Tuesday, November 1, 2016

Công an xã và vấn đề lạm quyền

Công an xã và vấn đề lạm quyền
Trong khoảng hơn chục năm trở lại đây, việc “lạm quyền” của lực lượng Công an nói chung và Công an xã nói riêng trong thực thi công vụ đã gây nhiều bức xúc, bất bình trong dư luận xã hội, làm giảm lòng tin của dân. Con số 226 người chết khi bị tạm giữ, tạm giam trong ba năm (2011-2014) đã chứng minh điều đó. Trước tình trạng trên, vấn đề chống lạm quyền của lực lượng này cũng đã bàn nhiều, biện pháp đưa ra cũng nhiều, Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy những việc như vậy không giảm mà có xu hướng gia tăng.
Nói về công an xã, đây là lực lượng bán chuyên trách, nghĩa là công tác công an chỉ là nghề nghiệp phụ của những thành viên của lực lượng Công an xã. Họ không được đào tạo chính quy. Ngoài trưởng công an xã, các công an viên không được hưởng lương và các chế độ tài chính như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, mà chỉ được phụ cấp. Tuy vậy, họ lại có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở cấp cơ sở (cấp phường, xã). Rất nhiều con người trong lực lượng ấy, màu áo ấy họ đã hết mình vì công vụ, họ làm việc có lương tâm, có đạo đức. Thực tế khi người dân gặp vấn đề về an ninh thì lực lượng Công an xã luôn có mặt đầu tiên để giải quyết.
Nhưng trong thời gian gần đây, các vụ lạm quyền của công an xã ngày càng gia tăng, nhiều vụ gây hậu quả nghiêm trọng. Họ tùy tiện bắt người, tạm giam không có lệnh, tự ý dùng nhục hình, ép cung lấy lời khai… đã xảy ra ở nhiều địa phương.
Năm nào cũng xảy ra một vài vụ chết người liên quan đến Công an xã. Có thể kể ra một vài vụ điển hình như: Cái chết của anh Ngô Thanh Kiều ở xã Hòa Đồng, huyện Tây Hòa, tỉnh khánh hòa (năm 2012), cái chết của ông Nguyễn Mậu Thuận ở xã Kim Nỗ, huyện Đông Anh, Hà Nội (năm 2012), cái chết của em học sinh Tu Ngọc Thạch ở xã Vạn Long, huyệnVạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa (năm 2013), cái chết của anh Trương Quốc Long xã Phú Xuân, huyện Krông Năng, Đắk Lắk (2014), cái chết của anh Huỳnh Nghĩa ở xã Đạo Nghĩa, huyện Đắk R’lấp, tỉnh Đắk Nông (2014). Còn gây thương tích thì rất nhiều – theo một thống kê, chỉ trong vòng bốn tháng (5/2012 đến 9/2012) cả nước có gần 10 trường hợp công an xã ra tay quá mức với người dân.
Mới đây, là vụ anh Nguyễn Văn Tấn (Sông Lô-Vĩnh Phúc) tử vong sau khi làm việc với Công an xã. Vụ việc diễn biến như sau: vào sáng 27/10/2016, Công an xã Lãng Công có giấy mời anh Tấn lên để làm việc liên quan đến chiếc điện thoại của con trai anh Tấn bị mất cách đó ít hôm. Sau khi về nhà, anh Tấn có biểu hiện mệt mỏi, da nhợt nhạt, đặc biệt, một bên mắt có vết bầm tím, hai chân bị sưng. Buổi tối hôm đó anh Tấn bỏ bữa, chỉ uống một hộp sữa rồi lên giường đi ngủ. Sáng hôm sau gia đình phát hiện tử vong. Anh H, cháu ruột của nạn nhân cho biết: “Khi trở về nhà, cậu tôi có nói, Công an đánh tao đau quá! (theo báo Công lý).
Vì đâu lực lượng công an xã lạm quyền ? có rất nhiều nguyên nhân, như là thiếu hiểu biết luật, không được đào tạo chuyên môn, do hoàn cảnh, do áp lực công việc…Nói về vấn đề này, tại phiên thảo luận của UB Thường vụ Quốc hội về dự án luật Công an xã (ngày 15/8) ông Phan Thanh Bình – Chủ nhiệm UB văn hóa, giáo dục thanh niên, thiếu niên và nhi đồng Quốc hội cho rằng, chính quyền ở nông thôn là quan liêu, ăn hiếp lẫn nhau, có một chút quyền là đối xử không công bằng với người khác. Vấn đề phổ biến ở nông thôn là những người có chức năng quyền hạn không làm đúng chức trách của mình: “Khi có quyền lực ở nông thôn thì ông nông dân cũng dễ làm vua. Nên có ràng buộc về trình độ, cũng như giới hạn làm sao để anh ta không lạm dụng quyền hạn của anh ta” (Theo báo lao động).
Cũng tại phiên thảo luận trên, tờ Thanh niên dẫn lời bà Lê Thị Nga – Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội khi nói về vấn đề này, Nghị định 73 (2009) quy định ở những vùng sâu, vùng xa, công an viên chỉ cần tốt nghiệp tiểu học. “Với nhiệm vụ quyền hạn lớn trong đó đụng đến quyền con người, quyền công dân nhưng quy định trình độ đầu vào thấp như vậy khó đảm bảo được”.
Lấy một ví dụ khác, Thông tư 47/2011/TT-BCA quy định lực lượng công an xã được tuần tra, kiểm soát các tuyến đường liên xã, liên thôn thuộc địa bàn quản lý, xử phạt các các hành vi vi phạm trận tự, an toàn giao thông… Lợi dụng việc này, nhiều địa phương Công an xã lập chốt kiểm tra, xã nào cũng có chốt thậm chí vài chốt, công an xã liên tục tuần tra, không ít người lợi dụng việc này để nhũng nhiễu, gây rất nhiều phiền hà cho người dân.
Một điều đáng thất vọng, mỗi khi có sự sai phạm, là có sự bao che, dung túng, xử nhẹ. Và đôi khi còn nhân danh thực thi công vụ để lách luật, thay vì truy tố tội giết người thì chỉ là cố ý gây thương tích. Ví dụ trong vụ án anh Ngô Thanh Kiều (Phú Yên), năm bị cáo công an chỉ bị xét xử về tội dùng nhục hình hoặc như trong vụ án ông Nguyễn Hữu Thâu (Đắk Lắk) bị cáo công an chỉ bị xét xử về tội làm chết người trong khi thi hành công vụ. Những vụ án xử như thế sẽ không đủ sức răn đe, không bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, không công bằng với người dân.
Quyền hạn nhiều, trình độ có thấp lại không được giám sát, dễ sinh ra thói tự tung tự tác. Đó chính là nguyên nhân dẫn đến việc lạm quyền ngày càng tăng. Do không hiểu luật hoặc hiểu không rỏ nên họ lạm dụng quyền lực một cách hiển nhiên, tự cho mình cái quyền xâm hại nhân phẩm, tính mạng người khác mà không mảy may suy nghĩ. Để không còn những cái chết oan, những thương tật cho người dân do lực lượng này gây, đã đến lúc cần đến những thay đổi. Thiết nghĩ, cần phải kiểm tra, giám sát việc chấp hành nghiêm chỉnh các quy định về tạm giữ người. Đồng thời, xem lại tiêu chuẩn Công an xã cũng như chế tài đối với họ.
Theo Dân luận

Vì sự tồn vong của Đảng, hi sinh người nào đó cũng phải làm

Vì sự tồn vong của Đảng, hi sinh người nào đó cũng phải làm
Ông Phạm Trọng Đạt: Không sợ bất kỳ thế lực nào. Ảnh: Phạm Hải
Chúng ta phải chấp nhận sự hi sinh một quyền lợi nào đó, một lợi ích nhỏ nào đó, một người nào đó cũng phải làm vì lợi ích của quốc gia, sự tồn vong của Đảng, Cục trưởng Cục Phòng chống tham nhũng (Thanh tra Chính phủ) Phạm Trọng Đạt nhấn mạnh. 
Ông nêu ngay ví dụ về mình: “Không làm được cục trưởng, tôi sẵn sàng nghỉ để người khác làm. Nếu chỉ nói mà không làm được thì tôi sẵn sàng nghỉ ngay, không vấn đề gì cả”.
Phát hiện cấp trên tham nhũng đâu dễ
UB Tư pháp nhận định: “Có tham nhũng ngay trong chính cơ quan phòng chống tham nhũng”. Là người trực tiếp tham gia công tác PCTN, ông suy nghĩ gì về điều này?
Đó là một thực tế tất yếu. Có rất nhiều cơ quan liên quan đến công tác PCTN chứ không riêng cơ quan thanh tra. PCTN là sự nghiệp của toàn dân, các cơ quan tổ chức đều tham gia vào. Trong những lực lượng nòng cốt thì có thể có những cá nhân vi phạm này khác, vì lợi ích cá nhân mà bao che hoặc trực tiếp có vi phạm. Trong cả một hệ thống thế này, cơ chế thế này, con người thế này thì vi phạm xảy ra là tất yếu thôi. Nhưng cái chung lớn nhất là những cái đã làm được, còn một vài cán bộ có vi phạm, thậm chí có tham nhũng đều xử lý rất nghiêm túc. Chứ không phải cán bộ làm công tác PCTN mà tham nhũng thì xử lý nhẹ. Thậm chí bây giờ xử còn mạnh hơn trước kia.
Nhưng báo cáo của Tổng Thanh tra cho biết có nhiều vụ án tham nhũng lớn, người đứng đầu là chủ mưu khiến cho việc xử lý các vụ án này khó khăn hơn? 
Trong thực tế bây giờ có những vụ tham nhũng mà người đứng đầu đồng thời cũng là người chủ mưu. Cái này xử lý cũng rất nghiêm. Thực tế nhiều vụ án tham nhũng, kinh tế lớn vừa qua người đứng đầu đều bị xử lý và xử lý nặng chứ không có chuyện từ hình sự mà xử lý hành chính, tình trạng án treo cũng giảm rất nhiều.
Người lãnh đạo dù là cấp nào nhưng nếu tham nhũng đều bị xử rất nặng.
Xử lý nghiêm minh nhưng chỉ có phát hiện còn hạn chế vì tội phạm này là tội phạm ẩn, lại liên quan đến người có chức vụ, quyền hạn, kể cả những người quyết định cả những người làm nhiệm vụ PCTN. Cho nên không phải dễ đâu. Như tôi bây giờ nếu có phát hiện cấp trên của mình tham nhũng thì cũng đâu phải dễ.
Nhưng khi đã phát hiện rồi thì xử lý nghiêm minh bất cứ là người nào. Chúng tôi là những người thực hiện thì không sợ bất kỳ thế lực nào. Bởi chúng tôi biết còn Đảng, còn nhân dân thì còn chúng tôi.
Người không làm, nói gì cũng gật có khi phiếu lại cao
ĐB Trương Trọng Nghĩa (TP.HCM) cho rằng việc một số người lạm dụng chức vụ trong bổ nhiệm cán bộ dẫn đến tình trạng “cả họ làm quan đúng quy trình” là biến tướng mới của tham nhũng?
Nói là một thủ đoạn, hay một hình thức mới của tham nhũng thì tôi chưa khẳng định. Nhưng tất cả những cái đó theo báo cáo thì người ta nói đúng quy trình.  Việc người đứng đầu nhìn ra người này, người kia có đủ tiêu chuẩn hay không chỉ có họ mới biết được. Cho nên kể cả có đúng quy trình cũng chưa phản ánh hết được thực chất của con người.
Chẳng hạn như việc lấy phiếu tín nhiệm, người làm việc nhiều, va chạm nhiều nhiều khi phiếu lại thấp, còn người không làm gì, không va chạm gì, nói kiểu gì cũng gật có khi phiếu lại cao. Cũng đúng quy trình đấy, uy tín có đấy nhưng đi vào công việc cụ thể, có làm việc được hay không thì lại là cả một vấn đề.
Một bí thư đề bạt, bổ nhiệm mấy chục cán bộ là con em mình chẳng hạn, quy trình đúng hết, không có gì sai cả, do tập thể đi từ dưới lên trên, ông bí thư không chỉ định đâu và ông ấy cũng chỉ có một phiếu.
Nhưng phải đặt ra vấn đề, nếu ông ấy không phải là bí thư, thì Ban thường vụ, hay ban cán sự đó có đề bạt người khác có trình độ tương đương không? Đó là vấn đề cần phải xem xét.
Vì vậy trong quá trình sửa luật PCTN tới đây cần phải tính tới việc xác định trách nhiệm người đứng đầu ngay từ việc nhận thức về công tác cán bộ như thế nào, cho tới thực hiện các quy trình để không liên quan gì đến lợi ích nhóm, tư lợi cá nhân. Những việc này cần phải tránh.
Gần đây nổi lên tình trạng một số nơi bổ nhiệm cán bộ ồ ạt cuối nhiệm kỳ. Ngay tại TTCP, Bộ Nội vụ cũng đang kiểm tra việc nguyên Tổng TTCP Huỳnh Phong Tranh bổ nhiệm ồ ạt trước khi về hưu. Ông suy nghĩ gì về việc này?
Tôi nghĩ cái đó là yêu cầu của từng địa phương, từng bộ ngành xuất phát từ chức năng, thẩm quyền của người ta. Tuy nhiên, việc phân phối chưa đều. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc bổ nhiệm dồn vào cuối nhiệm kỳ nên người ta bảo có vấn đề.
Đi sâu vào từng vấn đề cụ thể, bóc tách được thì mới thấy rằng cái gì là cái thực tế khách quan, cái gì mang yếu tố chủ quan không nên cào bằng, nói là “chuyến tàu vét” thì chưa hẳn đã hợp lý.
Trường hợp của nguyên Tổng thanh tra Huỳnh Phong Tranh, Bộ Nội vụ chưa có kết luận, chưa chuyển cho TTCP. Khi nào có kết luận chính thức thì TTCP sẽ trả lời theo kết luận.
Thu Hằng – Ảnh, clip: Phạm Hải
——————-
Tựa đề do VNTB đặt

Lịch sử không có chữ “nếu”


Ngày 2.11 sắp tới là ngày giỗ lần thứ 53 của Tổng thống Ngô Đình Diệm và bào đệ của ông, Cố vấn Ngô Đình Nhu. Trên facebook mấy hôm nay có nhiều người viết status, viết bài, đăng hình đi viếng mộ hai người, có cả hình Đức cha Miace Hoàng Đức Oanh, Nguyên Giám mục giáo phận Kontum và đoàn đồng tế dâng lễ giỗ cho cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm vào ngày 31.10.2016.
Đáng nói là trong những người đi viếng có nhiều người trẻ, sinh ra và lớn lên ở miền Bắc, bao nhiêu năm bị tuyên truyền nhồi sọ những điều tối tệ về ông Diệm và chế độ VNCH, nhưng nhờ có internet, nhờ tiếp xúc với những nguồn thông tin bên ngoài, họ đã dần dần nhận ra sự thật.
Năm tháng lùi xa, lịch sử dù bị bưng bít, bóp méo bởi những người “thắng cuộc” nhưng cuối cùng sự thật vẫn được sáng tỏ.
Sự thật đã cho thấy rằng, nếu so sánh giữa hai con người, Tổng thống Ngô Đình Diệm và Chủ tịch Hồ Chí Minh, thì Tổng thống Ngô Đình Diệm mới chính là một con người thật sự yêu nước, có tinh thần quốc gia, tinh thần dân tộc, có khát vọng xây dựng một nước VN độc lập, giàu mạnh, tự cường về nhiều mặt đối với ngoại bang. Tổng thống Ngô Đình Diệm mới chính là con người có đời sống cực kỳ thanh bạch, không có một chút tai tiếng nào trong đời tư.
Trong khi đó, ông Hồ Chí Minh, người trước khi là lãnh tụ của đảng cộng sản VN đã từng làm việc cho đảng cộng sản Nga, đảng cộng sản Trung Quốc, mới chính là tội đồ của dân tộc khi đem học thuyết ngoại lai Mác Lênin, đem mô hình xây dựng đất nước của Nga Sô, của Tàu về áp dụng rập khuôn bất chấp có phù hợp hay không. Chính ông Hồ Chí Minh mới là người có tư tưởng phụ thuộc nặng nề vào Nga, Tàu, mê tín những lãnh tụ của Nga, Tàu như Stalin, Mao Trạch Đông…Chính ông Hồ Chí Minh là người quyết tâm nhuộm đỏ miền Nam, biến VN thành tiền đồn đánh Mỹ của phe XHCN, bất chấp cái giá máu xương mà dân tộc phải trả.
Bên cạnh đó, càng ngày người ta càng khám phá ra những mảng tối trong con người, cuộc đời của ông Hồ, chuyện vợ con trai gái, cả bí ẩn chưa được bạch hóa rằng ông Hồ có phải là Nguyễn Tất Thành/Nguyễn Ái Quốc hay đó là hai con người khác nhau, ông Hồ có phải là người Tàu v.v…Về nhân vật Hồ Chí Minh, rõ ràng là còn rất nhiều bí mật sẽ phải được công khai một ngày nào đó.
Và nếu so sánh những điều Tổng thống Ngô Đình Diệm đã làm được cho miền Nam trong thời gian tại vị, đã đặt những nền móng ban đầu để xây dựng một chế độ VNCH tự do, ấm no, nhân bản trong hoàn cảnh rất nhiều khó khăn lúc ấy với chế độ XHCN ở miền Bắc và ngay cả với các nước láng giềng trong khu vực thì càng thấy tầm nhìn, năng lực của Tổng thống và bào đệ của ông.
Người ta hay nói chế độ Ngô Đình Diệm là độc tài, gia đình trị nhưng khi dân trí chưa cao và đất nước lại còn phải đối phó với họa cộng sản thì rất khó để mà dân chủ một trăm phần trăm. Cứ nhìn các nước Đài Loan, Singapore vào những năm tháng đó và cả nhiều năm sau, những người lãnh đạo của họ có độc tài hay không. Quan trọng là người lãnh đạo có tài, có tầm, là người yêu nước thương dân, biết chọn con đường đúng cho đất nước, có khát vọng đưa đất nước trở thành giàu mạnh, phú cường, nhân dân được ấm no, hạnh phúc. Những điều đó có lẽ đúng với Tổng thống Ngô Đình Diệm hơn là ông Hồ Chí Minh hay các lãnh đạo kế tiếp của đảng cộng sản, những con người luôn luôn đặt quyền lợi của đảng lên trên lợi ích của quốc gia, dân tộc.
Tổng thống Diệm cũng là người có hoài bão đi tìm một học thuyết, chủ thuyết phù hợp với dân tộc.
“Và Sử gia Henry Fairbanks đã tóm tắt sự thật lịch sử này bằng lời lẽ khách quan, trong một bài báo tưạ đề “The Enigma of Ngô Đình Diệm”, được đăng trong tờ Commonweal, như sau:
“Ông Diệm tìm kiếm và khôi phục laị những giá-trị cổ-truyền làm nền tảng cho giaỉ-pháp canh tân xứ sở trong khi đó những người khác laị đi tìm những học thuyết ngoaị lai. . . .Dù sao đi nữa, Ông ta vẫn là một người có cái nhìn sâu sắc về tương lai. Cả thế giới này đều yêu mến các chiến-sĩ dũng cảm và ai ai cũng phải nể trọng những kẻ đeo đuổi một lý-tưởng cao cả nào đó. Ông Diệm ao ước thực hiện một nhà-nước được xây dựng trên những giá-trị cổ-truyền tốt đẹp nhất của Á-châu và Tây-phương, những đặc điểm đúng đắn và khả thi nhất để phục vụ quyền-lơị chung và tôn trọng nhân-phẩm. Ông Diệm cho rằng Xã-Hội Chủ-nghiã và Tư-bản Chủ-nghiã đều là những học-thuyết cực-đoan cần có một hình-thức trung-gian, một lực lượng đứng giữa, nhằm tổng hợp được những giá-trị ưu-tú nhất của cả hai để phục vụ cho lơị ích chung: công bằng đối với người này là tự-do của kẻ khác, cũng như loaị bỏ độc tài toàn chế và tinh thần vô trách nhiệm của Chủ-nghiã cá-nhân.” (21-9-1962, tr.516) (“Chủ-Nghiã NHÂN-VỊ: Con Đường Mới, Con Đường của Tiến Bộ?”,Tiến Sĩ Nguyễn Ngọc Tấn)
Đó chính là chủ thuyết Nhân-Vị, coi trọng con người.
Vẫn biết rằng lịch sử không có chữ “nếu”. Nhưng rõ ràng nếu Tổng thống Ngô Đình Diệm và Cố vấn Ngô Đình Nhu không bị đảo chính và bắn chết năm 1963, lịch sử miền Nam và kể cả lịch sử VN có lẽ đã khác.
Những điều Tổng thống Ngô Đình Diệm nói cách đây bao nhiêu năm như những lời tiên tri:
“Nếu bọn Việt Cộng thắng, thì quốc-gia Việt-Nam cũng sẽ bị tiêu-diệt và sẽ biến thành một tỉnh nhỏ của Trung-hoa Cộng-sản. Hơn nữa toàn-dân sẽ phải sống mãi mãi dưới ách độc tài của một bọn vong bản vô gia đình, vô tổ quốc, vô tôn giáo."
Ngô Đình Diệm (Khánh Thành Đập Đồng Cam, Tuy-Hòa 17-9-1955).
Rõ ràng sau 50 năm, hai trong số những hậu quả lớn nhất mà đất nước này, dân tộc này đã và đang phải chịu dưới sự cầm quyền duy nhất của đảng cộng sản, đó là VN đang phải đối mặt với nguy cơ bị lệ thuộc vĩnh viễn bởi Trung Cộng, và một xã hội bị suy đồi, tàn phá về mặt đạo đức. Nhân cách con người bị méo mó.
Những sự tụt hậu về kinh tế, kể cả văn hóa, giáo dục rồi cũng sẽ xây dựng lại được nhưng con người bị hỏng về mặt tư duy, đạo đức, thì sẽ mất thời gian hơn rất nhiều.
Xã hội VN bây giờ con người đối với nhau quá ác. Không có ngày nào mở tờ báo ra, bật TV lên mà chúng ta không đọc, nghe thấy những tin tức về cái ác hoành hành. Trong những vụ án xảy ra hàng ngày, trừ những vụ có động cơ, mục đích từ đầu là cướp, hiếp, thù oán cá nhân (những vụ này cũng ngày càng táo tợn, dã man) thì đáng sợ hơn là những vụ đánh, giết nhau chỉ vì những chuyện hết sức ngẫu nhiên, nhỏ nhặt; kẻ thủ ác trước đó là những con người hoàn toàn bình thưởng, chưa có tiền án tiền sự, có thể là bất cứ ai, thuộc bất cứ thành phần nào trong xã hội. Học sinh ngay từ nhỏ đã đánh nhau, làm nhục nhau, lột quần áo, bắt liếm chân…như kẻ thù. Dân đánh nhau, giết nhau. Quan bắn dân. Quan bắn quan. Giết người lạ đã đành, cha mẹ chị em con cái chồng vợ đâm chém nhau, tạt axit, đốt xăng, giết nhau…đầy rẫy.
Nguyên nhân thì các nhà báo, nhà giáo, các nhà xã hội học cũng đã chỉ ra nhiều. Nhưng rõ ràng những hành động độc ác bộc phát ấy là hệ quả của những bức bối dồn nén bên trong. Bức bối vì đủ thứ bất công, trái tai gai mắt, quá nhiều những sức ép trong đời sống hàng ngày. Sâu xa hơn, đó là hệ quả của một xã hội và một nền giáo dục không coi trọng con người.
Nhìn vào đâu cũng thấy cái ác. Dân ít học ác với nhau đã đành. Người có học, có vị trí xã hội, cái ác lắm khi có tác hại lớn hơn. Ví như người làm báo, làm truyền thông không có lương tâm có thể bằng những bài báo, chiến dịch quảng cáo không trung thực hại nhiều người. Những người buôn bán, sản xuất hàng hóa không có lương tâm thì cho đủ thứ chất độc hóa chất vào thực phẩm, thản nhiên làm hại đồng bào. Các công ty, nhà thầu không có lương tâm, làm ăn gian dối, gây ra bao nhiêu tai nạn lao động.
Chức càng cao mà tâm không có thì tác hại càng lớn. Trong vụ bão lũ ở miền Trung vừa qua, những nhà máy điện thản nhiên xả lũ làm chết hàng chục con người và đẩy hàng trăm, hàng ngàn người khác vào cảnh mất mát tài sản, trắng tay. Một chữ ký của những kẻ có quyền chức cho phép khai thác bauxite ở Tây Nguyên, cho phép vận hành nhà máy thép Formosa dẫn đến những thảm họa môi trường gây thiệt hại nặng nề hàng chục năm cho đất nước, cho dân tộc. Nhưng sự vô lương tâm, cái ác chưa dừng lại ở đấy. Họ tiếp tục bao che, bảo vệ cho thủ phạm, trù dập người dân đứng lên biểu tình đòi Formosa bồi thường, họ tiếp tục đặt bút ký cho phép những dự án phá hoại môi trường khác, nào nhà máy thép ở Cà Ná Bình Thuận, nhà máy kẽm ở Lăng Cô Huế…
Họ thản nhiên bán rẻ đất nước này, tương lai của dân tộc này chỉ vì quyền và tiền. Vơ vét trong cơn cuồng loạn của những kẻ biết rằng con tàu VN đang đắm và cần phải hốt cho nhanh để rồi tìm bãi đáp ở một nơi an toàn, sung sướng khác.
Cái ác, vô lương tâm, cái tâm lý ở trọ trên đất nước mình ấy thật là phổ biến.
Cùng với một phần lãnh thổ lãnh hải vĩnh viễn mất vào tay Trung Cộng, sự phụ thuộc ngày càng nặng nề vào Bắc Kinh thì sự méo mó, biến dạng của nhân cách con người là những hậu quả cay đắng nhất mà dân tộc VN đang phải gánh chịu, trả giá. Những điều ấy hơn 50, 60 năm trước hai anh em ông Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu đã sớm nhìn ra trong khi Hồ Chí Minh, thậm chí cho tới những người lãnh đạo đảng cộng sản hiện nay cũng chưa nhận ra.

"Năm năm vàng son 1955-60" của Việt Nam Cộng Hòa

Nguyễn Tiến Hưng Cựu Tổng trưởng VNCH, gửi cho BBC từ Virginia, Hoa Kỳ 

30 tháng 10 2016 

SaigonImage copyrightSAIGON
Từ cao nguyên Tây Tạng, con sông Cửu Long cuồn cuộn chảy như thác lũ xuống phía nam qua tỉnh Vân Nam, tới Lào, Thái Lan, Kampuchia, rồi Việt Nam trước khi ra Biển Đông.
May cho Miền Nam là có hồ lớn Tonle Sap ở Campuchia hút đi một phần lớn lượng nước từ thượng nguồn cho nên từ đây dòng sông lại uốn khúc hiền hòa chảy vào Miền Nam.
Tới gần biên giới thì con sông chia ra làm 8 nhánh. Nhưng con số 9 được coi là may mắn cho nên phải tìm ra cho được một nhánh nữa, tuy là rất nhỏ (dài khoảng 10 dậm) để cộng lại thành ra 9 nhánh, gọi là Cửu Long Giang.
Dòng sông Chín Con Rồng uốn mình tưới nước cho vùng đồng bằng Nam Bộ mầu mỡ, phì nhiêu trở thành vựa lúa của cả nước. Người nông dân nơi đây chỉ cần trồng mỗi năm một vụ là cũng đủ ăn, lại còn dư thừa để tiếp tế ra Miền Bắc và xuất cảng.

Khởi đầu gian khó

Nhưng trong mười năm chiến tranh loạn lạc, trên một phần ba đất trồng trọt đã bị bỏ hoang, nhường chỗ cho những bụi rậm và cỏ dại lan tràn.
Một phần lớn hệ thống kênh rạch cũng bị khô cạn hay sình lầy. Hệ thống bơm nước, thoát nước cũng bị hư hại. Bởi vậy, sản xuất thóc gạo của Miền Nam trong mười năm trước 1955 đã bị giảm đi đáng kể.
Ngoài ra, các phương tiện giao thông như đường bộ, đường sắt, cầu cống và các cơ sở công kỹ nghệ như đường trắng, rượu bia, sợi bông cũng đều bị hư hại.
Cho nên vào năm 1955, khi "Một Quốc Gia Vừa Ra Đời" như báo chí Mỹ tuyên dương thì quốc gia ấy đã phải đối diện với bao nhiêu khó khăn khôn lường.
SaigonImage copyrightGETTY IMAGES
Ngân sách của Pháp để lại thì thật eo hẹp, kỹ sư, chuyên viên trong mọi lãnh vực đều hết sức hiếm hoi vì Pháp đã rút đi hầu hết, để lại một lỗ hổng lớn cho cả nển kinh tế lẫn hành chánh, giáo dục, y tế.
May mắn là trong năm năm đầu, từ mùa Thu 1955 tới mùa Thu 1960, Miền Nam có được năm năm vàng son, vừa có hòa bình lại được đồng minh Hoa kỳ hết lòng yểm trợ vật chất và kỹ thuật cho nên đã thu lượm được nhiều kết quả có thể nói là vượt bực.
Hồi tưởng lại thời gian ấy, nhiều độc giả chắc còn nhớ lại cái cảnh thanh bình khi các em học sinh mặc áo chemise trắng, quần xanh, các nữ sinh với những chiếc áo dài trắng tha thướt ngày ngày cắp sách đến trường.
Cha mẹ, anh em thì lo công việc làm ăn. Giầu có thì chưa thấy nhưng hầu hết đã đủ ăn đủ mặc, xã hội trật tự, kỷ cương. Tuy dù có nhiều bất mãn khó tránh về chính trị, tôn giáo và xã hội, nhưng tương đối thì ta phải công nhận rằng đây là thời gian hào quang nhất của Cộng Hòa Việt Nam.

Định cư gần một triệu người di cư từ Miền Bắc

Công việc đầu tiên và khẩn cấp nhất là phải định cư tới gần một triệu người, tương đương bằng 7% dân số Miền Bắc di cư vào Nam.
Đoàn người này hoàn toàn 'tay trắng' - chúng tôi gọi là đoàn người 'bốn không': không nhà cửa, đất đai, tiền bạc, ngành nghề chuyên môn ngoài nghề nông.
Làm sao tìm được nơi ăn, chỗ ở, tạo dựng lại được công ăn việc làm, đào giếng nước, xây nhà thương, bệnh xá, trường học cho con em để đáp ứng nhu cầu? Ngoài việc hành chính, lại còn tìm đâu ra bác sĩ, y tá, thầy dạy cho con em?
SaigonImage copyright
Sau này khi nói về thành công của Tổng thống Diệm về việc này, TT Kennedy viết cho ông nhân ngày Quốc Khánh 26/10/1961:
"Thưa Tổng thống,
Thành tích mà Ngài đã đạt được để đem lại niềm hy vọng mới, nơi cư trú và sự an ninh cho gần một triệu người lánh nạn cộng sản từ Miền Bắc đã nổi bật như một trong những nỗ lực đáng được tán dương nhất, và được điều hành tốt đẹp nhất trong thời hiện đại."

Tái thiết và phát triển nông nghiệp

Ưu tiên của công việc tái thiết và phát triển phải là nông nghiệp vì đại đa số nhân dân làm nghề nông. Đồng bằng Cửu Long là vựa lúa của cả nước, nhưng sản xuất đã giảm đi đáng kể trong mười năm ly loạn.
Thời tiền chiến sản xuất lên tới 4,2 triệu tấn (1939). Tới 1954 chỉ còn 2,5 triệu tấn. Cũng năm 1939 xuất cảng gạo là gần 2 triệu tấn, năm 1954 chỉ còn 520.000 tấn.
Tại vùng đồng bằng, trong tổng số là 7 triệu hecta đất trồng trọt có tới 2,5 triệu hecta (trên một phần ba) bị bỏ hoang. Lúa gạo là mạch máu của người dân cho nên công việc đầu tiên là phải đưa diện tích này vào canh tác.
Đây là một cố gắng vượt mức vì không những nó đòi hỏi phải tốn phí nhiều tiền bạc, công sức, để sửa chữa lại hệ thống thủy lợi, vét nạo kênh rạch, lại còn làm sao xây dựng được quyền sở hữu đất đai và phương tiện sản xuất cho người nông dân.
SaigonGETTY IMAGES

Cải cách điền địa: Khó khăn và giải pháp thành công

Người khôn của khó. Lo lắng chính của người dân là làm sao có được một mảnh đất để sinh sống. Nếu như mảnh đất ấy lại nằm gần sông nước thì là vàng.
'Đất Nước tôi': đất và nước. Chỉ có Việt Nam ta là dùng hai chữ đất và nước để chỉ quê hương, tổ quốc mình vì tấc đất là tấc vàng.
Các biện pháp cải cách ruộng đất bắt đầu vào năm 1955 với lệnh giới hạn địa tô (tiền thuê đất) và những biện pháp giúp cho tá điền (người nông dân thuê đất) có được sự yên tâm về quyền sử dụng đất.
Cải cách điền địa là công việc rất khó khăn của các chính phủ Á Châu, nhưng ở Miền Nam là khó khăn nhất.
Làm sao mà lấy ruộng của người này chuyển cho người khác, nhất là khi đất canh tác lại tập trung vào một số rất nhỏ đại điền chủ? Họ là những người nắm thực quyền tại địa phương và gián tiếp, tại đô thị. Ở đồng bằng sông Cửu Long, sự tập trung quyền sở hữu đất vào một số điền chủ là cao nhất ở vùng Đông Nam Á: chỉ có 2,5% điền chủ mà đã sở hữu tới một nửa diện tích canh tác, trung bình mỗi điền chủ có hơn 50 mẫu đất.
Trước tình huống ấy, TT Diệm đã phải đối mặt với một khủng hoảng xã hội rất có thể xẩy ra nếu như phát động mạnh chương trình cải cách điền địa. Nhưng TT Diệm vẫn đặt vấn đề này là ưu tiên số một của chính sách kinh tế, bắt đầu ngay từ 1955 bằng việc cải tổ quy chế tá điền.
Để hỗ trợ cho nông dân được yên tâm khi đi làm thuê, điền chủ phải ký hợp đồng với tá điền về điều kiện thuê đất: tiền thuê đất, thời hạn thuê, triển hạn khế ước, giảm tô trong trường hợp mất mùa.
Kết quả về nông nghiệp trong 5 năm rất khả quan: sản xuất cây lương thực tăng 32%, vượt qua tất cả mức sản xuất thời tiền chiến. Năm 1959, sản xuất gạo lên 5,3 triệu tấn, cao nhất trong lịch sử kinh tế Miền Nam cho tới thời điểm đó. Về xuất cảng: với tổng số là 340.000 tấn, năm 1960 cũng đánh dấu mức xuất cảng cao nhất.

Phát triển công kỹ nghệ và quy chế 'Quốc tịch Việt'

Dưới thời Pháp thuộc, kỹ nghệ và tài nguyên hầu như không được phát triển vì người Pháp chia ra hai vùng rõ rệt: Miền Bắc tập trung vào kỹ nghệ và khai thác hầm mỏ, Miền Nam thì căn bản là tập trung vào nông nghiệp, chỉ có một số sản phẩm tiêu thụ như nhà máy bia, diêm quẹt, thuốc lá, độc quyền thuốc phiện.
Bởi vậy từ 1955, Miền Nam bị cắt đứt tiếp liệu về than và khoáng sản. Chuyên viên kỹ thuật, kỹ sư lại thật ít ỏi vì Pháp đã rút đi hầu hết.
Từng bước, chính phủ bắt đầu khai thác tài nguyên với ba dự án chính: mỏ than Nông Sơn, thủy điện Đa Nhim, và phốt phát tại Hoàng Sa - Trường Sa. Lúc ấy thì chưa biết là có dự trữ dầu lửa lớn ở những quần đảo này.
Một chuyện ít người biết là việc đổi quốc tịch.
Nhiều người lên án hành động của TT Diệm là độc tài khi ông đưa ra quy định vào hè 1955 căn bản là nhắm vào các thương gia người Tầu (đa số sinh sống ở Chợ Lớn): nếu muốn làm ăn ở Việt Nam thì phải đổi ra quốc tịch Việt Nam.
Chúng tôi nghiên cứu thì mới hiểu lý do sâu xa là vì thời gian ấy, cơ sở kỹ nghệ ở Miền Nam căn bản là thuộc quyền sở hữu của người Pháp, cho nên khi TT Diệm quyết tâm đẩy Pháp ra khỏi Miền Nam thì ông tiên liệu trước và mở đường để người Tầu nhập quốc tịch Việt Nam với mục đích là để cho họ (vì có nhiều vốn liếng) sẽ có thể mua lại những cơ sở kỹ nghệ của người Pháp.
Một kích thích nổi bật khác về kinh tế là chính sách cởi mở, ưu đãi đối với các nhà đầu tư ngoại quốc: bảo đảm về chiến tranh, cam kết không tịch thu hay quốc hữu hóa tài sản của người ngoại quốc, ưu đãi về thuế má và cho phép chuyển tiền lời ra ngoại quốc.

Hạ tầng cơ sở

Tái thiết mạng lưới giao thông đã bị hư hại trong thời chiến và xây dựng thêm nữa là đòi hỏi tiên quyết cho việc phát triển kinh tế và xã hội.
Tới năm 1960, hệ thống đường bộ, đường sắt, đường thủy và các tuyến hàng không đã được cải thiện canh tân và mở rộng đáng kể. Hệ thống vận chuyển hiện đại bao gồm đường sắt, một mạng lưới các đường quốc lộ, liên tỉnh lộ, hương lộ, đường thủy và đường hàng không.
Đường bộ: trong khoảng 9.000 dặm đường, có hơn 2.000 dặm là bê tông nhựa; 3.000 dặm đường có cán đá, và khoảng 4.000 dặm là đường hương lộ.
Đường sắt: năm 1955 giao thông đường sắt cũng được sửa chữa và canh tân. Tới 1959 toàn hệ thống bao gồm 870 dặm, gồm một tuyến đường chính chạy từ Sàigòn đến Đông Hà, nối kết toàn bộ các tỉnh dọc miền duyên hải (nhiều khúc bị cắt đứt trong 12 năm chiến tranh).
Một chi nhánh đường sắt (có móc để leo đồi) đi từ Phan Rang lên Đà Lạt, và một chặng nối với mỏ than Nông Sơn. Một khúc ngắn về phía đông bắc, đi từ Sàigòn tới Lộc Ninh.
Hàng không: hãng Hàng không Quốc gia Việt Nam - Air Vietnam - được thành lập lúc đầu để bay trong nước. Ngoài phi trường Tân Sơn Nhất, các phi trường được sửa chữa lại và xây dựng thêm gồm Huế, Đà Nẵng, Nha trang, Qui Nhơn, Biên Hòa, Đà Lạt, Ban mê Thuột, Pleiku, Hải Ninh, Cần Thơ, Phú quốc.
Từ nội địa, Air Vietnam bắt đầu bay tới Phnom Penh, Siem Reap, Bangkok, Vientianne và Savannakhet. Đường quốc tế phần lớn được đảm nhiệm bởi các hãng Air France, Pan American, World Airways, British Airways, Royal Dutch, Cathay Pacific và Thai Airways.

Ngân hàng và tiền tệ

Thiết lập được một ngân hàng trung ương và một hệ thống ngân hàng thương mại để thay thế cho Banque de L'Indochine và các ngân hàng thương mại Pháp ở Sài Gòn là một thành quả lớn của thời đệ Nhất Cộng Hòa.
Ngay từ tháng 1/1955, Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam được thành lập để phát hành đồng tiền Việt Nam và thực hiện các nghiệp vụ của một ngân hàng trung ương tân tiến.

Giáo dục và đào tạo

SaigonImage copyrightGETTY IMAGES
Xét đến cùng, con người vẫn là yếu tố quan trọng nhất trong việc phát triển kinh tế lâu dài. Trong thời kỳ 1955-1960, Miền Nam đã phát triển giáo dục rất nhanh.
Tiểu học: 1960, đã có tới 4.266 trường tiểu học công và 325 trường tiểu học tư thục. Tổng số học trò lên tới gần 1.200.000.
Trung học: các trường trung học công lập tăng từ 29 lên 101 trường. Nguyên trường Gia Long: số học sinh đã tăng từ 1.200 lên tới 5.000.
Đại học: trước năm 1954, Miền Nam không có đại học. Muốn học cử nhân phải ra Hà Nội. Năm 1955, chính thức thành lập đại học Sài Gòn, rồi tới Đại học Huế, Đà Lạt. Tới năm 1962 tổng số sinh viên lên tới 12.000.
Xem như vậy, thành quả của "Năm Năm Vàng Son 1955-1960" là thời gian quý hóa nhất của lịch sử Cộng Hòa Việt Nam.
Ngày Quốc Khánh 26/10/1960 Tổng thống Eisenhower viết cho TT Diệm:
"Kính thưa Tổng Thống,
Trong năm năm ngắn ngủi kể từ khi thành lập nước Cộng hòa, nhân dân Miền Nam đã phát triển đất nước của mình trong hầu hết các lĩnh vực. Tôi đặc biệt ấn tượng bởi một thí dụ. Tôi được thông báo rằng năm ngoái hơn 1.200.000 trẻ em Việt Nam đã có thể đi học trường tiểu học, như vậy là nhiều hơn gấp ba lần so với năm năm trước đó. Điều này chắc chắn là một yếu tố hết sức thuận lợi cho tương lai của Việt Nam. Đồng thời khả năng của Việt Nam để tự bảo vệ chống lại cộng sản đã lớn mạnh một cách không thể đo lường được kể từ khi họ tranh đấu hữu hiệu để trở thành một nước Cộng Hòa độc lập."
Hòa bình là một điều kiện tiên quyết cho xây dựng và phát triển.
Nhân dân Miền Nam đã có được năm năm vàng son để làm ăn, sinh sống trong hoàn cảnh tương đối là thanh bình. Tuy còn nghèo nhưng mỗi ngày lại thêm một bước tiến.
SaigonImage copyrightFORUM TRUNG TAM ASIA
Bao nhiêu độc giả cao niên còn nhớ lại những kỷ niệm êm đềm về thời gian ấy. Thí dụ bạn có thể đi bất cứ nơi nào một cách tự do từ Cà Mau ra tới tận Đông Hà. Mờ sáng lên xe buýt ra Vũng Tầu tắm biển hay buổi chiều đến ga xe lửa gần chợ Bến Thành mua vé đi Đà Lạt.
Chỉ trong chốc lát, con tầu bắt đầu phun khói, còi tầu rít lên trước khi khởi hành. Khi mặt trời hé rạng thì tầu chạy ngang bờ biển cát trắng Phan Rang, rẽ trái rồi ỳ ạch leo tuyến đường sắt có móc để trèo dốc lên Đà Lạt. Cái thú vui khi rời ga Đà Lạt (đẹp nhất Đông Nam Á) để mau tới "Café Tùng" hay "Phở Bằng" thưởng thức một ly cà phê sữa nóng thì khó có thể diễn tả được.
Với sự thông minh, cần cù của người dân Việt thì chỉ cần có hòa bình là tiến bộ trông thấy. Người dân lam lũ vất vả nhưng luôn vui với cuộc sống. Người nông phu không quản ngại thức khuya, dậy sớm để cầy sâu cuốc bẫm, chờ đợi cho tới ngày lúa vàng.
Tâm tư ấy luôn được phản ảnh trong thơ văn, âm nhạc Miền Nam trong thời gian này. Và khi thanh bình, con người lại đối xử với nhau cho hài hòa thì mọi việc - dù là tát cạn cả Biển Đông - cũng đều có thể ước mơ.
Tuy các kết quả phát triển kinh tế xã hội thời đó thật là nhỏ nhoi theo tiêu chuẩn ngày nay, nhưng là rất đáng kể so với các nước láng giềng lúc ấy như ngay cả Nam Hàn dưới thời Tổng thống Lý Thừa Vãn.
Miền Nam thực sự đã đặt được những viên gạch đầu tiên trong các năm 1955-1960 cho mô hình phát triển sau này của Nam Hàn dưới thời Tổng thống Phác Chính Hy. Xây dựng và phát triển trong hòa bình đã đưa Miền Nam tới chỗ vươn lên - kinh tế học gọi là điểm cất cánh (take-offĐ để trở thành một cường quốc tại Đông Nam Á.
Buổi bình minh của Nền Cộng Hòa ("The First Day") thật là huy hoàng rực rỡ. Nhiều quan sát viên ngoại quốc cho rằng đây chính là "một cuộc cách mạng đã bị mất đi" (the lost revolution) của Miền Nam Việt Nam.
Bài viết của Giáo sư Tiến sỹ Nguyễn Tiến Hưng, trích dẫn từ cuốn sách 'Khi Đồng Minh Nhảy Vào' mới xuất bản tại Hoa Kỳ. Sinh năm 1935 ở Thanh Hóa, tác giả từng giữ chức Tổng trưởng Kế hoạch của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa kiêm cố vấn của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trước 1975 ở Sài Gòn. Hiện ông định cư tại Hoa Kỳ. Ông là tác giả cuốnKhi Đồng minh Tháo chạy vàlà đồng tác giả cuốn The Palace Files- Hồ sơ Dinh Độc Lập, viết cùng Jerrold L. Schecter bằng tiếng Anh.

Nợ công Việt Nam: ‘Vẫn loay hoay đổ lỗi’

Theo BBC-9 giờ trước 

2001, nợ công mới chỉ chiếm 36,5% GDP; năm 2005, tỷ lệ này đã lên 40,8% GDP; năm 2010 là 50% GDP và năm 2015 đã là 62,2% GDP.Image copyrightREUTERS
Image caption2001, nợ công mới chỉ chiếm 36,5% GDP; năm 2005, tỷ lệ này đã lên 40,8% GDP; năm 2010 là 50% GDP và năm 2015 đã là 62,2% GDP.
Nợ công là một trong những chủ đề được bàn tới tại kế hoạch tài chính 5 năm do Bộ trưởng Tài chính Việt Nam trình bày tại Quốc hội hôm 1/11.
Ông Đinh Tiến Dũng được truyền thông trong nước dẫn lời nói rằng vấn đề "trước hết do tăng trưởng kinh tế không đạt theo kế hoạch."
Ông Dũng nói về điều ông gọi là giá trị tuyệt đối của GDP cũng không đạt như dự toán và là yếu tố quan trọng làm cho tỷ lệ nợ công/GDP tăng.
Theo ông Dũng hoạt động tái cơ cấu nền kinh tế (đầu tư công, ngân hàng, doanh nghiệp nhà nước, nông nghiệp) không đạt yêu cầu.
Trả lời phỏng vấn với BBC tiếng Việt hôm 01/11, PGS.TS Phạm Thế Anh, Trưởng bộ môn Kinh tế vĩ mô, Trưởng Đại học Kinh tế Quốc dân nói ông nghĩ rằng người ta vẫn chưa nhìn thẳng vào bản chất của vấn đề nợ công ở Việt Nam.
"Người ta vẫn loay hoay đổ lỗi cho tăng trưởng kinh tế thấp dẫn đến nợ công tăng cao.
"Theo tôi hoàn toàn không phải là như thế. Cốt lõi vấn đề nợ công Việt Nam hiện nay là việc tăng chi quá nhanh, mà ở đây là tăng chi thường xuyên. Chi cho bộ máy hành chính, chi cho đoàn thể quá lớn.
"Cấp trung ương hô hào cắt giảm chi thường xuyên, thu gọn bộ máy nhưng thực tế là bộ máy lại càng ngày càng phình to ra. Số thứ trưởng, vụ trưởng vụ phó ngày càng nhiều lên và có xu hướng ngày càng thành lập thêm các cơ quan mới, với việc bổ nhiệm nhân sự mới.
"Kỷ luật ngân sách ngày càng bị phá vỡ và các cơ chế về ngân sách hiện nay làm cho các địa phương ngày càng muốn chi nhiều để giành được miếng bánh ngân sách càng lớn thay vì ‎tự cắt giảm.
"Những chi phí tốn kém có thể nói tới là xây dựng tượng đài, công viên, bảo tàng lãng phí hàng trăm, hàng nghìn tỉ đồng mà các địa phương đua nhau xin ngân sách trung ương," PGS.TS Phạm Thế Anh nói.

'Xin Cho'

Kinh tế Việt Nam tăng trưởng chậm hơn so với các năm trướcImage copyrightREUTERS
Image captionKinh tế Việt Nam tăng trưởng chậm hơn so với các năm trước
Theo ông, thực sự là việc phân bổ ngân sách cho các ngành các bộ thì đó lại không phải là vai trò của Bộ Tài chính.
"Bộ Tài chính chỉ là nơi tham mưu như các bộ ngành khác và có chức năng tổng hợp thông tin là nhiều. Và qui trình phân bổ ngân sách như ngày này hay địa phương kia được bao nhiêu là rất phức tạp và trải qua rất nhiều khâu. Chỉ tiêu phân bổ ngân sách không minh bạch.
"Từ dự toán cấp địa phương, trình chính phủ rồi Bộ Tài chính thẩm định, rồi thảo luận với Bộ Kế Hoạch và Đầu tư rồi đưa trình Quốc hội, trình Ủy ban Ngân sách và con số mỗi nơi được bao nhiêu là nó chưa được minh bạch và chưa dựa trên cơ sở vững chắc nào và vẫn nặng do cơ chế "xin cho".
"Ông tỉnh thuyết phục được tôi thì tôi cấp cho ông và cơ chế xin cho dễ nảy sinh tham nhũng," PGS.TS Phạm Thế Anh nói thêm.
Ông cho rằng bất kể trần nợ công là bao nhiêu chăng nữa thì với mức độ tăng về thâm hụt ngân sách cũng như nợ công tăng trong những năm vừa qua thì sớm muộn các mức cảnh báo đó hay trần đó sẽ bị phá vỡ. Chẳng hạn dư nợ chính phủ là 53.1% GDP, vượt mức trần đưa ra là 50% GDP. Tức là đã phá ngưỡng đưa ra.
Tiến sỹ Nguyễn Đức Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) cũng chia sẻ về quan ngại nợ công tại Việt Nam là do mức chi thường xuyên ngày càng bành trướng .
"Việt Nam vẫn ở trong trạng thái này nhiều năm nay rồi, nó là kinh niên rồi.
"Giải pháp là phải kiểm soát được ngân sách, phải đưa thâm hụt ngân sách về con số nhỏ và tiến tới việc cân bằng được ngân sách, hoặc nếu thâm hụt thì cũng chỉ thâm hụt dưới 3% GDP thôi.
Người ta kỳ vọng Hiệp định TPP đem lại nhiều cơ hội cho Việt NamImage copyrightGETTY IMAGES
Image captionNgười ta kỳ vọng Hiệp định TPP đem lại nhiều cơ hội cho Việt Nam
"Thế nhưng để kiểm soát được ngân sách thì đó là cả một câu chuyện mà ai cũng biết. Đó là câu chuyện mang tính chất chính trị và mô hình về tài chính công và tăng trưởng hiện nay.
"Mô hình phát triển kinh tế, mô hình ra quyết định, mô hình nhà nước…đều là không hiệu quả trong việc kiểm soát tất cả mọi thứ chứ không chỉ có vấn đề về kiểm soát ngân sách.
"Thì đó là cái thất bại của chúng ta trong việc có được sự kiểm soát về những cái này và nhiều việc khác trong xã hội.
"Hệ quả của việc chúng ta có mô hình kém tất yếu dẫn tới không kiểm soát được nợ công," Tiến sỹ Thành, tác giả của nhiều công trình nghiên cứu về kinh tế học, chủ biên của chuỗi Báo cáo Thường niên Kinh tế Việt Nam, nói với BBC.