạc với phía nhà trường, thầy Lê Văn Hào, Hiệu trưởng nhà trường xác nhận có xảy ra sự việc trên tại trường, nhưng vẫn đang trong quá trình xác minh lại để có hướng xử lý.



Bản tường trình của Thầy Hải không thừa nhận đuổi em Nam ra khỏi phòng thi



Thế nhưng, bản tường trình của em Nam lại cho rằng, chính thầy Hải không phát đề thi cho em.
Về phía nhà trường, thầy Hào cho biết đã yêu cầu thầy Hải cùng Nam viết bản tường trình vụ việc. Trong bản tường trình của thầy Hải, thầy có thừa nhận việc chậm phát đề thi cho em Nam, nhằm mục đích giáo dục ý thức vệ sinh với học sinh này, tuy nhiên thầy Hải không thừa nhận việc đuổi em Nam ra khỏi phòng thi mà do Nam tự ý rời phòng thi và không sử dụng lời thô tục với học sinh này.

Ông Hào cũng cho biết thêm việc không để cho em Nam tiếp tục thi môn Sinh học khi xảy ra sự việc do sợ tâm lý của Nam không ổn định, nên sẽ làm bài không tốt cũng như ảnh hưởng các bạn học sinh trong lớp. Và qua dịp nghỉ lễ sẽ tổ chức cho em Nam thi lại môn học này.

Theo xác minh của PV, vào ngày 25/4 nhà trường đã yêu cầu 23 em học sinh trong phòng thi viết bản tường trình vụ việc. PV cũng đã trực tiếp gặp các học sinh, các em đều kể về sự việc thầy Hải  không phát đề và mắng Nam rất lớn trước lớp. Nhưng khi hỏi thầy Hào về các bản tường trình của các em học sinh khác trong lớp, thì thầy cho biết chưa cho các em viết bản tường trình do sợ ảnh hưởng đến tâm lý, sẽ thi cử không tốt !?

Về hướng xử lý vi phạm đã xảy ra, thầy Hào cho rằng sau khi xác minh sẽ có hình thức kỷ luật thích đáng với thầy Hải và sau vụ việc nhà trường cũng yêu cầu thầy Hải không coi thi những ngày thi còn lại.

Về việc xảy ra cho cho con mình, ông Hồng (bố em Nam) bức xúc: “Nếu con tôi vi phạm quy chế thi cử, nhà trường cứ xử lý theo quy định, đằng này con tôi không vi phạm gì mà bị đuổi, thật hết sức vô lý. Đây là kỳ thi học kỳ rất quan trọng, liên quan đến kết quả tổng kết, lên lớp của con tôi”. 

Bên cạnh đó ông Hồng cho biết bản thân ông không đồng tình với cách cư xử thô lỗ của người làm thầy đối với con trai mình, như vậy không đúng với chuẩn mực của một nhà giáo.

Thúy Diễm – Lệ Văn

Hàng trăm công nhân nghỉ việc phản đối việc giảm lương

SÀI GÒN (NV) - Khoảng 100 công nhân công ty tư nhân Young Woo, vốn Hàn quốc, sáng ngày 29 tháng 4, 2014 đã làm đơn xin nghỉ việc tập thể để phản đối các biện pháp giảm lương.

Báo Dân Trí dẫn lời đại diện công nhân cho biết, chủ công ty nói trên là một người Nam Hàn vừa áp dụng một loạt biện pháp làm thiệt hại quyền lợi chính đáng của người thợ. Trong các biện pháp này có việc hạ bậc thợ; tính giá công sản phẩm làm tuột thấp thù lao của công nhân; trừ tiền lương nhưng lại không đóng bảo hiểm xã hội; không đóng bảo hiểm y tế cho thợ...



Công nhân xin nghỉ việc đồng loạt. (Hình: báo Dân Trí)

Ðại diện công nhân còn cho biết, người chủ công ty mới đây lại buộc công nhân phải gánh chi phí thuê nhà xưởng, tiền điện v.v...

Báo Dân Trí nói có đến hai phần ba, trong tổng số 300 công nhân công ty đã nghỉ việc. Một trăm người còn lại, sáng ngày 29 tháng 4, 2014 quyết định làm đơn xin nghỉ việc “tập thể.”

Cũng theo báo Dân Trí, cuối tháng 1 vừa qua, chính quyền thành phố Sài Gòn đã mở cuộc kiểm tra công ty này, phát giác nhiều sai phạm. Lỗi vi phạm này bao gồm việc chậm đóng bảo hiểm xã hội cho công nhân, thu dụng người ngoại quốc vào làm việc trái phép v.v... Công ty này bị buộc nộp phạt khoảng 12,000 đô la, nhưng đến nay vẫn chưa chấp hành.

Mặt khác, Quỹ Bảo Hiểm Xã Hội huyện Hóc Môn cho hay, công ty Young Woo hiện còn nợ bảo hiểm xã hội trên 700 triệu đồng, tương đương 35,000 đô la.

Tin của báo Dân Trí nói rằng, chiều ngày 29 tháng 4, 2014, phó chủ tịch chính quyền Sài Gòn đã yêu cầu mở cuộc thanh tra công ty Young Woo, sau vụ 100 công nhân làm đơn xin nghỉ việc. (PL)

'Oan mà chết thì không chịu được'




Dương Chí Dũng trước sau vẫn nói mình 'bị oan'

BBC-Phiên tòa phúc thẩm các vụ án ‘Tham ô’ và ‘Cố ý làm trái’ ở Vinalines vẫn chưa có án và phải đợi đến hơn một tuần nữa mới có phán quyết cuối cùng, báo chí trong nước dẫn thông báo của tòa cho biết.
Trong khi đó, các bị cáo chủ chốt của vụ án là Dương Chí Dũng, cựu chủ tịch Hội đồng Thành viên, và Mai Văn Phúc, cựu tổng giám đốc Vinalines, đều một mực kêu oan.

Hiện liệu các bị cáo Dũng và Phúc có bị giữ nguyên án tử hình hay là sẽ được giảm án đang là vấn đề được dư luận quan tâm.
Tuy nhiên, công chúng sẽ phải đợi đến ngày 7/5 thì theo dự kiến mới biết được bản án.
Trước đó, phiên tòa vốn dự kiến chỉ diễn ra trong ba ngày đã kéo dài đến năm ngày.
Hiện không rõ lý do vì sao mà phán quyết bị hoãn nhiều ngày nhưng đối với các vụ án quan trọng ở Việt Nam Tòa án thường có sự chỉ đạo của chính quyền và của Đảng.
Các ông Dũng và Phúc bị cáo buộc mỗi người nhận tiền lại quả 10 tỷ đồng từ thương vụ mua ụ nổi 83M của Nga – điều mà các bị cáo này một mực bác bỏ từ phiên tòa sơ thẩm cho đến nay.

Riêng bị cáo Trần Hải Sơn, cựu tổng giám đốc Công ty sửa chữa tàu biển của Vinalines, đã nhận tội và nói sẽ cố gắng ‘bồi thường thiệt hại’.
"Nếu trong trường hợp Hội đồng Xét xử buộc phải quyết thì bị cáo chỉ xin để cho bị cáo được sống, nếu có tội mà chết thì bị cáo chấp nhận nhưng oan mà chết thì không chịu được."-Dương Chí Dũng nói lời cuối trước Tòa"

Lời khai của ông Sơn chính là một trong các căn cứ quan trọng để Tòa xác định các bị cáo tội tham ô. Bị cáo Sơn khai đã tự tay giao tiền cho các ông Dũng và Phúc.
Trong khi đó, báo Thanh niên tường thuật rằng đại diện Ngân hàng Hàng hải mà Trần Hải Sơn khai đã rút tiền để đưa cho Dương Chí Dũng và Mai Văn Phúc nói trước tòa rằng họ vẫn chưa truy ra được giao dịch rút tiền này của bị cáo Sơn.

Ngoài ra các chứng cứ khác được luật sư đưa ra như thời gian ông Dũng bay từ Hà Nội vào Thành phố Hồ Chí Minh để chứng minh ông Dũng không nhận tiền của ông Sơn tại một khách sạn ở thành phố này đều bị tòa bác.
Theo tường thuật của Tuổi Trẻ thì để bào chữa cho mình, bị cáo Dũng còn lập luận rằng ông không thể tự đem số tiền nhiều tỷ đồng qua các cửa kiểm soát để lên máy bay về Hà Nội.

‘Quýt làm cam chịu’

Trong lời cuối cùng tại Tòa, Dương Chí Dũng và Mai Văn Phúc đều một mực cho rằng mình ‘bị kết tội oan’.
“Nếu trong trường hợp Hội đồng Xét xử buộc phải quyết thì bị cáo chỉ xin để cho bị cáo được sống, nếu có tội mà chết thì bị cáo chấp nhận nhưng oan mà chết thì không chịu được," bị cáo Dũng được Tuổi Trẻ dẫn lời nói và yêu cầu Tòa tránh để xảy ra trường hợp ‘quýt làm cam chịu’.

Khác với các bị cáo còn lại, Trần Hải Sơn đã nhận tội

Tờ Thanh niên còn dẫn lời Dương Chí Dũng nói thêm rằng việc cho ông một con đường sống là ‘món quà mà Đảng, nhà nước, nhân dân dành cho bị cáo cho những thời gian, thành tích đã cống hiến của bị cáo để chứng kiến ngày mọi việc được làm rõ;.
Mai Văn Phúc cũng bác bỏ cáo trạng của Viện kiểm sát và nói ‘Viện kiểm sát chỉ căn cứ lời khai của Sơn để buộc bị cáo 2 tội danh’.
“Bị cáo về nhận chức đã làm hết sức mình để củng cố và phát triển tổng công ty và đã được ghi nhận. Nhưng sự việc đáng tiếc này vẫn xảy ra, bị cáo thấy rằng khi bị cáo về họ đã sắp đặt sẵn và gần như xong xuôi hết rồi,” ông Phúc được dẫn lời nói.
Riêng bị cáo Trần Hải Sơn nói: “Quá trình điều tra, xét xử, bị cáo đã nhận thức được sai phạm và mong muốn thời gian tới gia đình bị cáo sẽ khắc phục hậu quả.”

11:20 GMT - thứ ba, 29 tháng 4, 2014

“Ông trời con” Hoàng Kông Tư vs. BBC Việt ngữ

Thứ sáu, ngày 25/4/2014, trao đổi với tờ báo “nhà trồng được” là Công An Nhân Dân, Trung tướng Hoàng Kông Tư, Thủ trưởng Cơ quan ANĐT Bộ Công an, tuyên bố đại ý: Vào cùng ngày, Cơ quan ANĐT Bộ Công an đã khởi tố một vụ án hình sự về tội vu khống, liên quan đến bài báo “Dương Chí Dũng và những triệu đô la” của phóng viên Nguyễn Hùng trên BBC tiếng Việt.

Đáng chú ý là bài báo của phóng viên Nguyễn Hùng chỉ mới đăng trên BBC Việt ngữ vào thứ năm, ngày 24/4. Nghĩa là vừa đăng hôm trước, thì hôm sau Cơ quan ANĐT đã khởi tố liền. Đồng thời chỉ trong vòng 24 tiếng đồng hồ, cơ quan ấy cũng đã kịp “xác minh, làm rõ và xác định” một người tên Tiệc nào đó là ông Ngô Xuân Tiệc, sinh năm 1961, thường trú tại 277 Phạm Văn Hải, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh, là Chủ tịch, Tổng Giám đốc Công ty cổ phần đầu tư phát triển Tâm Sinh Nghĩa. Chưa hết, Cơ quan ANĐT còn kịp buộc được ông Tiệc này “viết bản tường trình cam đoan, khẳng định hoàn toàn không có sự việc như Dương Chí Dũng khai”.

Mọi sự diễn ra quả là nhanh chóng. Tướng Tư nói thêm: “Quá trình điều tra, nếu xác định phóng viên Nguyễn Hùng đang làm việc ở Ban Việt ngữ đài BBC ở Vương quốc Anh là tác giả bài báo thì Cơ quan ANĐT sẽ tiến hành các thủ tục cần thiết yêu cầu cơ quan tư pháp Vương quốc Anh hỗ trợ triệu tập phóng viên Nguyễn Hùng về Việt Nam để điều tra… và xử lý theo quy định của pháp luật…”.

Bài trao đổi của tướng Tư với cơ quan ngôn luận của ngành có thể cho chúng ta thấy hai điều: Thứ nhất, ông hiểu rất ít về báo chí. Thứ hai, ông có cách hành xử của người tưởng mình là ông trời (con).

Ảnh không rõ nguồn
Không phải cứ thích kết tội báo chí là kết tội được

Ở đây, cần phải nói rõ là ông Tư không hiểu về báo chí nói chung và các nguyên tắc chung của nghề báo, chứ không phải thứ báo chí công cụ mà Đảng và Nhà nước vốn quen xài ở Việt Nam.

Một cách chung nhất thì có thể nói rằng việc đưa thông tin sai sự thật làm ảnh hưởng đến uy tín của một cá nhân/ tổ chức cấu thành một thứ tội trong báo chí, gọi là tội vu khống, bôi nhọ (defamation/ slander/ libel). Trên tinh thần bảo vệ quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận, các nền  luật pháp cũng như các nền báo chí lớn trên thế giới (Mỹ, Anh) đều không hình sự hóa tội này, đặc biệt khi người nại rằng họ bị báo chí làm mất uy tín lại là người của công chúng (public figure), nghĩa là bao gồm cả quan chức chính quyền.

Tại Mỹ, Tu chính án số 1 bảo vệ tuyệt đối các quyền tự do tư tưởng, trong đó có quyền tự do báo chí: “Quốc hội không làm luật để tôn xưng sự khai lập một tôn giáo, hoặc ngăn cấm sự tự do hành đạo, hoặc hạn chế tự do ngôn luận, hoặc tự do báo chí, hoặc quyền của người dân được tụ tập ôn hòa và quyền ra yêu sách buộc chính phủ sửa sai những bất công”. Luật pháp cho nhà báo quyền được viết về gần như tất cả mọi thứ và hầu như luôn được miễn trách nhiệm hình sự khi họ chỉ trích quan chức chính quyền. Thậm chí nhà báo không bị yêu cầu phải đưa tin có trách nhiệm, công bằng. Mike Farrell, một giáo sư về truyền thông và luật báo chí Mỹ, từng nhận định: “Tu chính án số 1 không buộc nhà báo phải công bằng, phải nghiên cứu toàn diện các vấn đề, phải kể lại câu chuyện trong bối cảnh của nó, phải nhận lỗi, xin lỗi”. (Đấy là chưa nói thêm, Tu chính án số 1 không để cho chính quyền có quyền cấp thẻ nhà báo.)

Trong một án lệ nổi tiếng năm 1964, Sullivan kiện New York Times, Chánh án Tòa án Tối cao Hoa Kỳ Brennan ra phán quyết rằng quan chức nhà nước chỉ có thể được phục hồi danh dự nếu chứng minh được là việc báo chí đưa tin sai sự thật xuất phát từ dụng ý xấu, nói cách khác là cố tình tung tin sai. Nhưng điều này rất khó chứng minh, cho nên có thể thấy là quan chức, nếu kiện báo chí cũng khó mà thắng. Với án lệ này, báo chí Mỹ được bảo vệ gần như tuyệt đối.

Trong Bộ luật Hình sự của Việt Nam, “dụng ý xấu” được diễn giải là “bịa đặt, loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt nhằm xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác…” (Điều 122). Trường hợp phóng viên Nguyễn Hùng của BBC (người mang hai quốc tịch Việt Nam và Anh), Cơ quan ANĐT chưa cần biết ông Hùng có “biết rõ là thông tin bịa đặt” hay không mà đã vội khép tội, quả là nhanh chóng lắm thay! Dù sao đi nữa, trách nhiệm chứng minh thông tin đó là bịa đặt và ông Hùng cố ý loan truyền thuộc về cơ quan ANĐT. Nếu không chứng minh được thì quý cơ quan thua.

So với Mỹ, luật pháp Anh ít bảo vệ nhà báo hơn. Tiền bồi thường thiệt hại danh dự cho các nạn nhân của báo chí trong các vụ liên quan đến tội “libel” khá cao, có thể lên tới hơn 500.000 bảng Anh (gần 1 triệu USD) như trong một vài vụ nổi tiếng. Nhưng luật pháp Anh cũng quy định quyền miễn trừ dành cho báo chí, chẳng hạn như khi phản ánh một vấn đề thuộc về lợi ích công (hoặc được công chúng quan tâm) theo một cách có trách nhiệm; khi đó, báo chí được miễn trừ ngay cả khi thông tin họ phản ánh không đúng sự thật. Chánh án Donald Nicholls còn đưa ra một danh sách 10 tiêu chí mà báo chí, căn cứ vào đó, có thể được miễn trách nhiệm, chẳng hạn giọng điệu, ngôn ngữ của bài báo – chú ý rằng báo chí được quyền nêu nghi vấn và/hoặc kêu gọi tiến hành điều tra – và thời gian tác nghiệp hay là “độ nóng” của sự kiện – rõ ràng là trong nhiều tình huống cần đưa tin gấp rút, liên quan đến lợi ích công, nhà báo có thể không có điều kiện kiểm chứng thông tin. (Đó là chưa kể, ngay cả nếu BBC Việt ngữ gọi điện từ nước ngoài về cho một cán bộ nào đó của Bộ Công an để kiểm chứng thông tin, cũng gần như chắc chắn 100% là không có câu trả lời).

Một điều quan trọng là ở các nền luật pháp bảo vệ quyền con người, “tội” đưa tin sai sự thật của báo chí không bao giờ bị hình sự hóa và càng không có chuyện nhà báo bị bỏ tù. Ở Việt Nam thì khác: Đưa tin đúng hay sai sự thật, không cần biết, nhưng hễ động chạm các ông trời con thì nhà báo chắc chắn bị xử lý nghiêm khắc, bao gồm cả đi tù.

Đối với báo chí Việt Nam, luật pháp dĩ nhiên chỉ là công cụ để Nhà nước quản lý báo chí và định hướng tư tưởng nhân dân. Các tội liên quan đến “bảo vệ lợi ích, uy tín, danh dự, nhân phẩm” chỉ được dùng để bảo vệ các quan thôi, còn với dân thường mà nhất là “thế lực thù địch, phản động” thì báo chí cứ việc vô tư mà mạt sát, vu khống. Điều đó thì chắc ông Hoàng Kông Tư và Bộ Công an biết rõ.

Ảnh không rõ nguồn
Có dẫn độ được không?

Liên quan đến việc dẫn độ tội phạm, đầu năm 2009, Anh và Việt Nam có ký Hiệp định Tương trợ Tư pháp. Theo đó, về phía Anh, cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhận yêu cầu dẫn độ tội phạm là Quốc vụ khanh (Secretary of State) và Tổng cục Thuế vụ và Hải quan (HMRC). Phía Việt Nam, cơ quan duy nhất có thẩm quyền gửi yêu cầu dẫn độ là Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao. Vì đơn vị này lâu nay vốn dĩ “phối hợp ăn ý” với an ninh, công an, cho nên Cơ quan ANĐT của ông Kông Tư có thể dễ dàng có được yêu cầu dẫn độ cộp dấu của Viện Kiểm sát, nếu muốn.

Tuy nhiên, Nhà nước Việt Nam đòi Anh dẫn độ ông Nguyễn Hùng (mang hai quốc tịch Anh và Việt) là một chuyện, Anh có đồng ý không lại là chuyện khác. Nhìn chung, việc dẫn độ có khả năng được thực hiện với các tội nghiêm trọng như khủng bố, giết người, chứ chẳng nhà nước có chủ quyền nào lại dẫn độ một công dân của mình vì người đó đã… viết báo động chạm tới quan chức của nước khác (!). Bên cạnh đó, Điều 4 Hiệp định Tương trợ Tư pháp cũng quy định rõ về các trường hợp “Từ chối Hỗ trợ”, chẳng hạn, từ chối:

- nếu như việc dẫn độ ảnh hưởng đến chủ quyền, an ninh, trật tự công cộng và các lợi ích căn bản khác của bên nhận được yêu cầu dẫn độ;

- nếu như yêu cầu dẫn độ liên quan đến những thủ tục hình sự có động cơ chính trị;

- nếu như bên yêu cầu dẫn độ (Việt Nam) không đáp ứng được các quy định của luật pháp Anh về “phạm tội ở cả hai nước”.

“Phạm tội ở cả hai nước” (dual criminality) là một quy định trong luật liên quan đến dẫn độ ở nhiều quốc gia, kể cả Anh; theo đó, một nghi phạm chỉ có thể bị dẫn độ từ một nước A sang một nước B để chịu xét xử vì vi phạm luật nước B, nếu ở nước A cũng có luật tương tự.

Do vậy, nếu pháp luật ở Anh không hình sự hóa việc nhà báo đưa tin không vừa ý cơ quan công quyền, thì theo nguyên tắc “dual criminality”, ông Nguyễn Hùng không thể bị dẫn độ khỏi Anh để sang một nước mà tại đó ông sẽ bị kết tội.

Nguồn: Tuổi Trẻ.
Khởi tố để làm gì?

Thật khó để tin rằng Hoàng Kông Tư không biết những nguyên tắc nêu trên khi ngành công an của ông có cả một văn phòng Interpol chuyên phụ trách lãnh vực hợp tác quốc tế, dẫn độ tội phạm và điều tra xuyên quốc gia.

Nhưng, nếu biết chắc việc Vương quốc Anh dẫn độ phóng viên Nguyễn Hùng là bất khả thi, tại sao tướng Tư lại chủ động “mượn” báo ngành công an để phát lệnh khởi tố và đưa ra yêu cầu dẫn độ như trên? Nói nôm na là, biết rằng không thể, hà cớ gì vẫn làm?

Có thể lý giải hành động của tướng Tư khi giả định là dường như ông ta có một mục tiêu khác và việc khởi tố phóng viên Nguyễn Hùng chỉ là cái cớ.

Vậy mục tiêu đó là gì?

Có người đoán rằng tướng Tư muốn “rung cây dọa khỉ”: đưa nhà báo Nguyễn Hùng ra để dọa các facebooker, blogger trong nước. Nhưng giả định này bất hợp lý ở mấy điểm sau:

(1) Mục tiêu dọa nạt chỉ thực sự đạt được khi Vương quốc Anh dẫn độ ông Nguyễn Hùng cho Việt Nam xử lý. Mà điều này chắc chắn sẽ không xảy ra, như phân tích ở trên; vậy thì, làm sao có thể khiến các blogger và facebooker sợ được?

(2) Ông Nguyễn Hùng sống ở nước ngoài, quốc tịch Anh, làm việc cho một hãng thông tấn quốc tế lớn trong khi các blogger thì sống trong nước, quốc tịch Việt Nam và chỉ hoạt động một cách độc lập. Khác nhau về hoàn cảnh và thế đứng như vậy, làm sao mà việc người này bị bắt có thể khiến người kia sợ sệt cho được? Vả lại, lâu nay chính quyền bỏ tù hàng chục blogger, cũng đã đủ cho mục tiêu dọa nạt của họ, đâu cần phải thêm vào danh sách một nhà báo quốc tế như ông Nguyễn Hùng mà cho dù có bắt được chính quyền cũng sẽ gặp phải những tổn thất nặng nề về mặt ngoại giao và hình ảnh quốc tế.

Như vậy, sẽ là hợp lý hơn khi giả định rằng, lệnh khởi tố dường như không phải nhắm vào người bị khởi tố mà có hơi hướng phục vụ cho một mục tiêu nội bộ nào đó, đặc biệt khi xem xét đến bối cảnh là phiên tòa xử Dương Chí Dũng đang có những diễn biến mới và chưa thể ngã ngũ trong thời gian ngắn.

Mức độ xác thực của giả định trên sẽ chỉ được đánh giá sớm nhất là sau khi phiên tòa Dương Chí Dũng kết thúc. Nhưng dù kết cục có là thế nào đi chăng nữa, báo chí và dư luận Việt Nam, một lần nữa, buồn thay, vẫn chỉ là những lá bài trong canh bạc chính trị của các phe.

Trịnh Hữu Long - Nguyễn Anh Tuấn - Phạm Đoan Trang

VIDEO:Dân oan biểu tình "đả đảo cộng sản, đòi nhân quyền quốc tế"

Tâm Dân
(Tác giả gửi cho blog Cùi Các)
Cách đây khoảng 5 năm về trước, mỗi lần đi ngang qua Văn phòng Quốc Hội trên đường Võ Thị Sáu TP.HCM, tôi nhớ những người dân oan tập trung biểu tình khiếu kiện đất đai cầm những băng rôn mang thông điệp như "Đảng ơi, nhà nước ơi, dân khổ quá", "Đảng và Nhà nước ơi cứu dân"...

Nhưng cuộc biểu tình được ghi lại vào ngày 29/4 hôm qua,  khoảng 20 dân oan khiếu kiện đất đai biểu tình trước Lãnh sự quán Hoa Kỳ, đã cho thấy từ chỗ đi cầu cứu từ Đảng và Nhà nước, thì giờ đây, dân oan đã truyền đi những thông điệp như  "Đả đảo chính quyền", "Đả đảo chế độ Cộng sản", "Đả đảo cái Đảng Cộng sản ăn cướp"...



Đó là hệ quả tất yếu khi nhiều người khiếu kiện chỉ vì đấu tranh đòi lại mảnh đất của mình đã phải trải qua bản án tù vì hành vi "gây rối trật tự công cộng" hay "lợi dụng các quyền tự do dân chủ...".

Trong suốt thời gian đấu tranh, oan sai chồng chất oan sai,  họ bắt đầu nhận ra nguồn gốc oan sai, bất công là do đâu, để họ hiểu rằng nó không phải đến từ cá nhân, hay tổ chức cơ quan chính quyền địa phương, mà nó đã mang tính hệ thống của chế độ, của chính quyền.


Từ chỗ ban đầu chỉ là đấu tranh đòi lợi ích kinh tế cho riêng mình, thì nay các nạn nhân đất đai đã chuyển sang đấu tranh chính trị có ý thức, cho thấy các nạn nhân đất đai đã đánh giá đúng bản chất tạo ra oan sai bất công cho mình.

Từ chỗ chỉ là người đấu tranh giành lại mảnh đất, ngôi nhà của mình, thì nay những nạn nhân này đã chuyển sang đấu tranh đòi quyền con người, đòi "nhân quyền quốc tế".

Từ chỗ biểu tình trước Văn phòng Quốc Hội, thì nay những nạn nhân này chuyển sang biểu tình trước các cơ quan ngoại giao quốc tế.

Từ chỗ thường xuyên chịu trận khi bị tấn công đánh đập từ công đồ, an ninh mật vụ , thì giờ đây họ sẵn sàng quơ lấy bất cứ thứ gì nhặt được trên đường để chống trả lại.

Thực tế đáng buồn

Dù các cuộc biểu đấu tranh đòi quyền lợi đất đai trong thời gian qua đã chuyển sang đấu tranh chính tri có ý thức, vẫn chưa được quan tâm đúng mức để gắn kết hiệu quả với các phong trào đấu tranh dân chủ và nhân quyền.

Những người dân oan này vẫn cô đơn và lẻ loi khi đứng trước các cuộc đàn áp, cũng như sự hỗ trợ cần thiết cho họ trên bước đường đi tìm công lý của mình.

Dù đấu tranh mạnh mẽ, bền bỉ và quyết liệt bằng nhiều hình thức đấu tranh pháp lý, cho đến xuống đường biểu tình, nhưng mức độ thành công trong các vụ việc này hầu như không có.

Điển hình như vụ việc ở Văn Giang, vụ Đoàn Văn Vươn ở Tiên Lãng , đã phơi bày sự sai trái của cơ quan công quyền trước công luận, nhưng việc đòi lại lợi ích cho các nạn nhân này cũng không thể thành công, thì những vụ việc ít được biết đến hầu như không có một cơ may nào.

Vậy thì lý do nào đã dẫn đến tình trạng này?

Trước tiên, đứng từ phía nhà cầm quyền, những quyết định thu hồi đất đai đều mang lại "siêu lợi nhuận", nên nó có thể được ăn chia, và chung chi sòng phẳng cho mọi cấp, mọi ngành, từ địa phương cho đến Trung ương, từ việc kiện cáo, cho tới việc sẵn sàng thuê côn đồ ra tay.

Nếu ở các cơ quan Trung ương "còn chút lương tâm" thì cũng bất lực, vì nếu giải quyết được một đến hai vụ, thì sẽ kéo theo hàng ngàn vụ khác noi theo, vì một lực lượng oan sai khổng lồ sẽ đấu tranh quyết liệt hơn, không những các vụ án ở hiện tại mà cả trong quá khứ, nó sẽ ra một tiền lệ không tốt cho chính quyền toàn trị, nên đành chọn giải pháp "làm ngơ".

Thứ hai, đứng từ phía những nhà hoạt động bảo vệ cho quyền lợi đất đai, có thể nói họ đã quá tập trung và chỉ dừng lại ở mặt pháp lý trong các quyết định thu hồi và cưỡng chế đất.

Đồng ý là phân tích về các hành vi và quyết định pháp lý là điều không thể thiếu trong việc chỉ ra các sai trái trong các vụ việc thu hồi đất, nhưng đó là điều không đủ để mang lại thành công.

Vì thực tế đã cho thấy, ở một nơi mà tư pháp không độc lập, bị bao trùm và chi phối bởi chính quyền thì không thể xem xét và xử lý cho các quyết định từ chính quyền, mà biểu hiện là hầu hết các khiếu kiện đất đai đều không được tòa án thụ lý, mà nếu có thụ lý thì phần thắng luôn thuộc về chính quyền.

Việc chỉ dừng lại về mặt pháp lý, không thể đẩy vụ án đi xa hơn, thì chỉ làm cho các nạn nhân phải vào thế tranh chấp với một chính quyền hẹp hòi, thì thất bại là điều hiển nhiên.

Đưa ra quốc tế

Trong một một mảnh đất bị thu hồi, ngoài chính quyền ra thì còn có thêm các nhóm lợi ích đứng ở một góc cạnh khác nhau để chia phần.

Cách thức đấu tranh hiệu quả không thể thiếu trong trường hợp này là đẩy vụ việc ra với quốc tế, bằng cách khiếu nại và lôi kéo các tổ chức quốc tế có liên quan vào cuộc.

Để làm được việc này, các nhà bảo vệ đất đai hãy cố gắng tìm hiểu tỉ mỉ về vai trò của các từng nhóm lợi ích trong vụ việc này. Nhóm lợi ích này là ai, có bao nhiêu nhóm được hưởng lợi từ việc này, mỗi nhóm tham gia như thế nào, có mối quan hệ và ràng buộc với với ai... Qua đó để đánh giá được góc cạnh nào cơ hội để các nhà hoạt động có thể đánh vào.

Chẳng hạn, một nhóm lợi ích dễ nhận ra nhất là nhà đầu tư trực tiếp. Thông thường để đầu tư vào một dự án, họ phải đi vay tiền. Hãy xem họ đã vay từ những ai, ai là đối tác của họ... Nếu thấy không đánh trực diện được thì hãy đánh gián tiếp.

Như các nhà hoạt động bảo vệ quyền lợi đất đai ở Cambodia đã rất thành công với hướng đi này. Trong một vụ thu hồi đất bồi thường không thỏa đáng, sử dụng pháp lý với chính quyền không thành công, các nhà hoạt động Cambodia đã tiến hành điều tra và phát hiện ra rằng chủ đầu tư đã đi vay tiền từ Ngân hàng Thế giới để đầu tư vào dự án này. Ngay lập tức, họ đã nhờ các tổ chức Xã hội dân sự chuyển đơn và báo cáo về vụ việc  để gây sức ép lên Ngân Hàng Thế giới.

Chính quyền và nhà đầu tư có thể "chịu đấm ăn xôi", nhưng đối với các tổ chức quốc tế có uy tín như Ngân hàng Quốc tế thì họ rất lo sợ bị ảnh hưởng từ các hoạt động của mình dù là gián tiếp. Thế là Ngân hàng Quốc tế đã tác động ngược trở lại chủ đầu tư và chính quyền, buộc họ phải đối thoại lại giữa các bên có sự tham gia của họ, và mức giá bồi thường cho việc thu hồi đất được nâng lên thỏa đáng, và được người dân trong vùng chấp nhận.

Qua đây cho thấy, để bảo vệ hiểu quả cho quyền lợi đất đai của người dân, đòi hỏi các nhà hoạt động, các luật sư cần hoạt động như một nhà điều tra, và xem xét cả sự chi phối của chính trị bên cạnh pháp lý.

Bên cạnh đó, có thể thực hiện các báo cáo, kiếu nại đến các cơ quan bảo vệ nhân quyền Liên Hiệp Quốc về hành vi vi phạm "quyền nhà ở" của chính quyền trong các trường hợp bị thu hồi đất đai để phù hợp theo Công ước về quyền dân sự và chính trị.