Sunday, September 7, 2014

Sài Gòn và Hà Nội

Sau khi đi tù về vài năm, khoảng 1985, tôi có mở một tiệm làm hình và tráng phim gia công trên đường Lý Thái Tổ, Sài Gòn. 

Nhờ vậy, ở đây tôi có dịp tiếp xúc với nhiều người đủ mọi tầng lớp xã hội và ở khắp mọi miền, nhất là dân miền Bắc, sau Tháng Tư, 1975, đổ xô vào Nam kiếm ăn rất nhiều. Vì dù miền Nam sau ngày “giải phóng” đã xuống cấp tột cùng, trông cũng còn khá giả, tươm tất hơn ở miền Bắc sau 20 năm dưới chế độ cộng sản.


Sài Gòn ngày nay. (Hình: Hoang Dinh Nam/AFP/Getty Images)

Một ngày nọ, tôi gặp một người trung niên miền Bắc, trông mặt mày cũng khôi ngô, nhưng áo quần nhàu nát, làn da xanh mét như người thiếu ăn, anh vào tiệm, ngửa tay ra, nói mấy câu. Nghe giọng nói tôi biết ngay là người này ở ngoài Bắc mới vào, đang hành nghề xin ăn.

Tôi hỏi anh, “Tận ngoài Bắc, sao anh vào đây đi ăn xin?”

Không hề ngượng nghịu, anh nói rõ, “Vào đây xin 10 người cũng có được 6 người móc túi cho, lại chẳng bao giờ bị chửi bới. Ngoài Bắc, nhất là Hà Nội, thì đừng hòng! Có mà chết đói.”

Ðó là điều tôi nhận ra, như vậy là có sự khác biệt nhau giữa Sài Gòn và Hà Nội. Hà Nội đại diện cho miền Bắc và Sài Gòn phản ánh cho những đặc tính của miền Nam.

Cộng Sản vào không phải làm điện khí hóa cho nông thôn trở thành thành thị, nhưng thật tình đã “nông thôn hóa” thành thị, nên dân Sài Gòn thường trực bị cúp điện, nhiều nơi tìm cách đào giếng để kiếm nước và sẵn sàng bới sân gạch lên để trồng khoai lang cải thiện, hay như ông bạn tôi ở chung cư Thanh Ða, bớt chỗ sinh hoạt để nuôi hai con heo nái trên sân thượng.

Sài Gòn sau thời gian đổi tên, nguyên do chỉ vì cái bến Nhà Rồng chết tiệt, chẳng mấy chốc xuống gần bằng Hà Nội. Bằng Hà Nội hơn, nhất là sau khi họ ồ ạt “vào thành phố” như một câu hát của Trịnh Công Sơn, với những “cửa hàng thịt phụ nữ,” “cửa hàng chất đốt thanh niên” mọc ra, cái cảnh phơi áo quần trên cửa sổ, treo khăn lông trong “xe con,” nuôi heo, trồng rau ngay trong sân nhà, hay hai anh bộ đội lái xe khác chiều dừng xe ngay giữa lộ để nói chuyện với nhau, bất cần tiếng chửi của thiên hạ.

Mới thoạt nhìn, Sài Gòn bỏ ngỏ và bắt đầu nhếch nhác giống Hà Nội, nhưng sự thật trong gan ruột, hai thành phố đối cực, đối đầu này đang có những điều khác biệt, một bên là “nơi hang ổ cuối cùng và đâu cũng thấy tàn dư Mỹ Ngụy,” và Hà Nội, “thủ đô của lương tri, phẩm giá con người!” Vì vậy mà ngày nay, sau gần 40 năm “thống nhất” người ta còn đi tìm và thấy ra có quá nhiều khác biệt giữa Sài Gòn, Hà Nội. Cách biệt vì cách đối xử chính trị như vậy, trách sao Sài Gòn và Hà Nội không cách biệt về văn hóa, mặc dầu lúc nào hai bên cũng cho bên kia là “quê hương tù dày!” Tuy vậy, Hà Nội thắt lưng, buộc bụng, tẩy não, “dốc hết hạt gạo, cục muối cho miền Nam đánh Mỹ,” làm sao so được với Sài Gòn “bơ thừa sữa cặn!”

Nói về giáo dục, sau Tháng Tư, 1975, đồng bào và thầy cô giáo miền Nam hẳn đã biết loại văn hóa ăn nói vô lễ, thô tục của lũ trẻ miền Bắc mới vào Nam, vì miền Bắc không có khẩu hiệu “tiên học lễ, hậu học văn” treo trong các lớp tiểu học. Ngày ra Bắc, lên tận Hoàng Liên Sơn, tôi đã trông thấy những nét văn hóa tiêu biểu, được viết bậy lên vách tường nhà trường tiểu học, chưa kịp xóa sạch, nói đến sự quan hệ của ngành công an và giáo dục: “Công An (đ.) Cô Giáo!”

Trên đường làng Cẩm Nhân, Yên Bái, chúng tôi đi ngang một nhà giữ trẻ của hợp tác xã, nghe tiếng trẻ khóc la và tiếng quát của một phụ nữ: “Bố mẹ chúng mày đéo cho lắm vào, để chúng mày làm khổ thân bà!” “Bà” đây là người giữ trẻ của hợp tác xã nông nghiệp, bà có nhiệm vụ giữ trẻ thì khỏi ra đồng như các hợp tác xã viên khác. Liệu lũ trẻ này lớn lên dưới sự chăm sóc của những người này này, ngôn ngữ của chúng sẽ ra sao?

Trên các blog và báo chí trong nước, đề tài “những sự khác biệt giữ Sài Gòn và Hà Nội” tương đối là một đề tài hấp dẫn.

Tôi dẫn một vài ví dụ:

Giao tiếp:

- Ở Sài Gòn, bạn dửng dưng khi thấy cô bán hàng cúi gập người chào bạn.
- Ở Hà Nội, bạn xúc động đến sững sờ khi thấy ai đó nói lời cảm ơn.

Hàng quán:

- Tô hủ tíu mì Sài Gòn được bưng ra với tô được đặt trên chiếc đĩa.
- Bát phở gà Hà Nội được khuyến mại với ngón tay cái của con bé bưng bê!

Ca ve:

- Khi bạn vừa thanh toán xong tiền cho cave...

Cave Hà Nội: “Cho em xin thêm 10 nghìn để còn đi xe ôm về.”
Cave Sài Gòn: “Em bớt cho anh 10 ngàn, lần sau nhớ kiu em nha!”

Nhà sách:

- Hà Nội: Nhân viên hách dịch.
- Sài Gòn: Vào đọc chùa thoải mái, nhất là các em bé, có thể ngồi tại chỗ đọc mà không sợ bị đuổi!

Trong quán ăn:

- Sài Gòn: “Vâng em làm ngay đây.”
- Hà Nội: “Làm gì mà cuống lên thế! Muốn nhanh thì xéo sang hàng khác!”

Bạn bè:

- Hà Nội: Hay để bụng, ghét mà trước mặt vẫn chơi, về nhà nói xấu.
- Sài Gòn: Mau huề, ghét là biến, không chạm mặt!

Nhưng liệu những sự khác biệt này kéo dài được bao lâu nữa? Bây giờ, Sài Gòn và Hà Nội đã bắt đầu đầu giống nhau, ảnh hưởng và bị đồng hóa, vì người Nam ra Bắc thì ít mà người Bắc vô Nam càng ngày càng đông, như một người tên Jor Dan viết trên blog: “Mỗi người có một cách suy nghĩ riêng. Nhưng đa phần chỉ nói yêu Hà Nội, nhưng lại thích được sống ở Sài Gòn. Ca sĩ Hà Nội vào Sài Gòn lập nghiệp nhiều quá còn gì!”

Sau gần 40 năm bây giờ hai thành phố này đã có những chuyện giống nhau. Ở đâu cũng kẹt xe kinh khủng, và sau một trận mưa, không chỉ ở thành phố “bác” mà ở Hà... cũng lội!

Vô kỷ luật:

Sinh viên:

- Hà Nội: Nhiều em cave trông như sinh viên.
- Sài Gòn: Nhiều em sinh viên trông như cave.

Giao thông:

- Sài Gòn: Bạn có thể vượt đèn đỏ thoải mái.
- Hà Nội: Bạn có thể lượn lờ trước mũi xe hơi.

Chúng ta không hy vọng gì Hà Nội và Sài Gòn sẽ mãi mãi khác nhau. Sự đồng hóa và việc di dân ồ ạt sẽ làm cho Sài Gòn càng ngày càng gần với Hà Nội. Ðiều rõ nhất là Hà Nội trước năm 1954 và Hà Nội bây giờ hoàn toàn khác nhau. Năm 1954, sau Hiệp Ðịnh Geneva, một số người đã mang sự thanh lịch của Hà Thành năm xưa đi xa, để “Hà Lội” ngày nay cho những người mới vào tiếp thu, từ giọng nói đến văn hóa cư xử đã hoàn toàn khác biệt.

Người Sài Gòn hôm nay sẽ không còn là người Sài Gòn của những ngày tháng cũ, tất cả chỉ còn là chuyện thời gian.

Chỉ sợ sau ngày Sài Gòn trở lại tên cũ, chất Sài Gòn sẽ không còn nữa.

Chúng ta yêu Sài Gòn chính là yêu chính chúng ta, cái bóng của dĩ vãng. Muốn Sài Gòn không đổi thay, chính lòng mình phải không thay đổi.
09-07-2014 4:50:46 PM
Tạp ghi Huy Phương
Theo Người Việt .

Kinh tế Việt Nam tiếp tục suy thoái, quán cà phê cũng vắng

HÀ NỘI (NV) - Trong khi chính quyền Việt Nam tiếp tục công bố các số liệu cho thấy kinh tế “bắt đầu khởi sắc” thì thực tế lại chứng minh đời sống của dân chúng càng ngày càng tồi tệ hơn trước.

Báo cáo về tình hình kinh tế-xã hội sáu tháng đầu năm 2014, Tổng Cục Thống Kê Việt Nam cho biết, tốc độ tăng GDP so với cùng kỳ năm ngoái là 5,18% và đó là mức tăng GDP nửa đầu năm cao nhất trong ba năm vừa qua. Còn cơ cấu nền kinh tế trong sáu tháng đầu năm 2014 được Tổng Cục Thống Kê Việt Nam nhận định “vẫn theo hướng tích cực.”


Tuy nhiên những báo cáo khác, khác xa báo cáo của Tổng Cục Thống Kê Việt Nam.

Báo cáo mới nhất của Ngân Hàng HSBC cho biết, trong 9 tháng qua, chỉ số mua hàng của giới quản trị, thường được gọi tắt là PMI (chỉ số có tính khái quát về hoạt động sản xuất dựa trên các yếu tố như: đơn đặt hàng mới, sản lượng, việc làm, thời gian giao hàng, lượng hàng tồn kho) tiếp tục sụt giảm. Hồi tháng 7, PMI tại Việt Nam là 51.7 điểm, sang tháng 8, PMI chỉ còn 50.3 điểm.

Còn báo cáo của Kantar Worldpanel (doanh nghiệp đa quốc gia chuyên nghiên cứu về thị trường qua nghiên cứu hành vi người tiêu dùng) về thị trường hàng tiêu dùng nhanh ở Hà Nội, Ðà Nẵng, Sài Gòn và Cần Thơ thì cho biết, dân chúng ở cả bốn thành phố này đang có khuynh hướng bỏ các nhà hàng, quán ăn, thậm chí cà quán cà phê để tiết kiệm.

Theo Kantar Worldpanel, mức độ tiêu dùng ở các thành phố lớn tiếp tục giảm vì tác động của tăng trưởng thiếp tục thấp dần. Mức mua các loại thức uống như bia và cà phê hòa tan để dùng tại nhà, tăng tương ứng với tình trạng mức tiêu thụ tại các nhà hàng, quán ăn, quán cà phê giảm.

Nhiều người bảo rằng, có thể cảm nhận mức độ suy thoái của kinh tế Việt Nam đang càng ngày càng trầm trọng hơn qua sự ảm đạm của mùa Trung Thu.

Năm ngoái, cũng vào dịp này, Bloomberg - hãng tin kinh tế, tài chính lớn nhất thế giới có một phóng sự về mùa Trung Thu ở Việt Nam, qua đó cảnh báo mức độ suy thoái của kinh tế Việt Nam càng ngày càng trầm trọng

Lúc ấy, Bloomberg nhận định, từ năm 2004, thị trường bán lẻ ở Việt Nam bắt đầu chựng lại và đi xuống vì càng ngày càng nhiều người quyết định “thắt lưng buộc bụng,” cắt giảm tối đa việc mua sắm từ những đồ xa xỉ như xe hơi, ti vi công nghệ cao đến các loại thực phẩm thiết yếu.

Bloomberg cảnh báo đó sẽ là lý do làm hàng hóa tồn đọng và các doanh nghiệp phải nỗ lực chống đỡ gánh nặng nợ nần vì vốn liếng bị bất động hóa, không những không sinh lợi mà giới chủ còn phải oằn mình trả lãi. Theo Bloomberg, thái độ lạnh nhạt của người tiêu dùng Việt Nam, tại một trong những thời kỳ mua sắm bận rộn nhất trong năm, chính là bằng chứng rõ ràng nhất cho thấy, mức độ suy thoái của kinh tế Việt Nam trầm trọng hơn trước.

Năm nay, dù đã áp dụng nhiều phương thức khuyến mãi nhưng các cửa hàng bán bánh Trung Thu ế ẩm đến mức người ta tin sẽ có nhiều doanh nghiệp, cá nhân trắng tay.

Báo cáo mới nhất của HSBC cho biết, tốc độ tăng sản lượng tiếp tục chậm lại trong tháng 8 và là chậm nhất trong 11 tháng vừa qua vì số lượng đơn đặt hàng mới giảm xuống, số lượng đơn đặt hàng xuất cảng mới cũng giảm. Mức tồn kho hàng thành phẩm của tháng 8 được HSBC tiết lộ là cao nhất trong 13 tháng vừa qua. (G.Ð)

09-07- 2014 2:35:31 PM
Theo Người Việt

Phan Thiết tổ chức đêm Trung Thu tốn kém nhất Việt Nam

PHAN THIẾT (NV) - Hơn 2 tỷ đồng (khoảng $100,000), là số tiền mà ngành giáo dục thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, bỏ ra để tổ chức đêm hội Trung Thu vào tối 7 Tháng Tám, 2014.

Một chiếc đèn khổng lồ trong lễ hội Trung Thu ở Phan Thiết. (Hình: Báo Thanh Niên)

Báo Thanh Niên cho biết đây là “Lễ hội đèn Trung Thu lớn nhất Việt Nam” và cũng được xem là tốn kém nhất Việt Nam.

Báo này dẫn lời phó ban tổ chức lễ hội Nguyễn Văn Hòa cho hay, năm nay sẽ có 32 đèn Trung Thu, đại diện 32 trường học của thành phố Phan Thiết tham dự đêm rước đèn.

Theo báo Thanh Niên mô tả, thì “đèn Trung Thu trong lễ hội này, có cái cao tới 3 mét, rộng 2 mét, to như chiếc xe ô tô. Thậm chí khi đi trình diễn trên phố, phải có người cầm sào tre đi theo gỡ dây điện ngoài đường vì sợ vướng vào đèn. Ðèn Trung Thu nhưng được gắn theo cả một máy phát điện vào xe đẩy. Có con chíp điện tử điều khiển từ xa. Và có khi được gắn cả vào một chiếc ô tô mới kéo nổi.”

Và cho biết thêm, “Mỗi một trường tham gia vào lễ hội này, phải chuẩn bị nguồn kinh phí không dưới 70 triệu đồng để làm đèn. Ðấy là chưa kể 120 em đi theo hàng ngũ của lễ hội phải được trang bị 120 đèn mini, cũng với hình thù không được trùng lặp với bất cứ trường nào khác.”


Mỗi chiếc đèn thế này có giá không dưới $3,500. (Hình: Báo Thanh Niên)

“Tính trung bình, mỗi trường khoảng 70 triệu đồng cho đêm Trung Thu. Toàn ngành giáo dục thành phố Phan Thiết phải tốn mất hơn 2 tỉ đồng. Ðấy là chưa kể tiền thưởng của Ban Tổ Chức cho những đèn ‘đẹp nhất,’ ‘đẹp nhì’ của lễ hội.”

Theo báo Thanh Niên, “Lễ hội Trung Thu Phan Thiết là lễ hội truyền thống có từ hàng trăm năm nay. Nhưng quy mô của lễ hội này chỉ lớn hơn kể từ hơn chục năm trở lại đây, khi mà sách kỷ lục Guinness Việt Nam công nhận là ‘Lễ hội đèn Trung Thu lớn nhất Việt Nam.’”

Báo này dẫn lời một số phụ huynh cho rằng lễ hội như hiện nay dù khá nổi tiếng, nhưng vô cùng tốn kém.

Một bộ phận không nhỏ cán bộ, giáo viên của ngành giáo dục phản ứng nhưng không dám biểu lộ vì sợ.

Họ cho rằng lễ hội kiểu “lớn nhất Việt Nam” này không chỉ làm khổ phụ huynh, giáo viên, mà ngay cả các em học sinh cũng khổ cực. Chiếc đèn Trung Thu công phu làm mấy chục triệu, nhưng chỉ sử dụng đi diễu hành hai tiếng rồi vứt bỏ. (KN)

09-07-2014 4:20:49 PM
Theo Người Việt.

900 nhà hàng Ðài Loan dùng dầu thải tái chế, một người bị bắt

ÐÀI BẮC, Ðài Loan (AFP) - Giới hữu trách Ðài Loan hôm Chủ Nhật loan báo việc bắt giữ một nghi can trong vụ tai tiếng an toàn thực phẩm, liên quan đến việc thu hồi dầu ăn thải xuống cống rồi đem về tái chế, bán cho hơn 900 nhà hàng và lò bánh mì ở đảo quốc này.


(Hình minh họa: Patrick Lin/AFP/Getty Images)

“Do ông này có thể bỏ trốn hay thông đồng với các nghi can khác, chúng tôi quyết định bắt giam ông,” theo phát ngôn viên Pan Cheng-ping tại tòa án quận Pingtung cho báo chí hay.

Các công tố viên đã đưa đơn truy tố sau khi nghi can Kuo Lieh-chen, 32 tuổi, được thả ra hồi tuần qua, với số tiền thế chân khoảng $1,670, tạo sự bất mãn của dư luận.

Hình ảnh chiếu trên đài truyền hình cho thấy nhà ông Kuo ở thành phố Pingtung bị người phản đối ném trứng và sơn đỏ.

Có năm người khác tình nghi có liên quan đến vụ này, bị cảnh sát thẩm vấn rồi sau đó được cho đóng tiền tại ngoại hậu tra.

Cơ Quan Thực Phẩm và Dược Phẩm Ðài Loan hôm Chủ Nhật cho hay có 933 nhà hàng, lò bánh mì và nơi sản xuất thực phẩm, kể cả 397 ở Ðài Bắc, đã dùng dầu tái chế do công ty Chang Guann Co, một công ty dầu ăn hàng đầu ở Ðài Loan, sản xuất.

Các điều tra viên nói rằng trong sáu tháng, kể từ Tháng Hai, công ty Chang Guan đã mua 243 tấn dầu tái chế từ nghi can Kuo.

Ðây là loại dầu ăn đã qua sử dụng, thải đi, được ông Kuo mua về trộn với dầu từ mỡ heo, rồi bán cho người tiêu thụ trên toàn Ðài Loan.

Có tất cả 782 tấn dầu loại này được sản xuất.

Công ty Chang Guann ngỏ lời xin lỗi nhưng cũng bào chữa là họ không biết rằng đây là dầu tái chế.

Công ty Wei Chuan Foods Corp., trực thuộc công ty Ting Hsin International Group, vốn sản xuất mì ăn liền hiệu Master Kong, cho hay đã thu hồi 12 loại sản phẩm, kể từ hôm Thứ Năm tuần qua, vì có thể đã dùng dầu tái chế.

Cho tới nay giới hữu trách tịch thu 49 tấn dầu, tình nghi thuộc loại tái chế, từ công ty Chang Guann sau khi đến thanh tra nơi này hôm Thứ Năm, đồng thời cũng ra lệnh tất cả công ty mua hàng của Chang Guann phải thu hồi những sản phẩm tình nghi có dầu tái chế.

Ðây là vụ tai tiếng thực phẩm thứ nhì ở Ðài Loan chỉ trong một năm.

Hồi Tháng Mười Hai năm ngoái, một chủ cơ xưởng bị án tù 16 năm vì bán dầu olive có trộn dầu làm từ hột cottonseed với chất phẩm màu bị cấm sử dụng là chlorophyllin. (V.Giang)
09-07- 2014 2:40:38 PM

Đường bay vàng hay đảng đã đầu hàng giặc

Uyển Thi (Danlambao) - Từ hôm 26/8/2014 tổng bí thư ĐCSVN Nguyễn Phú Trọng cử Lê Hồng Anh đi xứ cống Tàu về chẳng biết hắn đã ký kết gì nhưng thằng Tàu hung hăng hẳn lên, ngày 4/9/2014 chúng cho mở tuyến du lịch ra Hoàng Sa(1) bất chấp dư luận quốc tế nói là TQ làm phức tạp tình hình biển đông, còn đảng vẫn bài ca cũ đưa người phát ngôn bộ ngoại giao Việt Nam Lê Hải Bình la lối là Trung Quốc xâm phạm chủ quyền, nhưng không bao giờ dám kiện chỉ la cho vui.

Trên biển từ hôm 2/8/2014 cho tới nay Trung quốc đã xua 9000 ngàn tàu cá chiếm hết biển đông, còn lực lượng kiểm ngư của đảng cho dù có nhận thêm những tàu hiện đại nhất Đông Nam Á (2) cũng chưa bắt được một em tàu cá của nước lạ nào, mặc cho chúng ngang nhiên đi vào vùng biển của ta thoải mái đánh bắt. Phải chăng đồng giận đồng chấy, Lê Hồng Anh và ĐCSVN đã nhận chỉ đạo của thiên triều là giữ tình hòa hảo tốt dốt, đẹp dẹp gì gì đó nên lặng câm. À mà nếu có phong viên báo chí quốc tế nào hỏi thì cứ nói do lực lượng mỏng nên không biết để ngâm cứu.

Và trên không kể từ ngày hôm anh Lê Hồng Anh đi xứ theo lời mời của thiên triều về cho đến nay đảng đã mặc ngư dân hồn treo cột buồm, các tin thời sự trong nước không còn nói đến hai từ bám biển nữa, mà các báo đài nói rất xung về cái gọi là đường bay vàng, thay vì giữ đường bay ngang biển để bảo về vùng trời đang có tranh chấp, thì đảng và anh Đinh La Tặc lại cho nghiên cứu đường bay vàng để đưa vào sử dụng cho dù thời gian bay chỉ giảm có 5 phút, và chỉ ngắn hơn lộ trình cũ có 85 km nhưng phải bay qua không phận Lào và Campuchia và chịu phí rất đắt.

Thật buồn cho 700 tờ báo đảng toàn tiến sỹ này thạc sỹ kia đã bị đảng cho ăn quả lừa, thay vì nên viết những bài chuyên sâu phân tích không có lợi bởi đánh mất không phận trên vùng biển của tổ quốc, dễ dàng cho TQ mở rộng vùng ADIZ trên Biển Đông, như chúng đã từng làm ở biển Hoa Đông Nhật Bản. Nhưng tất cả các tờ báo lại ca ngợi đường bay như mới nhặt được của quí, có tờ báo còn tuyên bố hãi hùng đường bay vàng hòa cũng bay (3) nhưng thực tế thử nghiệm lỗ.

Hành động của ĐCSVN với đường bay vàng thật ra không có gì là lạ, chúng ta nhớ lại dịp 10/2011, trong chuyến thăm Trung Quốc của TBT Nguyễn Phú Trọng, hai bên đã ra Tuyên bố chung, và ký cái quái gì không ai biết(4), Anh Lú về quê đập tan biểu tình chống Trung Quốc. Thế nhưng sau đó, họ thành lập các cơ quan hành chính trên đảo Hoàng Sa của ta và tiến tới thành lập cái gọi là “TP. Tam Sa”.

Rồi đến anh Sang Sâu tháng 6/2013, Việt Nam và Trung Quốc đã ra Tuyên bố chung khẳng định: “Hai bên đã nhìn lại quá trình phát triển quan hệ Việt-Trung, nhất trí cho điều gì đó mà chỉ những thằng tứ trụ thiên lôi mới biết, anh Sang Sâu về quê cho bắt các blog như Trương Duy Nhất, và đàn áp những người chống đối Trung Quốc thì ngoài biển họ gây hấn, giở trò bắt giữ trái phép tàu thuyền của ngư dân ta.

Và bây giờ khi anh Lê Hồng Anh đã ký với họ những điều gì gì đó? thì đảng nhất quyết không thả anh Điếu Cày đợt 2/9 cho dù 14 tổ chức quốc tế gủi thư cho Sang Sâu cũng vô hiệu nghiệm, Song Song đó tòa án Đồng Tháp quyết bắt tù Bùi Hằng, Nguyễn Văn Minh và Nguyễn Thị Thúy Quỳnh, ngày 25/08/2014 cho thấy đảng đã phục tùng Trung Quốc, và đường bay vàng đương nhiên sẽ được thực hiện.

Chúng ta là những công dân Việt Nam, đất nước này không phải của đảng hay của riêng ai? Nên không ai kể cả đảng có quyền nhường biển đảo cho giặc, bằng cái gọi là "đường bay vàng" nếu tất cả chúng ta không lên tiếng chúng ta sẽ có tội với tổ tiên và con cháu sau này. Đừng sợ chúng ta hãy cùng nhau đứng lên một ngày để phản đối và tiêu diệt đảng CS trước khi dân tộc ta thành Hán? Bởi đảng đã đầu hàng ngoại xâm



__________________________________________

Ghi chú:





Khi lãnh tụ cộng sản nổi máu côn đồ

Ông Lê Duẩn (đội mũ cối) tại thời điểm đang ngồi ghế tổng bí thư đảng CSVN được 25 năm

Bạn đọc Danlambao - Cố tổng bí thư Lê Duẩn được đảng cộng sản gọi là ‘người học trò xuất sắc của chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại’. Trong 26 năm giữ quyền lực tối thượng cho đến lúc chết, TBT Lê Duẩn có lúc được bộ máy tuyên truyền CS tô vẽ là nhân vật ‘vĩ đại’ ngang tầm ông Hồ Chí Minh.

Dù vậy, bộ mặt thật của ‘lãnh tụ kiệt xuất’ Lê Duẩn vừa tiếp tục bị lột trần bởi nhà văn Trần Đĩnh qua tác phẩm Đèn Cù. Trong đó có chi tiết kể lại việc Lê Duẩn đã trực tiếp ra tay hành xử côn đồ đối với triết gia Trần Đức Thảo, một trí thức uyên bác bị cộng sản lừa gạt.

Vụ việc đã được nhà văn Trần Đĩnh kể lại một cách chân thực như sau:

Ảnh chụp trang 433, 434 quyển sách Đèn Cù của nhà văn Trần Đĩnh

Chỉ một chi tiết trên cũng đủ để thấy được bản chất côn đồ đã ăn sâu trong máu của những người cộng sản. Đó là chưa nói đến việc ra tay hành hung đối với một người trí thức bị xem là hành vi thấp hèn.

Chế độ cộng sản vẫn hay bị xem là chế độ côn đồ cũng vì thế.

Cho đến nay, nhiều vị tự nhận là ‘nhân sỹ’ hay đảng viên lão thành vẫn hay ngụy biện rằng: đảng cộng sản ngày xưa tốt, nhưng ngày nay ‘không tốt’ vì bị một số lãnh đạo đảng làm sai (!?).

Thiệt hết biết! 

Hy vọng rằng sau khi đọc xong tác phẩm Đèn Cù, các vị đảng viên phản tỉnh có thể nhận rõ bản chất của cộng sản đã xấu từ lúc sinh ra, mau chóng vứt đi cái thẻ đảng đã lừa dối các vị suốt bao năm nay.

Bản thảo điện tử tác phẩm Đèn Cù của nhà văn Trần Đĩnh hiện đang được lan truyền trên các mạng xã hội. Phiên bản điện tử chính thức của quyển sách dự kiến sẽ sớm được công bố trong thời gian gần đây.

"Sương trắng miền quê Ngoại"



Tóm lược: "Sương Trắng Miền Quê Ngoại" là một bài hát chứa chan tình yêu thương mẹ của một anh lính Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) trong lúc đi hành quân. Tác giả diễn tả tình yêu thương mẹ đó với những hình ảnh sâu sắc và thơ mộng trong phần đầu. Cách dùng chữ và kỹ thuật viết rất có hiệu quả và gây cảm xúc mạnh. Phần sau không được hay bằng, nhưng vì khía cạnh nhạc (giai điệu, hòa âm, và nhịp điệu) và phần đầu quá sáng chói nên người nghe quên đi hoặc bỏ qua vài khuyết điểm ở phần sau. Bài hát là một thí dụ cho thấy sức sáng tạo kỳ diệu và sức mạnh của âm nhạc miền Nam trước năm 1975.

***

Năm 1970, Duy Khánh, ca sĩ nổi tiếng ở miền Nam Việt Nam, trình bày bài"Sương Trắng Miền Quê Ngoại" lần đầu. Bài hát làm rúng động nền âm nhạc bấy giờ vì giai điệu tuyệt vời và lời nhạc tha thiết, nói về lòng thương nhớ của một người lính về quê ngoại. Một điểm kỳ lạ là nhạc sĩ của bài hát là một người hầu như không ai biết đến lúc bấy giờ. Tên nhạc sĩ là Đinh Miên Vũ. Một điểm kỳ lạ hơn thế nữa là trong suốt cả thời gian sau đó cho tới năm 1975 khi miền Nam bị rơi vào ách đô hộ của cộng sản, Đinh Miên Vũ không hề sáng tác thêm một bài nào. (Bài hát "Xin Em Đừng Khóc Vu Quy" mà hiện nay nhiều nơi ghi tên tác giả là Đinh Miên Vũ - Linh Phương thật ra tác giả chính xác là Minh Phương.) Thông thường, khi tác giả một bài hát đạt thành công rực rỡ với tác phẩm đầu tay, người đó sẽ viết các tác phẩm kế tiếp, nhất là trong thời gian đó, nền âm nhạc ở miền Nam đang ở tột đỉnh với hàng trăm bài hát trên radio và sau này là truyền hình. Sự kỳ lạ đó chưa chấm hết. Cho đến nay, năm 2014, tác giả thực sự của bài hát vẫn chưa được xác định hoàn toàn.

Câu chuyện bí ẩn ai là Đinh Miên Vũ được Nguyễn Ngọc Ngạn, MC của chương trình âm nhạc Thúy Nga, thuật lại trong bài "Kỷ Niệm Sân Khấu" (Nguyễn Ngọc Ngạn). Đại khái, khi ca sĩ Quang Lê trình bày bài tại San Jose, một người đến gặp anh và cho biết ông ta là Đinh Miên Vũ, tên thật là Đinh Miên, đang cư ngụ ở Bắc California, và là tác giả bài "Sương Trắng Miền Quê Ngoại." Sau đó, Đinh Miên viết bài "Hai Quê" và bài đó được Quang Lê trình bày tại Korea. Năm 2008, một người tên là Vũ (hay Võ) Hữu Bình, cư ngụ tại Miami, Florida, viết thư cho Nguyễn Ngọc Ngạn cho biết ông ta là một trong ba người tác giả của bài hát. Hai người bạn kia của ông tên là Đinh Trụ và Miên Thành. Tên Đinh Miên Vũ là tên ghép từ họ của ba người. Ba người cùng sáng tác bài hát lúc đóng quân ở phi trường Đồng Hới, Đông Hà, Quảng Trị. Võ Hữu Bình chỉ muốn nhờ Thúy Nga loan báo để tìm lại hai người bạn đồng đội đó vì sau khi cùng nhau sáng tác và gởi cho Duy Khánh, họ mất liên lạc. Nguyễn Ngọc Ngạn móc nối để Võ Hữu Bình liên lạc với Đinh Miên để xem Đinh Miên có phải là một trong hai người Đinh Trụ và Miên Thành không. Kết quả là Đinh Miên không phải là Đinh Trụ và Miên Thành, và cả hai đều duy trì là họ là tác giả của bài hát, Đinh Miên là tác giả duy nhất và Võ Hữu Bình là đồng tác giả với Đinh Trụ và Miên Thành. 

Cả hai người, Đinh Miên và Võ Hữu Bình, đều không nhận tiền tác quyền. Do đó, tiền bạc không phải là lý do họ nhận là tác giả. Tiếng tăm chắc cũng không phải là lý do, vì cả hai đều có vẻ muốn sống cuộc đời ẩn dật. Người duy nhất có thể biết sự thật là ca sĩ Duy Khánh, người đã mua tác quyền của bài hát lúc ở Việt Nam. Nhưng Duy Khánh đã mất năm 2003; và do đó, chuyện ai là tác giả bài "Sương Trắng Miền Quê Ngoại" sẽ vĩnh viễn là một bí mật trừ phi có thêm chứng cớ mới đáng tin cậy.

Vì tác giả thực sự của bài hát chưa được xác định rõ rệt, tôi sẽ không viết thêm về tiểu sử tác giả. Bạn đọc có thể đọc tiểu sử Đinh Miên trên mạng (Wikipedia 2014). Tuy nhiên, cái tên Đinh Miên Vũ là danh xưng không ai phủ nhận. Do đó, tôi sẽ dùng Đinh Miên Vũ là tên tác giả, cho dù đó là Đinh Miên hoặc ba người Đinh Trụ, Miên Thành, và Võ Hữu Bình.

Với vỏn vẹn một bài hát và tác giả chưa được xác định, rất khó viết về ý tưởng và các nhận xét khác về bài hát. May thay, như đa số các bài hát khác của miền Nam Việt Nam trước 1975, bài "Sương Trắng Miền Quê Ngoại" tự nó có đầy đủ chứng cớ cho một bài hay với nội dung đầy tình cảm và cách diễn tả tuyệt vời tuy có vài khuyết điểm, mà không cần tra cứu gì thêm về tác giả. 

Tôi đã viết về bài "Về Đâu Mái Tóc Người Thương" (Cao-Đắc 2014a) và "Một Mai Giã Từ Vũ Khí" (Cao-Đắc 2014b). Trong bài này tôi sẽ không lập lại những gì đã viết về hai bài đó. 

Phẩm chất hoặc giá trị của một bài hát thường dựa vào hai khía cạnh: nhạc (music) và lời (lyric). Khía cạnh nhạc thường gồm có ba yếu tố: giai điệu (melody), hòa âm (harmony), và nhịp điệu (rhythm). Khía cạnh lời gồm có nội dung câu chuyện, ý nghĩa câu ca, từ ngữ, cách dùng chữ, cú pháp, cách hành văn. Ngoài hai khía cạnh trên, còn có các khía cạnh khác như nhạc cụ, ca sĩ, nhạc cảnh, phụ diễn (vũ công, người mẫu, v.v.). Tôi tin rằng những bài hát hay cần phải hay cả nhạc lẫn lời. Có những bài hay vì khía cạnh nhạc, nhưng lời không xuất sắc lắm. Một thí dụ điển hình là bài "Những bước chân âm thầm" của Y Vân. Có rất ít bài hay chỉ vì lời. Lý do đơn giản là âm nhạc dựa vào âm thanh, và âm thanh chỉ có thể cảm nhận bằng nghe, chứ không thể bằng đọc hoặc nhìn được. Nếu ai chỉ muốn thưởng thức lời thì họ có thể tìm được ở một bài văn hoặc một bài thơ. Tuy nhiên, lời nhạc đóng góp một phần quan trọng trong giá trị của bài nhạc. Nhiều khi chỉ một câu trong bài nhạc cũng đủ làm cho người nghe xao xuyến. Thí dụ như câu "Hồn lỡ sa vào đôi mắt em" như tôi phân tích trước đây.

Bài "Sương Trắng Miền Quê Ngoại" hay cả nhạc lẫn lời, tuy lời chỉ xuất sắc ở phần đầu như sẽ được phân tích sau. Như trong hai bài trước, tôi sẽ chỉ chú trọng về khía cạnh văn chương của lời nhạc.

Nguyên văn lời bài hát như sau.

Lội bùn dơ băng lau lách xuyên đêm
Sương trắng rơi vai tôi ướt lạnh mềm
Chim muông buồn rủ nhau bay về đâu 
Ngẩn ngơ lũ vượn gọi nhau

Nào những khi ôm thép súng tê tay
Đăm mắt theo bao hư ảo thở dài
Nơi chốn xa buồn thương mẹ quàng gánh
Em còn khêu sáng ánh đèn từ sương mai

Mẹ biết bây giờ con ngồi hố nhỏ, gió hẹn mưa thề 
Một khi con về quê ngoại xưa, để mẹ nhắn lời thăm
Đường làng cũ năm nào, 
khi con còn bé nhỏ theo mẹ đến trường
Giờ đây con đường xưa còn đó
Tóc liễu vờn gió ru buồn...

Bận hành quân nên chắc khó thăm nhau
Nhưng có nhau như hơi thở vào đời
Tóc em còn có thơm hương cỏ may
Để anh nói chuyện ngày mai

Bạn bè anh theo lớp tuổi ra đi
Dăm đứa thân nghe tin chẳng trở về
Xin có em nguyện cầu cho đời anh
Đá mềm chân cứng để mẹ còn tương lai...

Như đa số nhiều bài hát khác, lời nhạc thường bị ghi chép sai lầm, hoặc ca sĩ sửa đổi lời nhạc, vô tình hay cố ý. Có những sửa đổi vô hại, nhưng có những sửa đổi làm mất ý nghĩa của câu. Trong bài, có vài chỗ lời bị thay đổi. Thí dụ như "buốt" thay vì "ướt" trong câu "Sương trắng rơi vai tôi ướt lạnh mềm," "cuộc đời" thay vì "buồn thương" và "quẳng" thay vì "quàng" trong câu "Nơi chốn xa buồn thương mẹ quàng gánh," "phố" thay vì "hố" trong câu "Mẹ biết bây giờ con ngồi hố nhỏ," "liều" thay vì "liễu" và "hoài" thay vì "buồn" trong câu "Tóc liễu vờn gió ru buồn," "đôi khi" thay vì "nghe tin" trong câu "Dăm đứa thân nghe tin chẳng trở về." Tất cả những sửa lời này làm mất, và có khi còn làm trái ngược, ý nghĩa của bài hát. Thí dụ như "quẳng gánh" là vất gánh xuống, trong khi "quàng gánh" là vác gánh lên vai. Câu ca đang nói về ban mai, khi người mẹ gánh hàng ra chợ bán, cô em còn "khêu sáng ánh đèn từ sương mai" thì làm sao mà quẳng gánh được?

Tình yêu thương mẹ được thể hiện tuyệt vời với lối diễn tả đơn giản nhưng táo bạo và độc đáo 

Nội dung bài hát là lời nói của anh lính xa nhà. Trong lúc đi hành quân trong vùng núi rừng, anh nhớ đến mẹ anh và hồi tưởng ngày thơ ấu đi theo mẹ đến trường. Anh có người yêu, và anh muốn người yêu cầu nguyện cho anh để anh hoàn thành sứ mạng. 

Bài hát không chú trọng vào cốt chuyện duy nhất về người mẹ. Anh lính đề cập đến cuộc sống lính tráng của anh, chuyện tình, và bạn bè của anh. Vì vậy, người nghe có thể bị phân tán, và có cảm tưởng tình tiết không được chặt chẽ. Tác giả cố móc nối chuyện tình anh với mẹ anh bằng câu chót, nhưng ý nghĩa câu chót mơ hồ và sự móc nối lỏng lẻo nên không tạo được tính chất mạch lạc chặt chẽ của các ý tưởng. Tuy nhiên, với kỹ thuật diễn tả điêu luyện và cách dùng chữ tài tình, tác giả đã làm nổi bật lòng thương yêu mẹ và tình quê ngoại của anh lính. 

Mở đầu, anh lính nói đến cuộc hành quân của anh. Anh phải "lội bùn dơ" và đi ngang qua đám lau sậy trong nước chằng chịt khiến anh phải cố lách qua và phải đi như vậy suốt cả đêm. Nơi anh đi chắc phải là vùng rừng núi. Sương rơi trên vai làm ướt áo anh. Chắc là anh không đi một mình và có các bạn đồng đội đi theo. Nhưng anh và đồng đội anh phải đi qua lạch đầy bùn và lau sậy một cách yên tịnh, có thể vì sợ quân địch khám phá, vì anh có thể thấy đàn chim bay và nghe tiếng khỉ vượn hú.

Nơi anh đi hành quân ở đâu? Dựa vào nhan đề bài hát "Sương trắng miền quê ngoại" và "sương trắng rơi vai" anh "ướt lạnh mềm", ta có thể hiểu được là anh đang đi hành quân ở miền quê ngoại. Vì vậy anh nhớ đến mẹ và em anh. Mẹ và em anh đang ở "nơi chốn xa" và không ở miền quê ngoại. Trong lúc hành quân, anh phải ngồi chờ, có thể chờ quân địch hoặc chờ chỉ thị hoặc tiếp viện. Ngồi trong "hố nhỏ" trong cơn mưa gió, anh nhìn về phía xa xa và tưởng tượng hình ảnh gia đình anh lúc đó. Bấy giờ là sáng sớm, mẹ anh đang vác gánh lên vai để mang hàng ra chợ bán. Em của anh đang khêu đèn để có ánh sáng vì mặt trời chưa mọc.

Chắc anh cũng thường xuyên liên lạc thư từ với mẹ anh, nên mẹ anh biết anh đang "ngồi hố nhỏ" trong cơn mưa gió trong khung cảnh hoang vu của rừng núi ("Mẹ biết bây giờ con ngồi hố nhỏ"). Với chi tiết anh biết mẹ anh đang quàng gánh lúc sáng sớm mai, và mẹ anh biết anh đang ngồi hố nhỏ trong chuyến hành quân, tác giả cho thấy mối liên hệ mẹ con của anh lính rất mật thiết, kể lể tâm sự với nhau nhiều lần. (Để ý là "mẹ biết" có thể là một câu hỏi: "Mẹ có biết . . . không?" Cho dù đó là câu hỏi, ta vẫn thấy anh lính kể lể mọi chuyện về anh cho mẹ anh nghe.) Mẹ anh còn nhắn lời thăm họ hàng quyến thuộc vẫn còn ở quê ngoại khi anh có dịp đi qua quê ngoại.

Anh chợt nhớ đến ngày thơ còn bé. Mẹ anh dắt anh đi trên con đường làng tới mái trường xưa. Bây giờ con đường đó vẫn còn, nhưng hình ảnh mẹ anh đi trên con đường đó lúc mẹ còn trẻ không còn nữa, vì mẹ anh hiện đang ở xa. 

Đây có lẽ là đoạn cao đỉnh của bài hát. Tác giả dùng lời lẽ thật bình thường nhưng vẽ ra một hình ảnh có tác dụng mãnh liệt: "Đường làng cũ năm nào khi con còn bé nhỏ theo mẹ đến trường." Chỉ với nhóm chữ/ cụm từ "theo mẹ đến trường," tác giả cho thấy hình ảnh thơ ngây của cậu bé, lẽo đẽo đi theo mẹ trên con đường làng. Hình ảnh đó cho thấy cái nhỏ bé, ngơ ngác, sợ sệt, dè dặt của một cậu bé phải dựa vào sự chăm sóc, lo lắng của mẹ. Một hình ảnh chứa chan tình cảm tràn trề, có tác dụng trên tất cả mọi người thương yêu mẹ. Cho dù bạn không đi theo mẹ đến trường lúc còn bé, hoặc không đi trên đường làng, bạn vẫn có thể hình dung ra được và có nỗi cảm xúc bồi hồi. Có những nhóm chữ/ cụm từ rất đơn sơ, nhưng rất tượng hình, tượng thanh, và gây xúc động mạnh. Thí dụ như "con níu chân cha" trong "Trộm Nhìn Nhau" của Trầm Tử Thiêng, "mẹ lần mò" và "nắm áo người xưa" trong "Ngày trở về" của Phạm Duy, và "lá ngủ thật mê say" trong Hoa Trinh Nữ của Trần Thiện Thanh.

Anh nhớ gì về mẹ anh nhất trong khoảng thời gian đó? Một cách bất ngờ và độc đáo, tác giả vẽ ra một hình ảnh kỳ diệu: "tóc liễu vờn gió ru buồn." Ít có người con trai nào nghĩ đến mẹ mình qua những sợi tóc rũ dài bay theo làn gió nhẹ thoảng. Cậu bé còn cắp sách tới trường đó đã là một thi sĩ! Ta có thể hình dung hình ảnh người mẹ dắt cậu bé đi học trên con đường làng tới trường. Mẹ cậu bé, có lẽ có lúc đi nhanh hơn cậu bé, và cậu bé đi sau mẹ nên mới có dịp ngắm tóc mẹ rũ dài bay theo làn gió. Cậu bé không biết cách diễn tả ra sao, nhưng chỉ ghi nhận hình ảnh đó mãi mãi trong đầu óc, để cho đến khi cậu bé trưởng thành, trở thành một thi sĩ, nhạc sĩ và có đủ ngôn từ diễn tả, anh mới bật ra "tóc liễu vờn gió ru buồn." Để hiểu cái độc đáo của tình yêu thương anh lính dành cho mẹ anh, bạn hãy tự hỏi bạn có giữ hình ảnh gì của mẹ bạn từ lúc bạn còn bé.

Tác giả rất táo bạo khi dùng câu "tóc liễu vờn gió ru buồn" để tả những sợi tóc mẹ. Sự táo bạo đó có thể khiến người nghe không hiểu. Vì hình ảnh đó thật đột ngột, và "tóc liễu" thường dùng để tả một cô gái, ít ai có thể hiểu được anh đang tả mẹ anh lúc bà còn trẻ. Do đó, rất nhiều người hơi ngỡ ngàng khi nghe câu này. Ngoài ra, với lối tả như thể đó là hình ảnh trong hiện tại, người nghe không nhận ra được ý anh muốn nói là "Giờ đây con đường xưa còn đó" nhưng "tóc liễu vờn gió (ru buồn)" của mẹ không còn nữa, vì mẹ anh không còn ở quê ngoại, hoặc vì mẹ anh đã trở thành người đàn bà trung niên làm việc lam lũ và không còn tóc liễu nữa. Tuy nhiên, vì "theo mẹ đến trường" và "tóc liễu vờn gió (ru buồn)" quá mạnh, tạo ấn tượng sâu đậm trên người nghe, sự mơ hồ này không có ảnh hưởng lắm và người nghe dễ dàng bỏ qua. 

Quả thật vậy, theo tôi nghĩ, cả toàn bài, hình ảnh cậu bé theo mẹ đến trường trên con đường làng và tóc liễu bà mẹ vờn gió là hình ảnh đẹp đẽ và thơ mộng nhất. Cái ý tưởng cậu bé ghi nhận hình ảnh tóc mẹ bay trong gió từ lúc còn bé ngây thơ theo mẹ đến trường cho đến lúc anh trưởng thành, trở thành một chiến sĩ xông pha trận mạc, lội bùn lách lau sậy trên đường hành quân, tay ôm súng thép, bảo vệ non sông, là một ý tưởng không những thơ mộng, hồn nhiên, mà còn gây xúc động mãnh liệt. Chính cái hình ảnh này khiến người nghe muốn nghe đi nghe lại bài hát, đưa hồn vào giọng ngân cao dài của ca sĩ diễn tả. Chỉ đoạn đó thôi làm người nghe quên hết tất cả những lỗi nhỏ nhặt khác. 

Rồi ý nghĩ anh lính miên man tiếp tục. Anh nhớ tới người yêu anh. Tác giả đổi cảnh một cách đột ngột. Từ hình ảnh người mẹ, anh chuyển sang người yêu. Tuy chuyện đó rất là bình thường cho một người lính ngồi trong hố nhỏ miên man nghĩ đến những người thương yêu, tác giả khiến người nghe ngỡ ngàng, hơi bị "chưng hửng" vỉ đang bị cảm xúc mạnh sau hình ảnh đẹp đẽ và thơ mộng còn đang vương vấn. Sau khi được nốt nhạc đưa lên cao với "tóc liễu vờn gió ru buồn," người nghe mong mỏi một chuyển tiếp nhẹ nhàng, có thể là một hình ảnh khác, một cảm tưởng khác về bà mẹ. Tiếc thay, anh lính đổi cách xưng hô vì anh chuyển sang nói với người yêu anh. Đang từ "mẹ con" biến thành "anh em." Chưng hửng là còn nhẹ. Người nghe có thể thất vọng. Có thể tác giả cố tình, có thể tác giả thiếu kinh nghiệm. Dù do lý do gì, tác giả không giữ được sự liên tục của các hình ảnh cho người nghe.

Với người yêu, anh không mô tả nàng. Anh chỉ cảm thấy ấm cúng vì "có nhau như hơi thở vào đời." Nhưng anh không rõ người yêu anh còn trông chờ anh hay không. Ở đây, tác giả dùng "thơm hương cỏ may" để ám chỉ sự trung thành, trang tiết của cô gái chờ đợi người yêu. Cỏ may thường được kết hợp với câu chuyện một cô gái đi tìm người yêu nhưng sau đó chết vì mòn mỏi kiếm mãi không thấy anh khắp nơi (Xem, thí dụ như, Dân 2007). Ý nghĩa của câu chuyện đó thường liên kết với tình yêu mạnh mẽ và trung thành. Trong bài hát này, anh lính mong là người yêu anh vẫn còn trông đợi anh và anh sẽ "nói chuyện ngày mai" về tương lai hai đứa.

Rồi anh lính nhắc đến các bạn học đã đi lính như anh. Vài đứa bạn thân đã "nghe tin chẳng trở về." Anh nhờ người yêu anh cầu nguyện cho anh, không phải vì anh sợ chết mà anh muốn sống để hoàn thành nhiệm vụ "đá mềm chân cứng" để mẹ có tương lai. Tác giả dùng sự ra đi biệt tin của những người bạn thân anh để dẫn đến chuyện anh mong người yêu cầu nguyện cho anh. Cách chuyển đổi hơi gượng ép và khiến người nghe hơi bị "chưng hửng" lần nữa vì sự móc nối không được tự nhiên. Tác giả không cần phải dùng sự ra đi biền biệt của mấy người bạn anh, vì chuyện anh ta là lính đủ cho biết anh sống chết ngày nào không biết. 

Câu chót "Đá mềm chân cứng để mẹ còn tương lai" có nhiều vấn đề. Trước hết, "đá mềm chân cứng" có ý nghĩa lạ lùng. Ý nghĩa dễ hiểu nhất là anh lính tiếp tục đi hành quân, bước trên những con đường sỏi đá nhiều đến độ chân anh trở nên chai cứng và đá sỏi phải mềm đi vì bước chân của anh. Nhóm chữ/ cụm từ này cũng xuất hiện trong bài "Một lòng đợi bạn" (Anh ra đi đá mềm chân cứng/ Em ở nhà hãy vững như đồng). Nó cũng có thể ám chỉ sự kiên tâm trì chí. Nhưng trong bối cảnh anh lính đi hành quân, ý nghĩa bước chân đi khắp nơi trong các cuộc hành quân có lẽ đúng nhất.

Nhóm chữ/ cụm từ "để mẹ còn tương lai" hơi yếu ớt, như thể tác giả chợt nhớ là bài hát này là cho mẹ nên cố móc nối lại hình ảnh người mẹ. Quan trọng hơn, cách diễn tả của câu chót rất khó hiểu và kỳ quặc. Làm sao mà "đá mềm chân cứng" có thể đem tương lai cho mẹ anh? Từ "đá mềm chân cứng" tới "mẹ còn tương lai" người nghe phải đi qua nhiều giai đoạn suy luận:

Đá mềm chân cứng → Đi hành quân nhiều → Đem chiến thắng → Hòa bình trở lại → mẹ có tương lai.

Lối diễn giải có chuỗi suy luận gồm có nhiều mệnh đề luận lý như trên thường được coi là "ngụy biện luận lý" (logical fallacy) trong lý thuyết về tranh luận (argument). Một cách bình dân, ta có thể nói đó là lối "chuyện bé xé to." Trong lối diễn giải này, nhiều mệnh đề luận lý được chắp nối vào nhau trong đó phần kết luận (conclusion) của một mệnh đề là phần giả thuyết/thiết (premise) của mệnh đề được chắp nối kế tiếp, theo một cách mà từ phần giả thuyết/thiết của mệnh đề đầu tiên đến phần kết luận của mệnh đề cuối cùng là một bước nhảy luận lý vĩ đại (giant leap of logic). Sau đây là một thí dụ:

Nếu trời mưa, tôi ở nhà.

Nếu tôi ở nhà, tôi vào trang mạng Dân Làm Báo.

Nếu tôi vào trang mạng Dân Làm Báo, tôi đọc các lời phê bình của dư luận viên cộng sản.

Nếu tôi đọc các lời phê bình của dư luận viên cộng sản, tôi dễ nổi giận.

Do đó, tổng kết lại, nếu trời mưa thì tôi dễ nổi giận. Cái sai lầm của ngụy biện này rất hiển nhiên.

Kiểu ngụy biện luận lý trên được gọi là dốc trơn (slippery slope) hoặc Domino fallacy (Xem, thí dụ như, Damer 2009, 185). Khi bạn tuột xuống một dốc trơn, bạn sẽ lôi kéo cả một đống vật cản trở dọc đường, và cuối cùng thì các vật này dồn lại thành một đống vĩ đại, tương tự như phản ứng dây chuyền do bởi những miếng dominoes ngã lên nhau.

Lẽ dĩ nhiên, đây là một bài hát, không phải là một bài dùng luận lý. Nhưng văn thơ nhạc dựa vào suy diễn tương tự như luận lý. Các biến dạng của suy diễn này là nghĩa đen/ nghĩa bóng và ẩn dụ. Văn sĩ hoặc thi sĩ rất thường dùng kiểu suy diễn này để diễn tả ý tưởng một các gián tiếp. Nhưng các suy diễn nên đơn giản, thông thường, được nhiều người chấp nhận, hoặc chỉ cần một hay hai bước suy diễn. Không ai muốn diễn tả quá phức tạp làm ý nghĩa trở nên khó hiểu hay kỳ quặc. Ở đây, "đá mềm chân cứng" là một nhóm chữ/ cụm từ it ai dùng. Từ "đá mềm chân cứng" để suy ra nghĩa bóng là "đi hành quân nhiều" đòi hỏi một trí tưởng tượng không nhỏ. Từ "đi hành quân nhiều" để suy ra "chiến thắng trên chiến trường" là hơi vất vả. Cứ thế, bạn sẽ thấy tác giả khiến người nghe phải có trí tưởng tượng thật là phong phú mới hiểu được tại sao "đá mềm chân cứng" sẽ cho "mẹ còn tương lai."

Ngoài chuyện suy diễn cực nhọc đó, cái kết luận "mẹ còn tương lai" có vẻ mơ hồ. "Tương lai" có vẻ mơ hồ. Anh lính chắc cũng khoảng lứa tuổi hai mươi. Mẹ anh, chắc cũng còn trẻ (dựa vào câu "tóc liễu vờn gió ru buồn" hàm ý mẹ anh khoảng hai, ba mươi tuổi khi anh lên 6, 7 còn cắp sách theo mẹ đến trường), có thể bốn, năm mươi tuổi lúc ấy. Do đó, tương lai cũng còn dài. Nhưng tương lai gì? Anh lính muốn tương lai mẹ anh thế nào? Không còn cực khổ gánh hàng tần tảo? Sống lâu khỏe mạnh? Lập lai gia đình? Tác giả không cho chi tiết đặc thù và chỉ muốn cho một ý tưởng đại khái. 

Chuyện đó không có gì sai, nhưng thiếu hiệu quả. Như tôi trình bày trong bài "Một Mai Giã Từ Vũ Khí," một kỹ thuật viết hiệu quả là chú trọng vào chi tiết rõ rệt, dù chi tiết đó chỉ là một trong nhiều chi tiết khác. Cho một chi tiết rõ rệt giúp người nghe tưởng tượng ra được các chi tiết khác. Thí dụ như thay vì nói, "Hôm nay tôi cảm thấy sung sướng," bạn có thể nói, "Hôm nay tôi huýt gió trong giờ làm việc làm mấy đồng nghiệp ngạc nhiên." Chỉ với chi tiết đó người nghe biết là bạn đang sung sướng và còn biết thêm vài chi tiết về bạn nữa. Trong bài này, câu "mẹ còn tương lai" quá mơ hồ và không đem lại tác dụng mạnh. Người nghe có thể sẽ bỏ qua và không có chút gì suy nghĩ thêm, và tác giả đã thất bại trong việc lôi cuốn người nghe. Người nghe xong bài hát sẽ không "huởn" mà cố suy nghĩ mẹ có tương lai gì.

Theo tôi nghĩ, tác giả dùng "mẹ" trong câu chót không phải chỉ mẹ anh lính. Có vẻ tác giả muốn dùng "mẹ" để ám chỉ mẹ Việt Nam, hàm ý tổ quốc. Với nhóm chữ/cụm từ "đá mềm chân cứng," tác giả nhấn mạnh ý chí chiến đấu của anh lính đem lại hòa bình cho đất nước. Do đó, mục đích chiến đấu của anh là cho tổ quốc, cho mẹ Việt Nam, chứ không phải cho mẹ anh. Tuy nhiên, cách diễn giải đó cũng chưa chắc đúng. Hoặc tác giả cố tình mơ hồ để người nghe muốn hiểu sao thì hiểu. Dù diễn giải thế nào, tôi nghĩ nhóm chữ/ cụm từ "mẹ còn tương lai" rất yếu.

Tóm lại, bài hát có ý nghĩa thật hay và táo bạo trong phần đầu (2/3). Phần sau (1/3) không đem lại hoàn mỹ cho bài hát mà lại còn có thể làm loãng ý. Tuy nhiên, bài hát vẫn có giá trị nhờ lối tả cảnh và cách dùng chữ thật độc đáo ở phẩn đầu như được trình bày sau đây.

Lối tả cảnh và cách dùng chữ thật sáng chói trong phần đầu lấn át vài khuyết điểm trong phần sau

Tương tự như phần nội dung và ý tưởng, có sự không đồng đều trong kỹ thuật diễn tả và cách dùng chữ. Tuy nhiên, những điểm đặc sắc quá sáng chói làm lu mờ những khuyết điểm. 

Ngay lúc mở đầu, tác giả có lối tả cảnh tuyệt vời. Tác giả tận dụng những kỹ thuật hay nhất trong chuyện viết để trình bày cảnh anh lính đang đi hành quân và nghĩ đến mẹ anh. Người nghe tưởng tượng ra được ngay cảnh anh lính đang hành quân trong vùng núi non rừng rú. Tác gỉả dùng hai kỹ thuật tôi trình bày trong bài "Một Mai Giã Từ Vũ Khí": "Cho thấy, đừng kể" và "Chú trọng vào chi tiết rõ rệt." 

Tác giả cho thấy cuộc hành quân qua cảnh "lội bùn dơ," "băng lau lách," "xuyên đêm," thay vì kể lể hành quân cực khổ thức khuya cả đêm. Ngoài ra, tác giả còn dùng các chữ/từ mạnh (lội, băng, xuyên, sương trắng rơi, rủ nhau, gọi nhau, tê tay, đăm mắt, hư ảo) làm sống động hình ảnh. Đi theo với cách cho thấy, tác giả dùng những chi tiết rõ rệt của cuộc hành quân qua vùng núi non rừng rú vắng vẻ: lội bùn, băng lau, xuyên đêm, đàn chim bay, khỉ vượn hú.

Tác giả dùng "sương" hai lần: "sương trắng rơi vai tôi ướt lạnh mềm" và "Em còn khêu sáng ánh đèn từ sương mai." Ngoài ra "sương" còn được dùng trong nhan đề. Ta phải hiểu rõ hai loại sương. Tiếng Việt mơ hồ trong chữ/ từ "sương." Tiếng Anh phân biệt rõ các loại sương: dew (sương mai/ đêm), mist (sương mù mỏng), fog (sương mù dày). Trong "sương trắng rơi vai tôi ướt lạnh mềm," tĩnh từ "trắng" cho thấy đó là sương mù vì không ai tả giọt sương mai/ đêm màu trắng. Giọt sương mai/ đêm trong như giọt nước. Chỉ có sương mù mới tạo ra hình ảnh trắng đục. Ngoài ra, sương mai/ sương đêm tạo ra do bởi cô đọng (condensation) và thường xuất hiện trên các vật mỏng lộ ra như cỏ, lá cây, hoa, mui xe. Ngược lại, sương mù tạo ra khi hơi nước đọng lại thàng những giọt nước li ti trong không khí. Chỉ có sương mù mới "rơi" xuống, chứ sương mai/ sương đêm không có rơi xuống. Câu "sương trắng rơi vai tôi ướt lạnh mềm" có it nhất hai tác dụng: thiết lập quy chiếu về thời gian (cộng them với "xuyên đêm") là sáng sớm, và cho thấy chuyến đi hành quân lâu đến nỗi vai anh lính thấm sương trở nên lạnh mềm.

"Chim muông buồn rủ nhau bay về đâu" vẽ ra hình ảnh các đàn chim bay trên trời không có định hướng. "Ngẩn ngơ lũ vượn gọi nhau" gợi ra cảnh tượng đám khỉ vượn kêu réo nhau một cách vô tư (ngẩn ngơ) chứ không phải hỗn loạn phá phách.

Bốn câu đầu dàn dựng bối cảnh của câu chuyện. Tác giả xác định rõ không gian (vùng núi non rừng rú) và thời gian (sáng sớm) và những diễn tiến của cuộc hành quân. Cách diễn tả rất tài tình tạo ra một hình ảnh sống động và cho người nghe có ý niệm rõ rệt.

Không những thế, tác giả còn dùng một kỹ thuật viết rất hiệu quả trong việc tả cảnh hoặc tình cảm là dùng nhiều giác quan trong ngũ quan (nhìn, nghe, ngửi, nếm, tiếp xúc/ cảm nhận/ va chạm). Bằng cách dùng nhiều giác quan, người viết lôi cuốn độc giả vào cảnh vì độc giả liên tưởng đến những hình ảnh, mùi, vị, âm thanh, và cảm giác trong lúc tưởng tượng ra cảnh tượng hoặc tình cảm.

Anh lính nhìn thấy đàn chim bay trên trời (Chim muông buồn rủ nhau bay về đâu), nghe tiếng khỉ vượn hú (Ngẩn ngơ lũ vượn gọi nhau), tiếp xúc/ va chạm sương rơi ướt lạnh và súng ̣đến tê tay (Sương trắng rơi vai tôi ướt lạnh mềm/ Nào những khi ôm thép súng tê tay). Chỉ thiếu ngửi và nếm nhưng đủ lôi cuốn người nghe. Dùng nhiều giác quan quá không nhất thiết là hay vì con người thường cảm nhận cùng lúc chỉ qua hai, ba giác quan mà thôi. Rất ít có tình trạng nào mà bốn hay năm giác quan được dùng. Người viết cũng phải nên cẩn thận, và đừng lạm dụng các giác quan. Chỉ nên dùng bốn, năm giác quan trong trường hợp thật đặc biệt. Thí dụ như trong bài "Uy Lực" (Cao-Đắc 2014c), tôi dùng cả năm giác quan khi tả cảnh sáu con sư tử trở vể lãnh thổ chúng (thấy cây bao báp cổ, ngửi mùi hương quen thuộc của những bụi cây keo, nếm không khí khô hoài cổ, nghe tiếng gió xào xạc trên bãi cỏ, và cảm nhận bãi đất núi lửa mềm gợi nhớ). Lý do là tôi muốn nhấn mạnh dùng các con sư tử trẻ là ẩn dụ cho tuối trẻ Việt Nam, trong nước và hải ngoại, đã bị mất nước dưới nền đô hộ cộng sản với lý thuyết ngoại bang, và họ trở về để lấy lại đất nước và khôi phục lại chính nghĩa. Vì đó là bài thơ văn xuôi nên tôi có thể kéo căng cái nhấn mạnh đó.

Như trình bày ở trên, hình ảnh tuyệt vời nhất của cả bài nhạc là hình ảnh cậu bé đi theo mẹ đến trường trên con đường làng. Tác giả dùng chữ đơn giản, không cầu kỳ, nhưng có tác dụng mạnh. 

Để ý tác giả dùng "theo mẹ đến trường" thay vì "mẹ dẫn con đến trường." Tác giả vẽ ra cảnh tượng dưới góc nhìn của cậu bé, để chuẩn bị cho hình ảnh "tóc liễu vờn gió ru buồn" ngay sau đó. Trong việc viết, chọn góc nhìn (viewpoint) cho nhân vật rất quan trọng. Người nghe hay người đọc sẽ đứng vào vị trí của góc nhìn đó để tham gia vào cảnh tượng. Người viết nên giúp người nghe/ đọc đứng ở vị trí trong suốt cảnh một cách nhất quán. Thay đổi góc nhìn trong một cảnh dễ tạo ra lẫn lộn và làm giảm tác dụng trên người nghe/ đọc, trừ phi người viết cố tình chuyển góc nhìn. 

Đinh Miên Vũ dùng góc nhìn của anh lính một cách đồng nhất khi tả cảnh anh nhớ lại ngày xưa còn bé. Anh lính nhớ "khi con còn bé nhỏ" và "theo mẹ đến trường." Nhờ vậy anh mới ghi nhận được hình ảnh tóc mẹ bay trong gió. Bằng cách dùng góc nhìn của anh lính (thay vì một người bàng quang nào đó đứng trên đường), tác giả chuẩn bị cho hình ảnh sau đó.

Hình ảnh tóc mẹ anh bay trong gió được mô tả sống động với câu "tóc liễu vờn gió ru buồn." Cũng như câu "Hồn lỡ sa vào đôi mắt em" trong bài "Về Đâu Mái Tóc Người Thương" của Hoài Linh, câu "tóc liễu vờn gió ru buồn" có lối dùng chữ sâu sắc và gợi hình thật tuyệt diệu.

Trước hết, "tóc liễu" thường được dùng để tả mái tóc dài rũ xuống của các cô gái trẻ. "Liễu" là loại cây có lá thuôn dài và cành mảnh dẻ. Liễu rũ thường dùng làm cảnh trồng bên bờ hồ hoặc bờ sông. Liễu thường được dùng để ám chỉ phái nữ (liễu yếu đào tơ, phận liễu). Tóc liễu mô tả mái tóc chảy dài có những nhánh chẻ ra và không phải dày dặc. Rất nhiều thi sĩ dùng "tóc liễu" để tả mái tóc cô gái. 

Tóc liễu xanh xanh vẫy tóc người,
Tay em cầm nhẹ lấy tay tôi...
Lần đầu ân ái trao bằng mắt
Rồi để tình thương đến trọn đời
(Tình Xa - Hồ Dzếnh)

Suốt trời hôm ấy thê lương quá,
Tóc liễu bờm xơm, sóng vỗ hồ,
Mây rối trên trời, cây rối lá,
Giường cô xuân nữ gối chăn xô...
(Thu - Hồ Dzếnh)

Môi khô tóc liễu thân gầy, 
Anh xa, em kẻ lông mày với ai? 
(Không hẹn ngày về - Nguyễn Bính)

Vừa rồi tỏ mặt Hằng Nga 
Mây vương tóc liễu son pha má đào.
(Tỳ bà truyện - Nguyễn Bính)

Tóc liễu buông xanh quá mỹ miều 
Bên màu hoa mới thắm như kêu; 
Nỗi gì âu yếm qua không khí, 
Như thoảng đưa mùi hương mến yêu
(Nụ Cười Xuân - Xuân Diệu)

Với chuyện "tóc liễu" được các thi sĩ dùng nhiều, "tóc liễu" trong "tóc liễu vờn gió ru buồn" có gì hay hơn? Thực ra, trong bối cảnh của bài hát, "tóc liễu" có tác dụng khác hẳn với "tóc liễu" trong các bài thơ. Tác giả để anh lính dùng "tóc liễu" để tả tóc mẹ mình dựa vào trí nhớ của anh về mẹ mình lúc anh còn bé. Tuy không nói rõ, ta có thể hiểu là mẹ anh không còn có tóc liễu nữa. Mẹ anh phải buôn tảo bán tần, gánh hàng ra chợ hoặc đi bán rong ngoài đường, và bây giờ chắc cũng khoảng it nhất là tứ tuần hay ngũ tuần, thì làm sao mà còn tóc liễu được nữa. Quan trọng hơn, nếu mẹ anh vẫn còn tóc liễu thì tại sao anh có ý nói là tóc liễu vờn gió nay còn đâu. Anh lính rất luyến tiếc tóc liễu đó. Chỉ một chi tiết đặc thù đó, ta có thể hiểu là anh lính rất thương mẹ. Đây là một thí dụ cho thấy dùng một chi tiết rõ rệt làm nổi bật được toàn diện ý tưởng.

Anh lính nhớ mái tóc liễu đó thế nào? Ở đây, tác giả biểu lộ tài năng dùng chữ tuyệt diệu. Những sợi tóc liễu của mẹ anh "vờn gió"! Động từ "vờn" hàm ý đưa đẩy, đùa giỡn (mèo vờn chuột), nhảy múa. Tự nó, "vờn" là một động từ mạnh mẽ (mạnh mẽ đây là chỉ tác dụng diễn tả, không phải là sức mạnh của hành động) để diễn tả cảnh tượng đùa cợt. Quan trọng hơn, tác giả dùng "tóc liễu" là chủ từ của động từ vờn, nhân cách hóa những sợi tóc đó như thể những sợi tóc có tâm trí riêng của chúng. Hay hơn nữa, những sợi tóc liễu vờn gió. Làm sao mà tóc lại có thể vờn được gió? Chính gió mới thổi tóc bay lên chứ? Nhưng không, với cậu bé 6, 7 tuổi, cậu ta không thấy gió thổi tóc mà chỉ thấy những sợi tóc dài nhảy múa đùa giỡn với gió. Còn gì tuyệt diệu và thơ mộng bằng?


Hậu quả của những sợi tóc nhảy múa đùa cợt với làn gió là gì? Một cách bất ngờ, tác giả mô tả cảnh tượng đó "ru buồn." Một lần nữa, tác giả nhân cách hóa cảnh tượng tóc nhảy múa với gió, cho cảnh tượng đó có khả năng phát ra âm thanh như hát bài ru ngủ. Có phải chăng gió thổi những sợi tóc tạo nên âm thanh khi những sợi tóc quyện với nhau hoặc vướng vào tay, cổ, nón, áo của mẹ anh? Âm thanh đó chắc nhỏ như tiếng ru khe khẽ của mẹ. Tiếng ru đó chắc đều đều và tạo ra một giai điệu rù rì văng vẳng từ đâu đến. Nhưng tại sao ru "buồn"? Ở đây, tác giả dùng "ru" một cách khác thường. "Ru" thường được dùng là ru ngủ, nhưng tác giả dùng "ru" như là một động từ với ý nghĩa phát ra âm thanh đều đều nhẹ nhàng êm ả, gợi lên một cảm xúc hay tác dụng nào đó, không nhất thiết là cho ngủ. Với cách dùng đó, ta có thể dùng "ru buồn," "ru vui," "ru nhớ," "ru sầu," "ru hạnh phúc," "ru khổ," v.v. Tuy nhiên, không phải túc từ nào cũng thích hợp với "ru." "Vui" thường hàm ý náo nhiệt, dùng "ru vui" rất gượng gạo vì làm sao mà giai điệu đều đều êm ả lại có thể đem lại niềm vui. Nới rộng thêm nữa, "ru" không nhất thiết dính líu đến âm thanh, và có thể Đinh Miên Vũ không có ý định cho những sợi tóc bay theo gió tạo ra âm thanh ru buồn mà chỉ có hình ảnh đó ru buồn cậu bé. Với cách dùng chữ như vậy, ta có thể viết những câu như "Ánh mắt nàng long lanh ru tôi vào giấc ngủ triền miên," "Bầu trời xanh cao với các cụm mây trắng lờ lững ru niềm hân hoan tràn trề," v.v. Sau đây là một cách giải thích khác cho "ru buồn."

Tại sao lại "buồn"? Anh lính thấy buồn lúc nào? lúc anh là cậu bé theo mẹ đến trường hay là bây giờ khi anh nghĩ lại hình ảnh đó? Ý nghĩa trực tiếp từ câu "tóc liễu vờn gió ru buồn" có sự mơ hồ. Tuy ta biết chắc "tóc liễu vờn gió" không còn nữa, ta không biết chuyện "ru buồn" xảy ra lúc nào. Một diễn giảng là cảm xúc buồn đó xảy ra với câu bé. Nhưng tại sao cậu bé buồn? Ở đây, ta không rõ. Anh lính không nói thêm. Anh chỉ nhớ là những sợi tóc bay nhảy với gió đã khiến anh buồn lúc anh là cậu bé theo mẹ đến trường. Có thể vì cậu bé muốn ở nhà với mẹ, không thích đi học. Có thể vì cậu bé thương mẹ phải lặn lội dẫn mình đi học. Có thể có một chuyện gì đó về mái tóc mẹ. Ta không biết. Dưới một diễn giảng khác, anh lính có ý nói vì "tóc liễu vờn gió" không còn nữa nên hình ảnh đó ru buồn. Nghĩa là anh lính buồn sau này, không phải lúc là cậu bé đang ngắm tóc mẹ vờn gió. Theo tôi nghĩ, cách diễn giảng này có vẻ hợp lý hơn. Thứ nhất, sự kiện một cậu bé buồn vì tóc liễu mẹ vờn gió là một chuyện khá kỳ quặc Thứ nhì, một giải thích có thể làm phù hơp mọi chuyện. Giải thích đó là cậu bé thực ra rất thích và rất vui khi nhìn tóc mẹ vờn gió, vì vậy mà cậu bé giữ mãi hình ảnh đó. Do đó, khi mẹ không còn có "tóc liễu vờn gió" nữa, cậu bé và sau này trưởng thành là anh lính, cảm thấy buổn. Chuyện đó cũng giải thích tại sao Đinh Miên Vũ dùng động từ "ru" vì cái mất mát đó xảy ra nhiều lần, đều đều ngày này qua ngày khác, như một giai điệu lập đi lập lại như lời ru.

Cho dù cách diễn giảng nào, câu "tóc liễu vờn gió ru buổn" thật là tuyệt diệu trong bối cảnh anh lính nghĩ đến ngày thơ ấu theo mẹ đến trường. Đinh Miên Vũ đã thành công trong việc tạo ra một ấn tượng sâu đậm về lòng thương yêu mẹ của anh lính.

Tiếc thay, cách diễn tả xuất sắc đó không đồng đều. Cái diễn tả tuyệt vời về tình yêu thương mẹ của anh lính bị cắt đứt đột ngột khi tác giả để anh lính chuyển ý nghĩ sang người yêu anh. Trong khi phần đầu rất là tuyệt vời, phần sau trở nên tầm thường, nếu không muốn nói là yếu kém, gượng gạo, và thiếu mạch lạc. Như đã trình bày ở trên, ngoài lối chuyển tiếp đột ngột từ mẹ sang người yêu, tác giả có lối suy diễn kỳ quặc của "đá mềm chân cứng" và mơ hồ tả ước vọng anh lính là để cho "mẹ còn tương lai."

Chúng ta không hiểu tại sao có sự chênh lệch giữa hai phần trong cùng một bài hát. Nếu Đinh Miên Vũ là một người, ta có thể giải thích là ông viết phần sau trong trạng thái khác với phần đầu, như thể ông muốn viết cho xong. Nhưng nếu Đinh Miên Vũ là ba người, thi ta biết là người viết phần đầu khác với người viết phần sau.

May thay, có hai yếu tố cứu vãn bài hát. Yếu tố thứ nhất là nhạc điệu. Giai điệu bài hát rất hay, có lối kể lể gây xúc động. Hòa âm và nhịp điệu cũng rất xuất sắc, trầm bổng nhịp nhàng. Nếu bạn nghe nhạc không lời, bạn vẫn thưởng thức bài hát, nhất là khi các nhạc cụ phối hợp nhau như guitar, sáo, và trống phụ họa (Xem, thí dụ như, Phạm 2014). Yếu tố thứ hai là sự nổi bật ở phần đầu khiến người nghe quên đi hoặc không nhận ra cái yếu kém ở phần sau. Ngoài ra, tuy phẩn sau yếu kém so với phần đầu, nó cũng không đến nỗi tệ, và cũng đóng góp được hoàn thành câu chuyện anh lính đang muốn diễn tả.

Bài hát nói lên sức mạnh của âm nhạc miền Nam trước 1975 qua cách diễn tả tình yêu thương mẹ nồng ấm

Có nhiều bài hát về tình mẹ con. Thí dụ như Lòng Mẹ, Bà Mẹ Quê, Bông Hồng Cài Áo, Bà Mẹ Trị Thiên, Bà Mẹ Gio Linh. Những bài này chỉ nói về người mẹ thuần túy, ca ngợi mẹ và tình yêu mẹ dành cho con. Cũng có nhiều bài hát về người lính VNCH và mẹ. Thí dụ như Xuân Này Con Không Về, Cảm Ơn. Tuy nhiên, bài "Sương Trắng Miền Quê Ngoại" có lẽ là bài hát hay nhất về tình yêu thương của người lính VNCH dành cho mẹ anh. Bài hát này là một thí dụ cho thấy tính chất nhân bản của nền âm nhạc miền Nam Việt Nam trước 1975.

Như tôi đã trình bày trong các bài trước, âm nhạc miền Nam trước 1975 không ủy mị, yếu đuối như phe cộng sản thường chê bai. Ngược lại, âm nhạc miền Nam trước 1975 rất mạnh mẽ, hào hùng, và kích động ý chí. Neil Jamieson, một học giả Hoa Kỳ, gán sức mạnh của hai miền Nam Bắc là Âm Dương, với miền Bắc Dương và miền Nam Âm. "Các trận đánh lớn lúc Tết khiến cho chiều âm này một động lực mạnh mẽ trong VNCH" (Jamieson 1993, 320). Tôi không nhất thiết đồng ý với cách phân loại đó, nhưng khái niệm âm dương hoặc nhu cương giúp ta có chút hiểu biết về tính chất của hai miền Nam Bắc trong chiến tranh. 

Một điểm quan trọng mà nhiều người, nhất là phe cộng sản, quên, là miền Bắc là kẻ xâm lăng trong khi miền Nam chỉ phòng thủ. Người lính VNCH có gia đình, cha mẹ, vợ con, và họ phải bảo vệ những người thân yêu. Sức mạnh của họ không phải là tấn công giết giặc, mà là tình yêu. Chính tình yêu giúp họ mạnh mẽ và chiến đấu chống trả quân thù. Do đó âm nhạc miền Nam trước 1975 phản ảnh cái sức mạnh đó. Gọi tình yêu cha mẹ, vợ con, người tình ủy mị yếu đuối là thiếu hiểu biết, mất cá tính nhân bản. Quân đội Bắc Việt, dưới sự lãnh đạo của cộng sản, không coi trọng cái tình yêu đó. Họ bi tẩy não chỉ biết phục vụ Đảng cộng sản Việt Nam và yêu thương Bác Hồ hơn cả cha mẹ, vợ con. Ngược lại, những người lính VNCH lúc nào cũng có tình yêu thương gia đình. Bản nhạc "Sương Trắng Miền Quê Ngoại" thể hiện tình thương yêu mẹ của anh lính trẻ một cách nồng ấm. Tình yêu thương đó được bộc lộ chân thành qua chi tiết cậu bé theo mẹ đến trường trên con đường làng, ấp ủ hình ảnh những sợi tóc mẹ bay nhảy theo cơn gió thoảng trong suốt mười mấy năm.

Đinh Miên Vũ, dù là Đinh Miên hay Đinh Trụ, Miên Thành, và Võ Hữu Bình, lúc sáng tác bài "Sương Trắng Miền Quê Ngoại" chỉ là một người lính trẻ ở tuổi đôi mươi. Kinh nghiệm viết nhạc coi như không có vì bài này là bài duy nhất được sáng tác trước năm 1975. Tuy nhiên, bài "Sương Trắng Miền Quê Ngoại" cho thấy mức sáng tạo thật cao, có những kỹ thuật viết thật điêu luyện. Một lần nữa, bài này là một thí dụ cho thấy xã hội và thể chế tự do của VNCH đã giúp phát huy khả năng sáng tạo nghệ thuật trong miền Nam trước 1975.

Kết Luận

"Sương Trắng Miền Quê Ngoại" là bản nhạc duy nhất của Đinh Miên Vũ trong kho tàng âm nhạc miền Nam trước 1975 và là một trong những bài hay nhất, nếu không muốn nói là bài hay nhất, về tình yêu thương mẹ. 

Tuy có nhiều bài về tình yêu mẹ dành cho con, rất it bài nói về tình yêu con dành cho mẹ. Bài "Sương Trắng Miền Quê Ngoại" còn xuất sắc ở cách diễn tả độc đáo qua một cảnh tượng bình thường, đem lại cảm xúc mạnh cho người nghe. Cách diễn tả độc đáo đó và khía cạnh tha thiết của nhạc điệu khiến người nghe quên đi vài khuyết điểm trong lời nhạc. 

Một lần nữa, "Sương Trắng Miền Quê Ngoại" là một bằng chứng hùng hồn cho mức sáng tạo phong phú trong xã hội tự do của chính thể VNCH và sức mạnh của nền âm nhạc miền Nam trước 1975. Chúng ta lắng tai nghe bài hát, thưởng thức nhạc điệu và lời ca ru hồn; nhưng chúng ta không quên cảm thấy xót xa cho nền âm nhạc của miền Nam trước 1975.

Cảm tạ

Tôi xin có lời cảm tạ anh Vũ Đông Hà và các bạn dân lànhSài gònPHObinh,Cau Ho, buồn cho tiếng Việt của trang mạng Dân Làm Báo đã có lời khích lệ trong các bài về âm nhạc trước và giúp tôi có ý định viết bài này, đặc biệt là lời yêu cầu của Sài gòn.




____________________________________

Tài Liệu Tham Khảo:

1. Cao-Đắc, Tuấn. 2014a. " Hồn lỡ sa vào đôi mắt em". 6-8-2014. 

2. Cao-Đắc, Tuấn. 2014b. " Một mai giã từ vũ khí" . 22-8-2014. 

3. Cao-Đắc, Tuấn. 2014c. Uy Lực. 7-9-2014.

4. Damer, T. Edward. 2009. Attacking Faulty Reasoning. Sixth edition. Wadsworth Cengage Learning, Belmont, California, U.S.A.

5. Dân Trí. 2007. Sự tích hoa cỏ may. 19-9-2007. 

6. Jamieson, Neil L. 1995. Understanding Vietnam. University of California Press, California, U.S.A.

7. Nguyễn Ngọc Ngạn. Câu chuyện "Sương Trắng Miền Quê Ngoại," trích từ truyện đọc "Kỷ Niệm Sân Khấu"

8. Phạm Chí Dũng. 2014. Sương trắng miền quê ngoại: sáo Chí Dũng, guitar Văn anh. 12-6-2014. 

Wikipedia. 2014. Đinh Miên Vũ. Thay đổi chót: 19-7-2014. 

© 2014 Cao-Đắc Tuấn