Friday, March 6, 2015

Cộng sản đã huỷ hoại con người Việt Nam như thế nào?


Người Quan Sát (Danlambao) - Kể từ sau thành tích “cướp chính quyền” từ Cách mạng tháng Tám 1945, Cộng sản Việt Nam đã hủy hoại gần hết các đức tính tốt đẹp của người Việt Nam ở miền Bắc. Chủ trương xây dựng con người mới Xã hội Chủ nghĩa, cùng với hệ thống giáo dục tẩy não, nhồi sọ đã khiến văn hóa miền Bắc bị tàn phá. Các lễ hội cổ xúy bạo lực lên ngôi, tôn giáo bị lợi dụng để khiến con người mê muội… Tất cả những điều đó thể hiện rất rõ qua những ngày Tết âm lịch Ất Mùi.

Người Quan Sát mời các bạn trong thôn cùng điểm lại:

1. Lễ hội chém lợn ở Bắc Ninh:

(Nguồn : Internet)

Nhiều người vui vẻ nhúng tiền vào máu lợn với hy vọng cầu may:
(Nguồn : Internet)

2. Lễ hội Cầu Trâu (xã Hương Nham, Tam Nông, Phú Thọ): 



12 thanh niên trai tráng được chọn, sẽ thay nhau cầm búa đập vào đầu con trâu còn sống, được cột chặt ở sân, cho đến khi nó chết. Đám đông xung quanh reo hò phấn khích và cho rằng mỗi khi bị đánh đau, nếu con trâu quay về hướng nào thì nơi đó sẽ gặp may mắn.

3. Lễ hội cướp phết (Tam Nông, Phú Thọ) : Hàng ngàn thanh niên sẵn sang ẩu đả với nhau để tranh cướp một quả phết với hy vọng lấy may. (Nguồn: VNExpress) 






4. Cướp ấn đền Trần (Nam Định)



Những lễ hội dã man ấy còn tồn tại được đến nay bởi lãnh đạo Cộng sản cho rằng đó là truyền thống cần phải giữ lấy, là văn hóa.


Theo TS Trần Đức Anh Sơn: “những ứng xử kém văn hóa, lệch lạc, những hành vi côn đồ diễn ra trong nhiều lễ hội ở ngoài Bắc thời gian qua là hệ quả của chính sách đối với văn hóa dân tộc mà chính quyền đã áp dụng trong suốt mấy chục năm qua. Những lễ hội truyền thống có lịch sử cả ngàn năm đã từng bị chính quyền miền Bắc trước đây “nhốt chung” vào cái “rọ” hũ tục phong kiến nên bị cấm đoán, thậm chí bị bài trừ triệt để và thay thế bằng một thứ văn hóa ngoại lai mang đậm màu sắc ý thức hệ. Do vậy mà mạch nguồn văn hóa truyền thống đã bị đứt gãy trong suốt mấy chục năm. Những thế hệ tiền bối không có cơ hội trao truyền tinh hoa văn hóa của cha ông cho hậu bối. Còn các lớp hậu bối thì không biết rõ mục đích, ý nghĩa, giá trị thực sự của lễ hội, của văn hóa truyền thống vì họ không còn cơ hội để tiếp nhận, tham gia và thực hành lễ hội.

Thế rồi, khi chính quyền cho phép những lễ hội này “sống lại” thì những thế hệ am tường gốc tích, ý nghĩa, giá trị của lễ hội truyền thống hầu như đã vắng bóng. Thay vào đó là một lớp hậu sinh vừa thiếu hiểu biết về lễ hội, về văn hóa truyền thống của làng, của nước; lại vừa “tinh nhạy” với những “lợi lộc” mà lễ hội có thể mang lại, nên đã phục hồi lễ hội một cách ồ ạt và hăng hái sáng tạo, bày vẽ thêm những cái mới để trục lợi khiến cho lễ hội bị biến tướng, lệch lạc. Đã thế nhiều vị lãnh đạo các cấp lại “xênh xang áo mão” tham gia, cổ xuý cho những lễ hội biến tướng, lệch lạc ấy nên sự thể càng ngày càng bi đát." (*)

Tội ác của Cộng sản đối với dân tộc này ngày một dày hơn.



Biển lửa bao trùm công ty giày Hàn Quốc

Theo vnexpress-thứ bảy, 7/3/2015 | 01:04
Hàng trăm cảnh sát chữa cháy TP HCM và Bình Dương được huy động khi hoả hoạn bao trùm công ty Việt Nam SamHo ở huyện Củ Chi, TP HCM.

Biển lửa bao trùm hàng nghìn mét vuông của nhà xưởng. Ảnh: An Nhơn
Biển lửa bao trùm hàng nghìn mét vuông của nhà xưởng. Ảnh: An Nhơn

Khoảng 20h30, khi các công nhân đã về, lửa bùng lên tại cuối dãy nhà A công ty Việt Nam SamHo ở tỉnh lộ 8, xã Trung An, huyện Củ Chi. Nhiều vật tư sản xuất giày như vải, da, mút… bị cháy khiến lửa lan nhanh, lực lượng tại chỗ không thể đối phó.

Dãy nhà một trệt, một lầu rộng hàng nghìn m2 nhanh chóng bị nhấn chìm trong biển lửa. Nhiều tiếng nổ liên tiếp vang lên khiến công nhân làm ở các dãy nhà khác và người dân xung quanh hoảng loạn. Sau mỗi tiếng nổ, lửa lại bùng lên như pháo hoa.

Nhà xưởng rộng hàng nghìn m2 sập độ hoàn toàn. Ảnh: An Nhơn
Nhà xưởng rộng hàng nghìn m2 sập độ hoàn toàn. Ảnh: An Nhơn
Cả trăm cảnh sát cùng hàng chục xe cứu hỏa được huy động. Tuyến đường tỉnh lộ 8 được phong tỏa cách hiện trường cả km để phục vụ công tác chữa cháy. Lửa vẫn tiếp tục lan rộng khiến việc tiếp cận hiện trường gặp nhiều khó khăn.

Đến 23h30, đám cháy đã khiến toàn bộ dãy nhà sập hoàn toàn.

Cảnh sát chữa cháy Bình Dương được chi viện. Các xe chữa cháy liên tục ra vào công ty. Cảnh sát cứu hộ, xe cứu thương cũng được điều đến hiện trường.

Hàng trăm công nhân công ty đang theo dõi vụ cháy. Ảnh: An Nhơn
Hàng trăm công nhân công ty đang theo dõi vụ cháy. Ảnh: An Nhơn

Đến 1h sáng 7/3, hàng trăm cảnh sát vẫn nỗ lực khống chế đám cháy.

Công ty Việt Nam SamHo chuyên sản xuất giày thể thao, 100% vốn Hàn Quốc với hơn 10.000 lao động.

An Nhơn

Trận đánh cuối cùng của một Đại úy Bộ binh VNCH

Hòa Ái, phóng viên RFA
2015-03-06
000_ARP1957339.jpg
Một người lính VNCH dìu một người bị thương ở huyện Trảng Bàng, Tây Ninh hôm 27/1/1973. AFP photo

Các trận đánh cuối cùng của những người lính thuộc Quân lực VNCH trước khi có lệnh buông súng vào ngày 30/4/1975 luôn ám ảnh những cựu quân nhân trong suốt 40 năm qua. Sau đây là hồi ức về 1 trận đánh ở chiến trường Quận Tân Uyên, phía Nam chiến khu D của cựu Đại úy Bộ binh Nguyễn Văn Thanh mà ông cho rằng sẽ không bao giờ quên cho đến ngày nhắm mắt. Bắt đầu cuộc trò chuyện với Hòa Ái, ông Nguyễn Văn Thanh chia sẻ:

Với tôi là 1 quân nhân đã tham gia nhiều chiến trường nhưng với trận đánh này vẫn nằm trong tâm khảm của tôi suốt 40 năm qua. Khía cạnh tôi muốn nói ngày hôm nay không phải ở phương diện giao tranh với súng đạn mà là sự gắn kết giữa người chỉ huy với những người lính thuộc quyền trong những giờ phút thật là đặc biệt, tức là hơn 10 tiếng đồng hồ nữa là chấm dứt một cuộc chiến tranh tương tàn giữa Nam và Bắc.

Hòa Ái: Thưa ông, với cấp bậc Đại úy trong vai trò của người chỉ huy, ông đã nhận lệnh hành quân trong trận đánh mà ông cho là cuối cùng của mình với tâm trạng như thế nào?

Cựu Đại úy Nguyễn Văn Thanh: Vào thời điểm đó, ngày 28/4 là ngày rất đặc biệt. Chiều hôm đó có 1 sự kiện lớn xảy ra, phi công Nguyễn Thành Trung trở về oanh kích Tân Sơn Nhất. Và đêm hôm đó diễn ra bàn giao chức vụ tổng thống giữa Tổng thống 7 ngày là ông Trần Văn Hương với Đại tướng Dương Văn Minh. Sau khi làm lễ bàn giao xong, tôi thất vọng vô cùng, tâm trạng rất nặng nề. Lúc đó bao nhiêu đại đơn vị ở miền Bắc đã tràn về hướng Sài Gòn một cách hỗn loạn. Tâm trạng người lính như tôi trong một đơn vị nhỏ, thật rối bời.

Tôi nhớ vào khoảng 9-10 giờ đêm, tôi được lệnh hành quân khẩn cấp. Lệnh hành quân gồm có 2 đại đội phải đến giải tỏa 1 cái đồn để giúp cho địa phương bị Cộng quân tràn ngập buổi chiều. Tôi cầm lệnh hành quân thấy hơi kỳ lạ vì trong mục tình hình địch và tình hình yểm trợ của bạn một cách rất mơ hồ. Tình hình địch thay đổi từng ngày từng giờ, theo tôi biết ở chiến trường này giống như đẩy đơn vị tôi vào cái nơi mà chính tôi cũng không biết đi đâu.

Sau khi toán quân của tôi được mấy chiếc GMC chuyển tới thì tôi định được điểm đổ quân tốt nhất theo bản đồ là tại 1 ngôi chùa hoang cũ kỹ ở cuối làng. Nhìn trên bản đồ thì điểm chúng tôi sẽ phải đến còn cách khoảng chừng 3 cây số nhưng tôi nhìn trên thế địa hình thì gần như bằng phẳng, không có chỗ nào để ẩn nấp mà nếu tiến quân như vậy thì quá nguy hiểm. Tôi gọi về Bộ Chỉ huy hỏi pháo yểm và không yểm. Phòng 3 chỉ trả lời một cách ỡm ờ để báo cho tôi biết những đơn vị pháo của viện địa và sư đoàn nằm quanh đó và không yểm nằm bên phi trường Biên Hòa. Nhưng tôi biết phi trường Biên Hòa đã bắt đầu dời đi rồi, phi cơ đã bay đi gần hết thì tại sao phải nói với tôi như vậy? Là một quân nhân tôi không có quyền thắc mắc nhiều mà chỉ thi hành trước và khiếu nại sau.

Lúc đó trời tờ mờ sáng, chúng tôi vừa bước ra khỏi ngôi đền làng, có thể nói một loạt đầu tiên khoảng từ 20 đến 25 quả đạn pháo 82 bắn vào phía chúng tôi. Chỉ vài người bị thương nhẹ, còn riêng nằm cách tôi chừng mười mấy thước, 1 anh chàng tân binh, mới vừa trình diện đơn vị 3 ngày bị thương, đang cắn răng chịu và rên ‘em đau quá’. Tôi nhìn thì không thấy vết thương nào trầm trọng, nhiều lắm là trúng miểng vì thân thể vẫn lành lặn. Người bị thương đầu tiên này tôi đến hỏi thăm cũng là người chết đầu tiên. Sau khi tôi trở lại thì em này đã chết khô cứng rồi.
"Nhưng gần đây tôi có nghe câu nói của ông Điếu Cày rằng ‘trong cuộc chiến này không có kẻ bại và người thắng mà chỉ có một người bại duy nhất là bà mẹ VN’. Tôi nghĩ đó là câu đúng nhất. "- Cựu Đại úy Nguyễn Văn Thanh
Hòa Ái: Và ông quyết định tiến về phía trước trong khi ông có linh cảm là cả đại đội của mình sẽ phải chiến đấu khi không có sự yểm trợ nào hết hay sao?

Cựu Đại úy Nguyễn Văn Thanh: Khi tới chỗ cần tiến sát mục tiêu, đặt ống dòm lên thì tôi thấy tình hình này quá nguy hiểm. Trong lệnh hành quân không cho tôi biết một tin tức gì, chỉ nói là 1 đơn vị lớn nhưng tôi không biết lớn bao nhiêu. Một cuộc hành quân lạ lùng, có vẻ chắp vá một cái gì đó! Cách tôi chừng 200 thước có 1 cái đồi rất cao. Theo kinh nghiệm tôi biết hễ ai nắm cái đồi đó thì ngự trị hết vùng và tôi biết chắc chắn Cộng quân đang chiếm ngữ trên ngọn đồi cao đó. Hóa ra là họ đã chờ chúng tôi ở đó, bắn ra gồm có đại liên, B40 với cái thế chúng tôi tiến 1 bước cũng là bia sống để bị bắn, không thế nào chúng tôi lên được, coi như chúng tôi bị lọt vào 1 thế trận đã gài sẵn. Tôi gọi về Bộ Chỉ huy nói rằng nếu không có pháo binh và không quân dập mục tiêu thì đừng bao giờ kêu tôi vô vì tôi phải bảo vệ lực lượng của tôi. Ở trên nói yên tâm và nằm tại chổ để gọi các đơn vị pháo xung quanh bắn yểm trợ. Tôi ngồi đợi 30 phút, chỉ nghe tiếng pháo và tiếng súng của địch thôi, không nghe tiếng gì khác hết. Khoảng vào 2 giờ chiều, địch quân bắt đầu mở cuộc tấn công chúng tôi, chúng tôi cầm cự vừa lùi vừa bắn. Trên đường rút chúng tôi bị một loạt nặng nhất vào khỏang 40-50 trái pháo.

Lúc đó tôi chỉ còn nghĩ làm sao bảo vệ đàn em mình. Tôi cũng không thể nào mang được một cái xác nào của những người lính ra khỏi vùng họ đã ngã xuống. Khi ra được tới bờ suối, tôi nhìn đàn quân nhếch nhác còn lại mà buồn không thể tưởng. Nếu tôi nhớ không lầm vào khoảng 5:30 giờ chiều, nhìn mờ mịt xa xa là cái gò mả nơi tôi bỏ lại 7 người nằm tại đó và người đầu tiên tôi đề cập là 8 người. Tôi cho tập hợp tất cả, nói với anh em rằng ‘trận đánh coi như đã kết thúc nên tôi ra lệnh cho anh em tuyên bố tan hàng, chia tay với anh em từ đây’.

Hòa Ái: Sau khi tuyên bố giải tán rồi thì điều gì xảy ra, thưa ông?

Cựu Đại úy Nguyễn Văn Thanh: Câu chuyện không đơn giản chúng tôi giải tán là xong. Điều này chỉ có anh em nào từng ở trong quân đội mới chia sẻ tinh thần và trách nhiệm của người lính VNCH cao lắm. Khi đó tôi không dám nhìn anh em, anh em đứng ngơ ngác giống như bầy gà con đang lạc mẹ.

Tôi khoát tay, lắc đầu, nói ‘ thôi, anh em đi đi. Tại vì bây giờ chúng ta càng đi đông càng nguy hiểm, cứ nên phân tán mỏng ra và làm theo ý của mình’. Thế rồi tôi xách súng đi với 3 người từng chết sống với tôi trong nhiều năm. Tôi cứ nhắm về hướng Nam để đi. Tôi không ngờ được sau khi tuyên bố giải tán, đi khoảng 30 phút thì tôi thấy 5 người chạy theo tôi, lên được 8-9 người. Đi một hồi nữa thì có 5-6 người chạy theo nữa. Khi trời mờ mờ gần tối khi tôi ngoảnh nhìn lại thì có tất cả khoảng 20 người theo tôi.

Người nào người nấy cười không cười, khóc không khóc mà làm như họ sắp mất một cái gì lớn lắm. Tâm trạng của họ giống như những đứa con trong gia đình sắp xa nhau. Tôi cảm động vô cùng với tinh thần này. Đêm đó chúng tôi về đến xóm thì tình hình rất nguy hiểm với đầy du kích. Chúng tôi đã cởi áo lính, chỉ mặc áo thun. Chúng tôi vẫn còn súng đạn như thường và chúng tôi đã quăng súng xuống suối hết, đi tay không. Lúc đó tôi không còn nghĩ đến tôi và anh em nhiều mà tôi chỉ nghĩ đến 8 người bạn của tôi đã nằm ở lại. Tôi mong rằng đừng ai bị thương nặng sẽ đau đớn cho họ, nếu có chết thì được chết một cách nhanh hơn.

Cho đến sáng ngày 30/4 hôm sau, tôi đau đớn vô cùng vào khỏang 11-12 giờ khi biết được tin Tổng thống Dương Văn Minh đầu hàng và buông súng. Tôi ngồi tính lại đã để tổn thất 8 anh em và 3 người bị thương nặng trong hơn 10 tiếng đồng hồ. Tôi mang mặc cảm với tội với gia đình của họ quá lớn. Tôi không hiểu tôi đã làm súng hay sai và gia đình họ sẽ nói sao khi họ nói rằng tại sao đưa người thân của họ vào sự sống chết trong khi chỉ còn 10 tiếng đồng hồ ngưng bắn.

Hẳn nhiên là mình tự trách mình nhiều hơn chứ tôi nghĩ nếu lịch sử lặp lại thì chưa chắc gì tôi làm khác được. Nhưng có điều tôi rất thương mến tinh thần vào giờ chót anh em vẫn đi chung với nhau. Và tới sau 3 giờ chiều ngày hôm đó, chúng tôi ra đường và anh em chúng tôi bị bắt trọn.

Hòa Ái: Kể từ khi bị bắt và bị đi tù trong các trại tập trung cải tạo và thời gian sau khi được trở lại với xã hội, có bao giờ ông gặp lại những người đồng đội của mình và có ai trách cứ ông điều gì không?

Cựu Đại úy Nguyễn Văn Thanh: Cô hỏi câu này làm cho tôi cảm động hơn vì tôi còn mang mặc cảm tội lỗi rất lớn. Trong những ngày bị tù đày, họ không ở tù chung vì họ không cùng cấp và chức với tôi. Tôi ra tù trong hoàn cảnh phải bỏ xứ ra đi vượt biên tới Mỹ nên tôi không có cơ hội nào để gặp ai hết. Tôi vẫn mơ ước được gặp lại một trong những người đó. Mãi hơn 20 năm sau có dịp trở về, tôi có nói ưu tư của tôi nhưng họ nói ‘anh yên tâm, không ai trách anh một tiếng nào’. Họ chỉ nhắc lại kỷ niệm đẹp trong đời quân ngũ mà thôi. Và họ rất hãnh diện đã từng cầm súng trong danh xưng là chiến sĩ của VNCH.
"Mãi hơn 20 năm sau có dịp trở về, tôi có nói ưu tư của tôi nhưng họ nói ‘anh yên tâm, không ai trách anh một tiếng nào’. Họ chỉ nhắc lại kỷ niệm đẹp trong đời quân ngũ mà thôi. Và họ rất hãnh diện đã từng cầm súng trong danh xưng là chiến sĩ của VNCH. "- Cựu Đại úy Nguyễn Văn Thanh
Hòa Ái: Trong hồi ức cuộc đời binh nghiệp của mình, ông có bao giờ nhớ đến những người lính bên kia chiến tuyến mà ông từng đối đầu hay từng gặp gỡ không?

Cựu Đại úy Nguyễn Văn Thanh: Trong suốt cuộc đời binh nghiệp của tôi, tôi đã gặp rất nhiều tù binh. Một trong những người tù binh mà tôi nhớ nhất là khoảng năm 1970, một anh tù binh khoảng chừng 16 tuổi, trẻ măng, nước da xanh nhợt. Ban đầu anh này không nói chuyện, và khi nói thì nói với giọng như chửi bới ‘tụi bay là quân Mỹ Ngụy’. Sau khi ăn xong, tôi cho anh này hút điều thuốc và ngồi nói chuyện vài ba tiếng đồng hồ sau thì con người thật của họ mới từ từ nói ra. Anh này nói ‘ở ngoài đó nếu chúng tôi không đi bộ đội thì chúng tôi bị cắt phiếu gạo’.

Khi đó, tôi cũng không biết ‘cắt phiếu gạo’ là gì, chế độ tem phiếu tôi đâu có biết. Qua ngày hôm sau thì thái độ của anh này khác hẳn. Hình ảnh đó tạo cho tôi thấy hình ảnh người chiến binh Cộng sản lúc đó họ là em tôi chứ không phải là kẻ thù vì con người thật của họ cũng là con người có tình cảm, có gia đình, có người yêu, có cuộc sống. Với tôi hình ảnh người chiến binh (bên kia chiến tuyến) không phải là hình ảnh dữ dằn nhưng tại sao họ hiện diện trong miền Nam để gây cuộc tương tàn? Câu hỏi đó là câu trả lời cho tất cả mọi người.

Hòa Ái: Và nếu như được có cơ hội được chia sẻ với thế hệ trẻ sau chiến tranh thì ông sẽ nói gì?

Cựu Đại úy Nguyễn Văn Thanh: Với tôi thì cuộc chiến VN nên nhìn một cách nhân bản chút xíu. Sự thật trong Quân lực VNCH họ có lý tưởng rất lớn. Lý tưởng đó là chúng tôi cầm súng để bảo vệ trong một cuộc chiến tranh tự vệ. Tôi biết họ là người xâm lược vì họ đã vượt tuyến qua. Nhưng gần đây tôi có nghe câu nói của ông Điếu Cày rằng ‘trong cuộc chiến này không có kẻ bại và người thắng mà chỉ có một người bại duy nhất là bà mẹ VN’. Tôi nghĩ đó là câu đúng nhất.

Những người anh em bộ đội miền Bắc nói cho cùng cũng là người bị đưa vào chiến trường chứ họ cũng không biết gì hết. Thành ra tôi thấy cuộc chiến tranh gọi là tương tàn Nam Bắc đã tiêu đi gần 5 triệu con người thật là oan uổng. Và hơn nữa, nhìn lại đất nước ngày hôm nay, tôi thất vọng vì bao nhiêu tài vật và sinh mạng đã đổ ra mà hôm nay kết quả của đất nước không ra gì. Tôi mong rằng có một sự chuyển đổi-‘chuyển đổi mềm’ vừa tiết kiệm xương máu mà Nhân dân VN có 1 ngày tươi sáng hơn. Mong ước của tôi là tuổi trẻ phải biết được làm sao hướng về Tổ quốc VN phải có Tự do-Độc lập-Nhân quyền một cách thật sự nhưng không kinh qua một giọt máu và cuộc chiến tranh nào hết.

Hòa Ái: Xin chân thành cảm ơn thời gian chia sẻ của ông Nguyễn Văn Thanh với thính giả của đài ACTD.
http://www.rfa.org/vietnamese/SpecialTopic/40years-april30/the-last-battle-of-an-arvn-infantry-captain-03062015130329.html/03062015-kyuc40nam-hoaai.mp3

Những ngày cuối cùng của Huế và Đà Nẵng

Phóng sự hồi ký của Lê Hùng
2015-03-04
3308023019_a7e1853730-600.jpg
Một tàu đổ bộ của Hải quân Việt Nam chất đầy người tị nạn từ Huế, ghé Đà Nẵng hôm 24/3/1975. Courtesy of Bettmann/CORBIS

Ngay sau khi CS cướp được Huế và Đà Nẵng ngày 29 tháng 3 năm 1975. Ngày 5 tháng 4 năm 1975 họ đã tập trung tất cả số sĩ quan QLVNCH còn kẹt lại tại Đà Nẵng và đưa đi gọi là “tập trung cải tạo” bắt đầu cho những năm tháng đọa đày triền miên sau này.

Vào những ngày đầu tiên gặp nhau trong chốn tù ấy, tôi đã có dịp ghi lại những lời kể của các sĩ quan từ Huế, trên đường chạy vào Đà Nẵng và một số hình ảnh do chính tôi chứng kiến và nghe được.

Những sự kiện đã xảy ra, qua lời kể của những người bạn đồng tù và cũng là những nhân chứng sống này, tuy có đau lòng, đáng buồn, nếu không muốn nói là không nên kể lại, nhưng đây là những hình ảnh sống thực mang tính chất lịch sử của một thời.

Trên đường bỏ Huế

Ngày 23 tháng 3 năm 1975 Trung Đoàn 51BB còn đóng ở cây số 17 và các Trung đoàn khác vẫn còn tại các căn cứ đóng quân của mình, nhưng qua ngày 24-3 thì… mạnh ai nấy chạy! Chuẩn Tướng Điềm, Tư Lệnh SĐ1BB lên trực thăng bay vô Đà Nẵng nhưng chỉ đến Thừa Lưu, cách Dạ Lê, nơi BTL/SĐ1BB đóng khoảng 50Km thì trực thăng bị nạn cháy. Chuẩn Tướng Điềm thoát nạn và sau đó vào được ĐN ngày 25 tháng 3. Sự ra đi của Ch/T Điềm lúc đó đã làm cho các Trung đoàn trực thuộc SĐ1BB càng thêm giao động để rồi sau đó thì…mỗi người mỗi ngã!

Có Trung Đoàn khi về đến hậu cứ thì thấy vắng hoe, chứng tỏ rằng tuy chưa có lệnh nhưng các binh sĩ cũng đã tự động rời đơn vị trước.

Ngày 24-3-75 VC đánh Truồi, Đá Bạc, khiến cho số người (vừa lính vừa dân) chạy đến đây thêm rối loạn. Cũng ngày 24-3 Thiếu Tướng Lạc, TL phó QĐ1 dùng trực thăng bay ra Huế để quan sát tình hình. Khi đến Thừa Lưu, thấy binh lính bên dưới chạy hỗn loạn liền cho trực thăng đáp xuống và hỏi thuộc cấp là lệnh của ai cho rời đơn vị thì không ai trả lời được.

Số binh sĩ tại Huế và Thừa Thiên đã tìm mọi cách để chạy vào Đà Nẵng theo hai ngã: Thuận An và Vinh Lộc đã tìm cách thuê ghe, đò, gọ để vào Đà Nẵng. Trên đoạn đường này có một số chạy bộ dọc theo QL1 đến được đèo Phước Tượng và đèo Hải Vân. Dân chúng và quân lính chen nhau tìm đường thoát nạn không còn hàng ngũ, không còn trật tự. Thậm chí còn bắn nhau để dành đường.

Tại Phú Lương (gần Phú Bài) một Thiếu Úy thủ qũy đã bị 2 binh sĩ TQLC bắn chết ngay trên đường để lấy 2 triệu đồng. Trên đèo thì xe và người chen nhau chạy nên đã có một số người bị xe cán chết và lúc đó thì cũng không còn ai cứu cho ai nữa. Những tài xế xe đò lợi dụng tình hình để vét tiền của đồng bào. Một chuyến xe đò thuê bao từ Huế vào Đà Nẵng (110KM) đã từ 60 ngàn lên đến 200 ngàn!

Thuận An nổi sóng (Lời kể của một Tr/Úy thuộc TĐ1 PB/PK):

Chiều 24-3-75 TĐ 1 Pháo Binh Phòng Không đóng tại Phú Bài được lệnh rút bằng đường bộ để xuống cửa biển Thuận An vì lúc đó cầu Truồi đã bị sập, con đường từ Huế vào ĐN bị gián đoạn tại đó.

Đêm 24-3 hàng ngàn người ngược xuôi, gồng gánh, bế bồng trên đoạn đường cửa biển này. Trong đêm đó, không một ai đi được ngoại trừ một số người dùng súng đe doạ mấy chủ ghe để buộc họ chở ra tàu. Trước đó, những chủ ghe này cũng đã lợi dụng tình hình để đòi những giá cắt cổ để chở một người hay một toán ra tàu mặc dù đoạn đường (biển) rất ngắn.

Có những chiếc ghe mà ngày thường dân chài dùng để vừa đánh cá vừa để ở cho cả gia đình bị các toán lính buộc phải chở hàng mấy chục người nên ghe chỉ còn cách mặt nước chừng gang tay. Khi ra đến tàu thì mạnh ai nấy lên nên ghe nghiêng rồi lật chìm. Tất cả những người còn trên ghe đều chết trước những đợt sóng lớn của biển khơi. Có những người lội được nhưng khi bám vào mạn tàu thì lại bị mấy người trên tàu đạp xuống vì lúc đó tàu cũng đã quá tải rồi. Và cứ thế, thây người nổi đầy trên mặt biển đầy máu tại vùng Tân Mỹ, Thuận An.

Biển và Máu (Lời kể của Tr/Úy L. ĐĐ Tiếp Liệu, TĐ1 TV):

Ngày 24-3 được lệnh di tản, tôi cùng 5, 6 sĩ quan khác và nhân viên chạy trên một chiếc xe jeep về hướng Thuận An, nhưng giữa đường xe bị hư nên phải bỏ lại và đi bộ. Thế là bao nhiêu hành trang, thực phẩm mang theo đành bỏ lại hết. Đến gần cửa Thuận An trời đã chiều. Bỗng có một người mặc quân phục ra chận đường và chào rất lịch sự. Tôi tự hỏi sao giờ này lại còn có người lính nào đàng hoàng đến thế? Tôi chưa kịp chào lại vì còn đang phân vân thì người lính nọ đã nói với tôi: “Xin Tr/úy cho em cái đồng hồ!” Một thoáng ý nghĩ qua trong đầu tôi nên tôi liền lột đồng hồ đưa cho hắn. Xong hắn lại nói: “Tr/Úy có đôi giày đẹp qúa, xin Tr/Úy cho luôn”. Tôi cũng cởi đôi giày ra và trao cho hắn (có đồng bọn ngồi gần đó) hết những gì của chúng tôi mà hắn ưa thích.

Khi đến Thuận An và qua được bên kia cồn cát thì trời đã tối sẫm. Sáng ngày 25-3 chúng tôi thấy một chiếc tàu đậu ngoài khơi nhưng không có phương tiện bơi ra.

Chung quanh, trên bờ và cả dưới nước, hàng vạn người vừa dân vừa lính, đa số là TQLC, BĐQ, TG và SĐ1BB. Sau đó chúng tôi hùn tiền lại và thuê một chiếc ghe để ra tàu với giá một trăm ngàn đồng. Nhưng ghe đưa chúng tôi ra được nữa đường thì bị sóng xô lật úp. Tôi suýt chết, may nhờ các bạn vớt lên ghe và bơi ngược vào bờ. Thế là 100 ngàn mất toi mà không đi được đến đâu. Thất vọng và vì quá mệt nên tôi lên hẵn trên bờ ngồi nghỉ. Đến 3 giờ chiều thì có một chiếc tàu loại nhỏ (LST) cập bến.

Mọi người có mặt tại đó đều ào ào bơi ra, mặc dù tàu còn cách bờ một khoảng xa. Tất cả đã giành nhau, xô nhau, níu kéo nhau để lên cho được tàu, cố bám lấy vị cứu tinh vừa xuất hiện. Tôi cũng lên được nhưng sau đó, những người lính TQLC lại đuổi xuống. Họ nói chiếc tàu này là do họ độc quyền xin vào để chở TQLC mà thôi. Những người lính này đã dùng M16 để đuổi những người không phải là TQLC xuống. Nếu ai không xuống là bị bắn ngay tại chỗ. Một Trung tá BB đứng cạnh tôi bị một người lính tiến đến hỏi một cách xấc xược:

- Trung Tá thuộc binh chủng nào?

- Tôi thuộc Sư Đoàn 1 bộ binh.

- Yêu cầu trung tá xuống. Tàu này của chúng tôi!

Vị Trung tá bèn năn nỉ:

- Anh cho tôi đi kẻo tội.

- Tôi bảo xuống!

- Tội nghiệp tôi, anh. Cho tôi đi với. Vị trung tá năn nỉ một lần nữa.

Nhưng người cầm sung vẫn cương quyết:

- Tôi nói xuống, ông có xuống không?

Vị trung tá lắp bắp: “T.. ộ..i ngh..i.. ệ..p..” và chưa nói hết lời thì một phát đạn bắn ngay ngực và người Tr/tá rơi xuống biển, máu lênh láng, bềnh bồng…

Cứ thế, những người nào mà không phải binh chủng TQLC thì bị cho đếm 3 tiếng để nhảy xuống biển và sau 3 tiếng mà không nhảy thì bị bắn.

Tôi khiếp sợ trước cảnh đó nên không chờ đến khi người lính TQLC quay qua tôi, tôi liền nhảy nhào xuống biển.

Trên bờ, một Tr/tá BĐQ nhìn thấy cảnh một Tr/Tá BB bị bắn chết một cách thảm thương liền hô to một câu: “Biệt Động Quân”! Tức thì tất cả các quân nhân BĐQ có mặt lúc đó liền hô “SÁT” và nhảy lên mấy chiếc xe bọc thép M113 bắn xối xả vào tàu. Một quả M72 rồi 2, 3 quả khác được thụt trúng tàu. Chiếc tàu bốc cháy rồi chìm dần. Không một ai trên tàu còn sống. Trong chốc lát, mặt biển đầy xác người với máu và lửa…

Khi tôi tỉnh lại và nhìn quanh thì thật ghê sợ: Một thây người mất nửa cái đầu đang nằm bên tôi. Tôi sực nhớ ra lúc nãy khi còn bơi ra tàu, chính anh này đã bị cánh cửa tàu kẹp nghiến nát nửa cái đầu và có lẽ sóng đã tấp anh và tôi cùng vào một lúc. Cũng có anh bị cả 2 cái chân đứt hẳn ngay tại miệng tàu và chết chìm tại chỗ.

Không biết bao nhiêu cảnh ghê sợ hơn đã xảy ra tương tự như thế trên đường “di tản” trong những ngày đất nước sắp rơi vào tay bọn CS!

Đà Nẵng hỗn loạn

Trước cảnh hỗn loạn ngoài đường phố Đà Nẵng vì hàng trăm ngàn người đang hớt hải tìm đường lánh nạn thì trong thành phố cũng có khá nhiều đám đông, cả thường dân lẫn binh sĩ ào vào các cửa tiệm tại chợ Cồn, chợ Vườn Hoa, chợ Hàn trong những ngày 26, 27 và 28 tháng 3 năm 1975 để hôi của.

Xác chết của một số người nằm rải rác trên một vài con đường. Thành phố như chỗ không người, không luật pháp. Ai muốn làm gì thì làm. Lúc đầu còn có một vài chiếc Commando Car của Quân Trấn đi giữ an ninh nhưng rồi cũng không làm được gì trước sự hỗn loạn đó nên đành rút lui.

Tại bến tàu, những người tìm đường ra đi đã nóng vội bơi nhào ra sông khi tàu chưa kịp cập bến nên chết đuối khá nhiều.

Tàu lớn của Hải Quân thì lại đậu ngoài khơi nên muốn ra phải thuê ghe, gọ. Một chiếc gọ (ghe có gắn máy) chở một chuyến từ bờ ra tàu phải từ 20 ngàn đến 200 ngàn đồng. Có những chiếc chở ra gần đến tàu lại bị những người lính trên tàu bắn xuống bị thương và chết, lại chở trở vô bờ. Có những gia đình chồng đi được thì vợ bị kẹt lại với mấy đứa con hoặc có gia đình có 5 đứa con mới đưa lên tàu 3 đứa thì tàu chạy, còn mẹ và 2 con ở lại…

Tại phi trường Đà Nẵng, máy bay vừa đáp xuống, mặc dù chưa biết sẽ bay hay không, mọi người đã xô, đạp lên nhau, bắn nhau để tràn lên tàu. Máy bay bay không nổi, những người dân thường lại bị lôi xuống. Trong khi đó máy bay chạy trên phi đạo giữa hàng ngàn người khiến cho hàng chục người khác bị chết.

Có những người giàu mua vé máy bay Hàng Không VN với giá 100 ngàn rồi 200 ngàn hoặc một lạng vàng một vé, đến ngày lên phi trường thì máy bay lại không dám đáp xuống vì cảnh hỗn loạn bên dưới và vì VC đang pháo kích vào phi trường. Rốt cuộc tiền mất mà vẫn không đi được.

7 giờ 30 sáng ngày 28 tháng 3 một Đ/Úy chở gia đình trên một chiếc jeep vào phi trường. Quân Cảnh tại cổng chận lại xét hỏi. Vị Đ/Úy bèn cự nự và hai bên cãi nhau. Cuối cùng vị Đ/Úy kia bèn bắn chết một sĩ quan QC/KQ. Thế là phi trường đóng cửa từ đó và không một chiếc xe nào vào được sân bay.

Chiều ngày 28-3 tình hình tại BTL/QĐ1/QK1 số gia đình binh sĩ và sĩ quan nằm la liệt trong doanh trại Nguyễn Tri Phương để chờ đợi phương tiện đi vào Sài Gòn mà trước đó BTL/QĐ đã cho lập danh sách nhưng chờ đợi đã mấy ngày qua mà vẫn không có.

Cũng chiều  ngày 28-3 tình hình tại BTL/SĐ3BB (đóng tại Hoà Mỹ) vẫn “tỏ ra bình thường” nhưng vào nữa đêm, lúc 12 giờ 30 thì một chiếc trực thăng đáp xuống ngay tư dinh của Th/Tướng Nguyễn Duy Hinh, Tư Lệnh SĐ, và một lát sau bay vút lên không. Vì tư dinh cửa Th/Tướng Hinh nằm trên đồi cao và tiếng trực thăng lại nghe rất lớn trong đêm khuya nên mọi quân nhân có mặt trong đêm đó đều đoán biết được chuyện gì đang xãy ra nên chỉ một lát sau là hàng đoàn xe đủ loại bật đèn pha chạy ra khỏi căn cứ. Lúc đó không ai bảo ai, không lệnh lạc gì, mạnh ai nấy ra đi (như một cành cây đã có quá nhiều trái trĩu nặng, chỉ cần một cơn gió nhẹ là tất cả đều rơi hàng loạt xuống). Ai có phương tiện gì thi dùng phương tiện đó. Không có thì quá giang. Chỉ trong một lát, cả căn cứ Hoà Khánh bỗng vắng hoe! Cổng chính của Sư Đoàn hàng ngày quân cảnh soát rất kỹ nhưng lúc đó mở toang và không một người đứng gác.

Sáng ngày 29-3, hàng ngàn người đủ mọi thành phần chen nhau qua cầu Trịnh Minh Thế để qua Tiên Sa, Sơn Trà hay Non Nước. Tất cả đều đổ xô ra biển nên mọi nẻo đường đều đông nghẹt, tắc nghẽn.

Tại kho An Hải, hàng trăm người dành nhau lấy đồ hộp, gạo sấy, mùng mền…Đã có nhiều người chết vì bị đồ hộp đè.

Trong khi đó những chiếc xe nhà binh chạy ngược chạy xuôi như bầy kiến lạc đàn và tông cả vào những người đang chạy bộ trên đường. Tại ngã Năm An Hải, 2 chiếc xe jeep tranh đường đã cán một người ngay giữa 2 xe. Trên đoạn đường gần nhà thờ Mân Quang, một chiếc M113 chạy từ hướng Tiên Sa xuống đã tông mạnh vào hông một cụ già đang đi cùng chiều khiến ông lão ngã lăn trên đường và bất động. Chiếc M113 vẫn chạy và mọi người vẫn đi qua ông lão như không có chuyện gì xảy ra.

Vào lúc này, không còn ai nghĩ đến ai nữa! Trước làn sóng đỏ của CS ai cũng cố tìm cho mình một con đường để thoát thân. Cũng tại An Hải (Quận 3) dân chúng đã ùa vào kho hàng Quân Tiếp Vụ để dành nhau lấy thuốc và thực phẩm. Cả trăm người dành nhau, chen nhau và đè lên nhau. Một người lính đứng bên ngoài không làm sao vào được bèn thụt một qủa M79 ngay vào đám đông khiến đám đông văng ra tan tác. Số người chết và bị thương khá nhiều. Máu, dầu, sữa hoà với nhau lai láng. Thế mà một lát sau đám đông khác lại ùa vào và tiếp tục tranh dành!

Tại khu bến tàu Đà Nẵng, dân chúng ngồi chờ tàu đói khát cũng đã ùa vào kho đồ hộp gần đó rồi dành giựt nhau hỗn loạn. Tại hãng nước ngọt BGI cũng xảy ra cảnh giành bia, nước ngọt. Tại kho gạo an toàn ở ngã 3 Cai Lang, lúc 10 giờ sáng ngày 29-3, một số người đã dùng súng bắn ổ khoá kho. Sau đó từng đoàn người ùa vào bên trong khuân, vác gạo ra và gạo cũng đã đè lên làm cho nhiều người chết.

Những người có súng vào lúc này cứ bắn loạn xạ. Họ bắn bất cứ ai làm cản trở đường họ đi và trái với lệnh của họ.

Trước chùa Thạc Gián (Quận 2) một người chĩa súng vào những người vừa lấy gạo trong kho ra trên đường trở về nhà. Y lấy hết gạo lại và chất đầy một đống trước mặt rồi đứng bán sang tay lấy tiền mà không tốn một giọt mồ hôi!

Còn nhiều cảnh hỗn loạn, bắn nhau, tranh giành nhau thực phẩm tại Trung Tâm bán lẻ QTV Đà Nẵng, tại xưởng bánh kẹo ở Thanh Khê…Tất cả đều nói lên một tình trạng vô chính phủ, vô luật pháp mà có lẽ chẳng bao giờ những người đã chứng kiến quên được.

Rất nhiều người dân, rất nhiều quân nhân trong chiến tranh, trong chiến đấu đã không chết trước súng đạn của quân thù nhưng đến giờ phút này đã chết một cách oan uổng, tức tưởi và phi lý chỉ vì những sai lầm đáng trách của những người có trách nhiệm đối với vận mệnh của đất nước lúc bấy giờ!

30 Tháng Tư, niềm đau khôn nguôi

Theo Người Việt-03-05-2015 7:19:07 PM
 Vũ Ngọc Bích

(Bài viết cho mục Hồi Ức 30 tháng Tư và Đời Tị Nạn)

 Sáng thứ sáu 25 tháng 4 năm 1975, khoảng 10 giờ, tôi đang  ngồi làm việc thì chị giúp việc thân tín và con gái  tôi lúc đó 11 tuổi, bước vào văn phòng tôi. Chị tới sát chỗ tôi ngồi, ghé tai tôi nói nhỏ:

-  Thầy về nhà gấp, cô có chuyện muốn nói với thầy.

Tôi chỉ gật đầu và không muốn cho chị giúp việc nói thêm  nữa, vì tôi đã biết vợ tôi muốn nói gì rồi.  Trước đây, vợ tôi có làm việc ở phòng Điện toán của Hoa Kỳ tại phi trường Tân Sơn Nhứt.  Để tránh việc Việt cộng sẽ trả thù những người đã cộng tác với Mỹ, chính phủ Hoa Kỳ đã cho lập danh sách ưu tiên cho nhân viên làm sở Mỹ di tản bằng cầu không vận.

Hàng ngày, những tin tức chiến sự không mấy khả quan từ miền chiến tuyến gửi về làm nản lòng  người lính ở hậu phương. Tại đơn vị tôi, lúc đó Đại tá Nguyễn Hữu Đ. tới nhậm chức Cục Trưởng Cục Mãi Dịch Quân Đội đúng vào lúc xế chiều của miền Nam. Tôi cũng nhận được nghị định thăng cấp thiếu tá,  sau 5 năm mang cấp bậc đại úy vào giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến.

Tới văn phòng, từ sĩ quan cho tới anh em binh sĩ, ai cũng cầm tờ báo coi những tin tức nóng bỏng nơi trang nhất, bàn tán xì xào. Trong lòng  mọi người, hầu như ai ai cũng bị dao động, không nhiều thì ít.


Dòng người di tản trước khi Sài Gòn thất thủ. (Hình: Getty Images)

Tôi vẫn làm công tác đi thanh tra và thâu nhận hàng  tại các nhà kho của quân đội.  Tôi đã thấy có một vài nhà thầu  và giám đốc các công ty lớn lặng lẽ ôm tiền trốn ra ngoại quốc.  Họ bỏ đi, và không thi hành khế ước.  Mặc dầu đơn vị tôi đã gửi văn thư cảnh cáo sẽ áp dụng biện pháp chế tài, họ vẫn bất chấp và cứ tiếp tục bỏ nước ra đi.
Việc ra đi hay ở lại cũng là vấn đề gây nhiều tranh cãi sôi nổi giữa vợ chồng tôi trong suốt mấy tuần qua.  Vợ tôi đã ghi tên gia đình vào danh sách di tản, và chúng tôi đã nhận được “manifest” xác nhận chờ ngày đi.

Là một quân nhân, tôi cảm thấy hổ thẹn khi chưa chiến đấu gì mà đã bỏ đồng đội, bỏ bạn bè, lén lút ra đi.

Tôi đã gay gắt nói với vợ tôi :
Mình cứ dẫn con đi trước.  Tôi ở lại, một thân  một mình, lúc nào đi chẳng được!

Vợ tôi vừa năn nỉ, vừa giận dỗi, dùng  đủ mọi cách để thuyết phục tôi cùng với nàng và bốn đứa con đi một lượt :
-  Anh nói dở hơi lắm !  Bao nhiêu người chạy chọt đủ mọi cách, để xin cho được một chỗ trong “manifest”.  Họ sẵn sàng bỏ ra cả ngàn đô la để đổi lấy một chỗ di tản bằng máy bay !  Anh không biết anh may mắn hơn hàng  trăm ngàn người sao ?

Tôi tần ngần :
-  Nhưng em không thấy vợ chồng mình vất vả dành dụm mười mấy năm nay, mới mua được căn nhà nhỏ nầy.  Sang đến Mỹ, anh không có nghề nghiệp gì chuyên môn, rồi mình lấy gì mà sống. Vợ tôi đau khổ ngắt lời tôi :
-  Một cái nhà này, chứ cả chục cái nhà nữa cũng bỏ hết!  Sang đến đó, còn cả ngàn người như mình nữa chứ.  Cớ chi phải lo không có việc làm? Không làm việc này, thì làm việc nọ !

Tôi cố vớt vát :
-  Em  không thấy hôm rồi, tổng thống Thiệu vừa lên TV nói gì sao ?  Chính ông ấy cũng ở lại, sát cánh với quân đội, cùng chiến đấu bảo vệ miền Nam mà !

Vợ tôi cười nhạt :

-  Anh nói vậy, là anh không biết gì hết rồi.  Con bạn đồng nghiệp của em lấy một sĩ quan Mỹ ở cơ quan DAO.  Nó vừa ghé nhà mình  thăm em. Nó nói chồng nó bảo sau bài diễn văn ấy, tổng thống Thiệu và gia đình được Mỹ đưa đi Đài Loan rồi !

Tôi cứ bán tín bán nghi. Tân thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn vừa ra nghị đinh dọa trừng phạt bất cứ công chức quân nhân nào rời nhiệm sở.  Đồng thời. Thủ tướng Cẩn ra lệnh đặt các nút chặn gồm quân cảnh lẫn cảnh sát được dàn ra trên cửa ngõ vào phi trường Tân Sơn Nhất,
biên giới và dọc bờ  duyên hải.

Suốt mười mấy năm chung sống, chưa lần nào chúng tôi bất đồng ý kiến trầm trọng như lần nầy.  Vợ tôi bực mình phát khóc.  Nàng tha thiết nói với tôi qua hàng  nước mắt :

-  Anh ở lại, lỡ tụi nó vào, tụi nó sẽ không tha anh đâu.  Anh vừa có tội di cư năm 54, vừa là sĩ quan đã từng chống lại chúng!  Anh đi với em và các con nhé.  Một mình em ra đi, với một bầy con như thế, làm sao em xoay sở cho được! Cứ như thế, mấy đêm rồi, tôi không ngủ được tròn giấc bao giờ, vì những lời nói, tiếng khóc của vợ tôi cứ lẩn quẩn trong đầu óc tôi.

Trong khi đó, mấy nhân viên trong phòng tôi xúm lại chỗ con gái tôi.  Họ đang thì thầm hỏi chuyện con bé.  Thấy tôi đưa mắt nhìn, họ lảng đi chỗ khác.  Tôi bảo chị giúp việc và con gái tôi đón xe xích lô máy về trước, và nói với vợ tôi cứ chờ ở nhà.

Tôi lặng người đi phía sau bàn giấy.  Trong lòng đầy bâng khuâng, bối rối, tôi nhìn những nhân viên đã từng cộng tác với tôi trong vòng tám năm qua tại đơn vị nầy.

Phóng tầm mắt xa hơn, tôi nhìn về phía cây tùng bách tán.  Không hiểu sao, tôi thấy cây tùng bỗng trở nên thân  thiết như một người bạn!

Tôi lẩm bẩm một cách vô thức ;
-  Tùng Bách Tán ơi! Ta sắp xa mi rồi !

Một nhân viên dân chính, bác T., được biệt phái tới làm việc ở phòng tôi từ ngày thành lập đơn vị.  Bác với tôi thân  thiết như người nhà.  Bác T. thường tâm sự với tôi những chuyện riêng tư, và tôi cũng, đôi khi, chia sẻ với bác những ưu tư thời cuộc.

Đến sát bàn tôi, bác T. ngồi xuống, nhìn tôi.  Chưa bao giờ tôi thấy khuôn mặt bác buồn rầu như vậy.

Bác T. chớp chớp mắt :
-  Chắc bà xã của Thiếu tá cho người làm đến kêu Thiếu tá về đi Mỹ, có phải không ?

Hôm nay, ngay cả với bác T., người bạn già thân  thiết nhất của tôi trong sở, tôi cũng không dám nói thật.  Tôi trả lời vắn tắt, trong bụng tôi biết là bác cũng biết tôi nói dối :

-  Tôi có chút việc nhà phải về gấp, xong việc có thể tôi trở lại sớm.
Rất may, trong giờ đó đa số nhân viên trong phòng tôi đã rủ nhau xuống Câu Lạc Bộ để giải khát. Chỉ còn tôi và người công chức già ngồi tâm sự.  Một niềm xúc động mãnh liệt dâng tràn trong lòng  tôi.
Trước khi ra về, tôi lấy chiếc chìa khóa ngăn kéo nơi bàn giấy, trong có để các hồ sơ và một số vật dụng cá nhân, đưa cho bác T.

Tôi nói :
-  Bác cứ tự nhiên, dùng  được cái gì thì dùng .

Tôi cũng móc ví, lấy hết các giấy bạc loại lớn trong đó, dúi vào tay người công chức già một nắm tiền.

Tôi vỗ nhẹ vai bác :
-  Bác giữ lấy để tiêu đi .
Người nhân viên của tôi ngạc nhiên, đưa cả số tiền trả lại :
-  Thiếu tá đừng làm vậy !

Tôi  nói, thật khẽ :
-  Xin bác cứ yên tâm. Lúc nầy, tôi không cần tiền nữa. Nghe lời nói quả quyết của tôi, bác cám ơn rối rít, nhét tiền vào túi quần phía sau và tiễn tôi ra tận xe.  Tới lúc đó, tôi mới cho bác biết là rất có thể tôi sẽ rời Sài Gòn vào chiều nay, nếu có chuyến bay đi Mỹ. Vừa nghe tới đó, bác cảm động ôm mặt khóc. Tôi nắm lấy hai vai bác T., an ủi bác; rồi mở máy, chiếc xe từ từ lăn bánh ra khỏi cổng.  Người lính gác đưa tay chào tôi, và tôi giơ tay chào lại.  Tôi quay nhìn lại cổng doanh trại một lần chót.  Tôi thầm nghĩ, chắc hẳn  bữa nay là ngày tôi giã từ đời binh nghiệp!  Trước mắt tôi, bầu trời như sụp tối, thời gian như ngừng trôi.

Chiến tranh “Ý Thức Hệ” đã gây tang tóc và đổ vỡ cho biết bao gia đình.  Một sự mất mát quá lớn lao.  Cuộc đời tôi, từ nay, đã rẽ vào một khúc quanh mới, không biết sẽ dẫn đến đâu, mà tôi phải chấp nhận, một chấp nhận quá phũ phàng !

Tôi đã biết rõ chính sách tàn bạo, thâm độc của người Cộng Sản khi họ chiếm làng tôi.  Họ đấu tố, đầy ải hàng chục gia đình trung nông đã từng đóng góp tiền của, xương máu trong cuộc kháng chiến chống Pháp.  Suốt hơn hai mươi năm thống trị miền Bắc, họ đã bần cùng hóa nhân dân, áp đặt lối cai trị hà khắc làm cho hàng  triệu người khốn khổ !

Tôi sẽ phải bỏ nước ra đi, tìm TỰ DO bằng bất cứ giá nào, vì tôi biết tôi không thể nào sống nổi dưới chế độ Cộng Sản được, dù chỉ là một ngày, một giờ.

Vừa về đến nhà, tôi thấy vợ tôi đang chuẩn bị một số áo quần, và vài thứ vật dụng, thuốc men lặt vặt.  Ngoài ra, những thứ gì nặng và cồng kềnh, tôi bảo nhà tôi bỏ lại hết.  Đến chiều tối, tôi chất hai cái valise và vài túi xách nhỏ lên chiếc xe Austin Minivan.  Vợ chồng tôi và các cháu sang chào cha mẹ tôi ở sát bên nhà tôi.  Cha mẹ tôi rưng rưng nước mắt, nắm tay tôi cầu nguyện Chúa che chở chúng tôi đi được bình an.  Tôi yên tâm ra đi, vì biết anh chị cả tôi có ba người con lập nghiệp tại Hoa Kỳ.  Các cháu, và người em ruột của chị dâu tôi đã vui lòng  bảo lãnh cho anh chị và cả ông bà nội nữa.

Vợ tôi ngồi bên cạnh, và bốn đứa con tôi ngồi băng dưới.  Tôi lái xe ra đi đến chỗ hẹn.

Tối hôm đó, gia đình tôi, gồm vợ chồng tôi và bốn đứa con, nghỉ tạm tại nhà ông anh vợ.   Chúng tôi thấp thỏm chờ đợi xe bus tới đón ra phi trường.

Các con tôi mệt, nên ngủ say sau khi tới.  Chúng tôi chờ đợi suốt cả đêm, mà chẳng thấy xe bus nào tới đón.  Đối với tôi, đêm hôm ấy dài vô cùng.  Chúng tôi đứng bật dậy, rộn ràng , hồi hộp khi nghe thấy tiếng còi xe hơi ngoài  ngõ, và thở dài não nuột khi bước ra cổng, thấy đó chỉ là một chiếc taxi nào đó.

Cứ xôn xao hy vọng, rồi lại ngỡ ngàng chán nản suốt từ chập tối hôm trước đến sáng  sớm hôm sau.  Thế mới biết cổ nhân nói câu “ Có thức đêm mới biết đêm dài “ cũng không phải là sáo ngữ!  Sáng hôm sau, vẫn chưa có xe tới đón.  Ông anh vợ tôi là Đại úy Nguyễn Văn An tòng  sự tại Bộ Quốc Phòng bảo chúng tôi cứ về nhà, chờ ở đó, và ông sẽ đích thân dùng  xe Jeep đưa chúng tôi tới thẳng  cơ quan DAO, tức là văn phòng Tùy Viên Quân Lực Hoa Kỳ.  Vừa về đến nhà, tôi dẹp quần áo và vật dụng linh tinh ở phòng khách sang một bên, rồi dựa vào chiếc ghế bành, ngủ ngon lành cho đến lúc nghe tiếng nói oang oang của bầy con nít con hàng  xóm làm tôi chợt thức giấc :

-  Nhà nầy họ đi Mỹ, bà con ơi !
-  Lại đây tụi bay, coi mấy người sắp đi Mỹ !

Tiếng ồn ào của bon trẻ con tinh nghịch làm tôi hơi bực mình.  Một đứa khác nói chen vào, đầy vẻ khoái trá trước sự đi hụt của chúng tôi :

-  Nhà nầy không đi Mỹ đâu, tụi bay ơi !  Họ đi Mỹ Tho đó.

Và cả bọn cùng cất tiếng cười ranh mãnh .  Nếu là những ngày thường, có lẽ tôi cũng ra phía trước, yêu cầu bọn chúng đi ra chỗ khác chơi.  Nhưng lần này, với mặc cảm của một người toan tính trốn chạy, tôi chỉ dịu giọng nói với mấy đứa trẻ trạc tuổi con mình :

-  Các em đi chơi chỗ khác, cho chú nghỉ ngơi một chút nhé !

Nói đoạn, tôi đưa chúng một túi kẹo chanh :
-  Các cháu chia nhau ăn đi !

Tụi trẻ đi rồi, tôi đảo mắt nhìn các vật dụng trong nhà, từ bộ bàn ghế tiếp khách mầu gụ chúng tôi mới sắm, chiếc đàn piano hiệu YAMAHA chúng tôi mới mua cho đứa con gái lớn cách đó sáu tháng, khi cháu bắt đầu học tại tư gia của nhạc sĩ  Nghiêm Phú Phi ở khu Tân Định.  Căn nhà vợ chồng tôi dành dụm bao nhiêu năm mới mua được này, tôi vừa thuê thợ sửa sang cho rộng.  Chiếc xe Austin sáu chỗ, tháng trước, tôi đưa làm máy và sơn một lớp sơn mới, chạy thật tốt.

Tôi nghĩ tới sự khó nhọc của hai vợ chồng tôi trong  mười hai năm trường mới tạo dựng được chút sản nghiệp khiêm tốn như ngày hôm nay.  Bỗng dưng một sớm một chiều, chúng tôi sắp mất hết.

Nghĩ tới đó, tôi bỗng đổi ý, và nói với vợ tôi :
-  Em nầy, mới hôm qua, ở tạm nhà anh của em một đêm, không phải nhà mình, mà  anh thấm thía câu nói “ Sẩy nhà ra thất nghiệp “ rồi !  Thôi, anh không muốn đi đâu hết.  Nhà mình, mình ở.  Ra đi, với tương lai vô định, không nhà không cửa.  Anh không muốn đi một chút nào nữa !

Vợ tôi ngạc nhiên :
-  Anh ơi, anh nghĩ quẩn rồi !  Chiều hôm qua, anh nói với em là anh nhất quyết ra đi vì không sống nổi với Việt Cộng.  Bây giờ, chỉ vì xe bus chưa tới đón, anh đã nản lòng , không chịu đi nữa !

Tôi nói :
-  Nhưng mà còn nhà cửa, bao nhiêu thứ mà anh và em vất vả xây dựng bấy lâu nay ?

Vợ tôi gào lên :
-  Những thứ đó, bỏ lại hết !  Mai mốt mình sẽ xây dựng lại. Còn người, còn của, mà anh?

Tôi cù nhầy  :
-  Anh Nghiêm, anh Chỉnh, anh An, chú Cảnh, chú Hiền, cũng đều là quân nhân, có ai đi đâu ?  Anh ở lại với các anh em của anh.  Em có đi, thì dẫn các con đi đi !

Đến lúc nầy, vợ tôi đã mất hết bình tĩnh.  Nàng khóc nấc lên, vừa khóc vừa kể lể :
-  Anh đã có thời sống gần tụi nó ở ngoài Bắc.  Các bác của anh ở lại đã bị tụi nó cắt cổ, đấu tố, đầy đi tù rồi, anh không nhớ sao ?  Rồi vụ tết Mậu Thân, chỉ là trung sĩ, cũng bị chúng nó bắt đi, đập đầu hoặc sỏ giây kẽm gai chôn  sống tập thể, anh không biết sao ?  Huống chi anh là thiếu tá.  Tụi nó gặp anh là bắn liền !  Thử hỏi lúc đó, nhà cửa này, của cải dành dụm này, anh có  chắc hưởng được không ?

Rồi nàng tiếp, dùng  tình cảm thuyết phục tôi :
-  Anh cũng phải nghĩ đến tương lai bốn đứa con anh nữa chứ ?  Đi ra khỏi nước, dù anh và em không làm nên trò trống gì, con cái mình sẽ có cơ hội tiến thân .  Em cũng chẳng biết chúng nó sẽ làm gì, nhưng chắc chắn sẽ có nhiều cơ hội hơn là ở nhà rồi!

Trong lúc tôi ngồi thừ người ra, đầu óc hoang mang, không biết phải  nói gì, nghĩ gì, vợ tôi vừa khóc vừa chạy sang nhà cha mẹ tôi ở kế sát bên.  Nàng tin rằng chỉ có mẹ tôi khuyên giải tôi mới nghe ra.  Đúng như nàng nghĩ, mẹ tôi qua ngay tức khắc.  Bà nắm tay tôi, nhẹ nhàng khuyên bảo :
-  Con ơi, con nên nghĩ lại.  Sáng nay, anh chi Chang sẽ đến đón cha mẹ ra đi.  Cha mẹ đã từng ở với bọn chúng rồi.  Cha con đã từng bị chúng nó bắt đi, chỉ vì cha con là công chức.  Suýt nữa chúng nó đã thủ tiêu cha rồi đó.  Giữa  năm 54, ông bà ngoại con đã hơn 70 tuổi, mà còn liều chết trốn đi.  Vì ở lại là chúng nó sẽ đấu tố, làm nhục cho đến chết !

Bà nhìn vợ tôi, rồi tiếp :
-  Con may mắn lắm mới có vợ con đảm đang, xông xáo, lo cho con và các cháu ra đi.  Hai anh Nghiêm và anh Chỉnh của con muốn đi lắm, mà không có cơ hội như con.  Hai anh đang lo, mà không biết cách nào đi được. Con có cơ hội tốt. Đừng bỏ lỡ cơ hội hiếm có nầy!

Tôi nghe lời mẹ, hứa sẽ đưa gia đình đi.  Quyết định của tôi đã làm thay đổi hẳn cuộc đời của chúng tôi và tương lai các con  tôi!

Sáng Chủ Nhật 27 tháng Tư năm 1975, gia đình tôi sửa soạn để đi nhà thờ.  Tôi cũng đang ăn dở dang tô phở do chị giúp việc vừa mua về thì anh cả của vợ tôi, Đại úy Nguyễn Văn An, cũng vừa lái xe Jeep tới đậu ngay trước cửa nhà tôi.  Anh cho biết chúng tôi chỉ có đúng 10 phút chuẩn bị hành lý.  Tôi bỏ đũa, giúp vợ tôi sắp xếp hành lý lần chót.  Anh An giúp tôi chất hai chiếc valise lên xe Jeep.  Vợ tôi đưa trả tiền công cho chị giúp việc, và tặng thêm  cho chị một tháng lương nữa.  Tôi đã gọn gàng  trong bộ đồ dân sự, vợ tôi và bốn cháu ăn mặc thật giản dị.  Cả gia đình tôi ngồi gọn trên chiếc xe Jeep, trực chỉ hướng Tân Sơn Nhất.  Anh An nói, anh sẽ đưa chúng tôi tới thẳng cơ quan DAO.

Gần đến nơi, tôi chứng kiến cảnh người di tản chen chúc, giành giật nhau một chỗ đứng sát cổng vào bên trong.  Những chiếc xe Mercedes, Peugeot, Ford, Toyota còn mới toanh, không người lái, nằm ngổn ngang dọc theo bờ rào sát phi trường.  Anh vợ tôi dừng xe trước một trạm gác.  Một trung sĩ quân cảnh Việt Nam và một quân cảnh Mỹ đang làm công việc xét giấy.  Người quân cảnh Việt Nam xem sự vụ lệnh công tác và tờ “manifest” do tòa Đại sứ Mỹ cấp, rồi trao cho người quân cảnh Mỹ soát lại lần chót.  Sau khi xem xét giấy tờ và nhìn vào trong xe kiểm soát, hai quân cảnh Mỹ Việt giơ tay chào, và ra hiệu cho xe đi.

Thế là chúng tôi đã vào trong cơ quan DAO và trình giấy tờ trong khi các chuyến xe bus của tòa Đại Sứ Hoa Kỳ lần lượt chở các nhân viên và thân  nhân tới.  Khung cảnh thật là  náo nhiệt, tiếng người nói chuyện, bàn tán thật ồn ào.  Trên bầu trời, từng đoàn trực thăng bay tới bay lui như những con chuồn chuồn khổng lồ, hết chiếc nầy vừa đáp xuống thì chiếc kia lại bốc lên, có lẽ để đi  đón người di tản ở một địa điểm khác.  Chúng tôi  được chia ra làm từng toán, mỗi toán hai mươi người.  Bây giờ chỉ còn việc đợi xe bus tới chở ra máy bay.   Trong lúc chờ đợi, tôi đảo mắt nhìn xung quanh, qua hai lớp hàng  rào giây kẽm gai bao bọc cơ sở này.  Những người di tản tới cơ quan DAO bằng xe taxi đều bị chặn lại ngay tại cổng để kiểm soát giấy tờ.

Một chiếc taxi vừa dừng lại phía ngoài cổng. Trên xe một thanh niên trạc hăm ba tuổi, một phụ nữ trẻ bế đứa bé khoảng hai tuổi, và một cặp vợ chồng lớn tuổi lần lượt bước xuống. Tôi đoán chừng ông bà nầy là cha  mẹ của người phụ nữ, và chàng thanh niên là con rể.  Chàng thanh niên đưa xấp giấy tờ  cho người cảnh sát gác cổng; người này xem qua rồi đưa cho viên trung sĩ quân cảnh đứng cạnh.  Người quân cảnh nói gì với chàng thanh niên, và ra hiệu cho anh đứng  sang một bên. Người phụ nữ bế con tiến lại phân trần với người quân cảnh, rồi người đàn ông lớn tuổi cũng đến, dường như vừa thuyết phục vừa năn nỉ, nhưng chỉ nhận được cái lắc đầu từ chối.

Một lát sau, xe quân cảnh đi ngang. Chàng thanh niên bị mời lên xe.  Người phụ nữ gào khóc, nắm chặt cánh tay người thanh niên, không cho lên xe.  Đứa bé cũng khóc thất thanh, ôm lấy chân anh ta. Thế là một cảnh giằng co xẩy ra, làm huyên náo một góc cổng gác. Người phụ nữ trẻ cố năn nỉ hai quân cảnh Việt Nam tha cho chàng thanh niên.  Tiếng gào khóc của chị nghe thật thương tâm!

Tôi để ý nhìn hai quân cảnh Mỹ đứng gần đó.  Họ không can thiệp gì cả.  Hai trung sĩ quân cảnh trên xe nói gì với người thanh niên.  Anh ta thì thầm điều gì đó với người phụ nữ.  Chị và đứa bé không gào khóc, níu kéo nữa.  Người thanh niên lên xe.  Chiếc xe Jeep quân cảnh đi đâu, không ai biết.  Tôi chỉ thấy cặp vợ chồng lớn tuổi và người phụ nữ trẻ, cùng đứa bé leo lên một chiếc taxi khác vừa đổ người xuống.  Chiếc xe đi ngược về phía cửa ngõ vào thành phố.  Tôi chắc gia đình họ trở về nhà.

Tổng thống Trần Văn Hương nhậm chức chỉ có mấy ngày, nhưng ông đã phải đương đầu với cảnh “dầu sôi lửa bỏng “ của đất nước.   Trên mặt báo, tôi đọc thấy tân thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn đã ra lệnh cho các viên chức có trách nhiệm phải ngăn chặn mọi thành phần quân cán chính trong hạn tuổi của quân đội, không cho những người nầy xuất ngoại bằng bất cứ phương tiện gì, đường hàng  không, đường bộ và kể cả đường biển nữa.  Lệnh này được áp dụng triệt để.  Báo chí thời đó tường thuật rõ ràng  những trường hợp cơ quan công lực bắt giữ một số viên chức trong chính quyền, kể cả quân đội, đang trên đường vượt biên.

Riêng trường hợp người thanh niên bị bắt giữ lại, tôi nghĩ cả người vợ và gia đình bên vợ cũng kẹt ở lại luôn.  Tôi không thể quên được tiếng khóc nức nở của người phụ nữ trẻ, khi người chồng bị bắt lại, và xe quân cảnh đưa đi.  Tôi nghĩ, các viên chức Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ, khi chứng kiến cảnh bắt giữ thương tâm đó, có lẽ cũng bị “mất mặt” phần nào, vì chính phủ Hoa Kỳ đã đồng ý cấp giấy tờ cho cả gia đình người ta đi Mỹ, mà quân cảnh Việt Nam lại có quyền bắt giữ lại?  Tôi thấy hai viên chức Hoa Kỳ ở bãi đậu xe, đứng gần chỗ chúng tôi đang chờ đợi, dùng  máy liên  lạc vô tuyến, gọi đi một chỗ nào đó; có lẽ với giới chức cao cấp Việt Nam và tòa Đại Sứ Hoa Kỳ chăng ?

Bởi vì, khoảng 15 phút sau, tôi không còn thấy quân cảnh và cảnh sát ở ngoài cổng cơ quan DAO nữa.

Tôi nhớ lại những ngày tới Quân Vụ Thị Trấn Sài Gòn, chỉ huy toán tuần tiễu hỗn hợp gồm cảnh sát, quân cảnh, để bắt đào binh và những người trốn quân dịch.  Tới giờ cơm trưa, tôi dẫn toán tuần tiễu của tôi vào tiệm phở Tầu Bay đãi mỗi người một tô phở xe lửa và ly cà phê sữa đá.  Chúng tôi ngồi ăn uống và nói chuyện vui vẻ trong tình đồng ngũ, coi nhau như những người thân  thiết trong đại gia đình quân đội.

Bây giờ, gặp lại mấy người quân cảnh và cảnh sát, cũng trong sắc phục đó, nhưng ở trong hoàn cảnh thật éo le nầy, tôi mặc y phục dân sự, vì đã từ bỏ nhiệm sở để ra đi, còn những anh em đó vẫn còn ở lại, tiếp tục nhiệm vụ của mình, lòng  tôi đâm ra e dè, sợ sệt, đầy mặc cảm; nên không còn cái cảm giác thân  thiết với những người đã từng cùng ở trong đại gia đình với tôi nữa !

Tôi thực sự cảm thấy không được thoải mái cho lắm khi phải đối diện với họ; mặc dù sau việc xẩy ra hồi sáng  và sự can thiệp của nhân viên tòa Đại sứ Mỹ, cảnh sát và quân cảnh Việt Nam chỉ còn nhiệm vụ giữ an ninh trật tự thôi, chứ không bắt giữ hay làm khó dễ những người di tản nữa.  Nhìn sang toán kế bên, tôi gặp Trung tá P.  

Tôi quen biết ông mỗi lần tôi đi họp ở Tổng Cục Tiếp Vận, Bộ Tổng Tham Mưu.  Thấy ông trong y phục dân sự, tôi quen miệng chào ông theo cấp bậc quân đội.  Ông ghé sát tai tôi nói nhỏ :

-  Thôi “toa” miễn cho “moa” đi.

Tới lúc đó, tôi biết mình lỡ lời, vội vàng nắm tay ông cười giả lả.  Có lẽ lúc này, ông cũng mang chung một tâm trạng xấu hổ vì đã trốn chạy khỏi nhiệm sở như tôi, nên không muốn ai nhắc đến cấp bậc của mình.

Khoảng 3 giờ chiều Chủ Nhật 27 tháng 4, một toán xe bus gồm năm chiếc tới đậu ở ngay trước lối vào văn phòng cơ quan DAO.  Chúng tôi lần lượt xếp hàng  lên xe.  Khoảng mười phút sau, đoàn xe hướng về khu vực nơi máy bay C.130 đậu, gần phía cuối phi đạo.

Khi còn  cách chỗ máy bay khoảng  40 thước, các xe bus ngừng lại.  Người hướng dẫn trên xe yêu cầu chúng tôi xuống, sắp hàng  một để đi về phía máy bay.

Tôi nhìn ra phía trước.  Bên chiếc máy bay phản lực C.130, đã có sẵn hai người lính quân cảnh Việt Nam đứng chờ, ngay cửa phía sau đuôi máy bay.

Chúng tôi lần lượt bước xuống xe bus, theo đoàn người di tản.  Vợ và các con tôi đi trước.  Còn tôi, một tay bồng cháu gái út Hồng Bảo, lúc đó mới hơn hai tuổi.

Đi sát phía sau tôi là một đôi vợ chồng trẻ và đứa con nhỏ, cùng trong toán tôi.  Người chồng là một kỹ sư điện làm việc cho một cơ quan tiếp liệu Hoa Kỳ.  Có lẽ hồi sáng, anh chị nầy đã chứng kiến cảnh người thanh niên bị bắt giữ lại, nên người vợ tỏ ra hết sức lo lắng khi nhìn thấy hai viên quân cảnh Việt Nam to lớn đứng nơi chân máy bay.

Chị quay về phía tôi hỏi nhỏ :
-  Anh có biết tại sao quân cảnh Việt Nam vẫn còn ở đó không ?  Liệu chồng tôi đang trong lứa tuổi quân dịch có bị bắt lại không, thưa anh?

Tôi đưa mắt nhìn chị đang bồng đứa con gái trạc tuổi đứa con gái út tôi, còn anh thì xách một valise, và trên vai đeo một cái cặp nữa.

Làm ra vẻ thông  thạo, tôi trấn an cặp vợ chồng trẻ:
-  Theo tôi, nhiệm vụ của hai người quân cảnh này chỉ là canh gác máy bay, đề phòng phá hoại thôi.  Giờ phút nầy, họ không còn bắt giữ ai như hồi sáng  nữa đâu.

Tôi nói tiếp :
-  Chị nên trao cháu nhỏ cho anh bế !  Mình cứ tự nhiên mà đi, đừng để ý gì đến họ.  Không sao đâu !

Người vợ trao đứa bé cho chồng, và đỡ hộ anh ta chiếc cặp trên vai.  Chúng tôi đi trong toán di tản cuối cùng, và chẳng bao lâu đã tới cửa phía sau của chiếc máy bay C.130.  Tôi cố giữ nét mặt bình thản, nhìn về phía trước.  Nhưng lúc đi ngang qua hai người quân cảnh, tôi biết chắc chắn họ đang chăm chú nhìn tôi.  Chúng tôi vừa bước vào thân  tàu, thì anh chồng đi phía sau tôi đặt đứa bé xuống sàn máy bay cho người vợ giữ.  Anh lách mình, vượt qua tôi; vội vàng đi thẳng vào phòng vệ sinh, đóng sập cửa lại.

Khi người di tản cuối cùng đã vào hẳn trong máy bay, nhân viên phi hành kiểm soát một lần chót; rồi bấm nút; chiếc cánh cửa vĩ đại phía sau đuôi máy bay từ từ đóng lại.

Chúng tôi ngồi vào chỗ, được hướng dẫn cài dây an toàn, và những gì phải làm khi gặp trường hợp khẩn cấp.  Mùi nhiên liệu phi cơ, mùi mồ hôi, mùi kim loại tỏa ra dưới nắng chiều gay gắt làm không khí chờ đợi thật ngột ngạt và căng thẳng.  Động cơ chạy mạnh hơn, và chiếc máy bay lăn bánh, tiến dần ra phi đạo.  Rồi tiếng máy rú lên, vận tốc tăng nhanh; chiếc C. 130 nhẹ nhàng cất cánh.  Vừa lúc đó, người kỹ sư trẻ tuổi cũng từ phòng vệ sinh vội vàng bước ra; mặt anh xanh mét, như không còn hồn vía gì.

Tôi đã đoán biết vì sao anh vào trong đó, nhưng cũng giả vờ hỏi :
-  Bộ anh đau bụng lắm hay sao mà ngồi trong nhà vệ sinh lâu quá vậy ?

Anh thật thà trả lời :
-  Dạ, em có đau bụng gì đâu!  Sáng nay chứng kiến cảnh bắt giữ người thanh niên, đến giờ này em còn sợ; nên phải trốn vào phòng vệ sinh, chờ máy bay cất cánh mới dám đi ra.

Tôi cười nhẹ, thông  cảm với nỗi lo sợ của cặp vợ chồng này.

Trạm đầu tiên cho người tỵ nạn xuống là đảo Guam.  Chúng tôi được phân phối tạm trú trong những căn lều thật lớn do công binh Mỹ vừa dựng lên, mỗi căn lều có sức chứa cả ngàn người.  Buổi sáng hôm sau, tôi lên văn phòng trại ghi danh và điền vài mẫu giấy tờ hành chánh cho việc chuyển trại.  Khi đang ngồi chờ ở trước văn phòng, cha mẹ tôi và cháu trai con ông anh cả tôi bước vào.  Gặp lại tôi, mẹ mừng lắm, hỏi han ríu rít.  Thế là gia đình anh chị cả đã mang được cha mẹ tôi đi cùng, và chỉ đi sau tôi khoảng 4 tiếng đồng hồ, trên một chuyến máy bay khác.

Những ngày sống nơi trại tạm cư ở Guam, ngoài những bữa ăn, gồm toàn món Mỹ, chúng tôi thường đi bộ ra bờ biển Guam hóng mát, nhất là lúc xế trưa.

Buổi tối, ban chỉ huy trại cho chiếu phim giải trí.  Một số nghệ sĩ Việt Nam cũng họp nhau lại  mỗi buổi chiều, trình diễn giúp vui cho đồng bào tị nạn.

Điều đau buồn nhất đối với chúng tôi, là chiều 30 tháng 4 năm 1975, khi hai đài phát thanh BBC và VOA loan tin Sài Gòn bị thất thủ, và cả miền Nam đã rơi vào tay giặc Cộng.  Chúng tôi ai nấy đều ngậm ngùi, xót xa chia sẻ niềm đau đớn của đồng bào ruột thịt, từ nay sẽ sống dưới ách cai trị của bọn Cộng Sản độc tài và bạo tàn.

Tất cả mọi người chúng tôi đều mang chung một tâm trạng đau buồn. Tôi đã chứng kiến những người thiếu phụ trẻ bên nách một đàn con thơ nheo nhóc, họ ngồi bên góc lều trại, hộc lên khóc, tiếng khóc đau đớn, não nề, ai oán kéo dài từng hồi.  Những lúc như thế, vợ tôi lại chạy tới, dỗ dành, an ủi họ.  Rồi tiếp đến căn lều bên cạnh, như bị xúc động giây chuyền, có người đã bật ra tiếng khóc, nhất là các bà các cô, vốn rất nhạy cảm.

Chung quanh căn lều tạm trú, tôi nghe những tiếng khóc nức nở đầy vẻ căm phẫn.  Những người đàn ông biểu lộ nỗi đau thương một cách lặng lẽ hơn.  Tôi thấy những khuôn mặt trầm lắng, đanh lai, những đôi mắt đỏ hoe, những giọt nước mắt tủi hờn vừa mới lau khô.

Ai ai đều ngậm ngùi trước cảnh gia đình tan tác, vợ xa chồng; cha mẹ xa con; anh chị em lưu lạc khắp bốn phương trời…Tuy không nói ra, nhưng trong thâm tâm, tôi biết chắc chắn  kể từ giờ phút nầy, tôi sẽ phải chấp nhận Hoa Kỳ là quê hương thứ hai.          
                                         

Pleiku: Tháng Ba, nỗi nhớ quay về

Theo Người Việt-03-05-2015 3:25:15 PM
Phố Núi
(Bài viết cho mục Hồi Ức 30 tháng Tư và Đời Tị Nạn)

Pleiku, vùng cao nguyên đất đỏ, giao điểm của những con đường Quốc Lộ 19, 14 nối liền Duyên Hải, vùng Hoàng Triều Cương Thổ đến cùng tận Tây Nguyên.

Pleiku còn được gọi là thành phố Lính, nơi đặt bản doanh của Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II, nơi đồn trú của Sư Đoàn 6 KQ, Lữ Đoàn 2 Kỵ Binh, 8 Liên Đoàn Biệt Động Quân, nhiều đơn vị Bộ Binh và Tiểu Khu Pleiku.

Pleiku cũng là nơi có những ngôi trường mang tên Pleime, Pleiku, Phạm Hồng Thái, Minh Đức, Bồ Đề, Nông Lâm Súc.

Pleiku còn mang tên Phố Núi thơ mộng, một địa danh đã được dệt nên nhiều áng thi ca bởi những nhà thơ nổi tiếng một thời sống ở Pleiku hay chỉ một thoáng ghé qua Phố Núi: Vũ Hữu Định, Cao Thoại Châu, Nguyễn Bắc Sơn, Kim Tuấn, Nguyễn Mạnh Trinh, Võ Ý..


Phố Núi Pleiku, năm 1969. (Hình: Internet)

Tháng Ba 1975, Pleiku trời bỗng đổ những cơn mưa, giọt mưa như những dòng nước mắt đầm đìa khóc thương cho những người bỏ đi và cho cả những người ở lại để đón chờ một cuộc đổi đời oan nghiệt.

Tháng Ba, những đám mây la đà như những vành khăn tang phủ trên đầu Phố Núi.

Những người lính chiến bao nhiêu năm trấn thủ sống chết với vùng địa đầu tam biên, giờ phải hốt hoảng ra đi, không kịp nói với Pleiku một lời giã biệt, kéo theo những người dân hiền lành và cả những cô cậu học trò đã từng lớn lên bằng hơi thở của núi rừng, một thời tuổi thơ được vỗ về bằng tiếng đạn bom và cả những bài thơ rất tình ngợi ca Phố Núi.

Chính hơi thở của các nàng thiếu nữ Pleiku, cùng dư âm đạn bom và cả những bài thơ của những nhà thơ lính bị lưu đày, đã dệt thành những mảng mù sương giăng giăng trên Phố Núi, như muôn đời ôm lấy trái tim của những người Pleiku lưu lạc, để cho lòng lưu luyến mãi khôn nguôi...

Tháng ba 1975, Pleiku đứt đi từng đoạn ruột. Từ trời cao nhìn xuống, dòng người “di tản” kéo dài bất tận trên Tỉnh Lộ 7B, trông như những khúc ruột đứt ra từ Phố Núi. Và có biết bao nhiêu người Pleiku đã không đi hết con đường tỉnh lộ kinh hoàng này. Thân xác gởi lại nơi nào giờ cũng đã trở thành tro bụi. Bao nhiêu đứa con thơ lạc mất vòng tay của mẹ, nếu có còn sống đến hôm nay cũng đã trở thành xa lạ. Những người may mắn sống sót, hầu hết đã ra đi, tản mác khắp bốn phương trời.

Tháng ba, Phố Núi phủ lên một màu ảm đạm, hoang tàn, chia ly,chết chóc, tù đày.

Pleiku đã chết. Người thắng cuộc đã tô son trét phấn trên thi thể của Pleiku để Phố Núi dù có rực rỡ đèn màu, có vang dậy tiếng cồng chiêng trong các bản làng, Phố Núi cũng sẽ chẳng bao giờ là Phố Núi của ngày xưa, của chúng ta, những người có mặt hôm nay.

Tháng Ba, nỗi nhớ có quay về Phố Núi, thì vẫn là một Phố Núi ngày xưa. Mãi mài vẫn còn trong tâm tưởng, ký ức của mỗi người trong chúng ta hôm nay.

Không biết có bao nhiêu nước mắt nào đổ xuống để có thể giải oan cho cuộc biển dâu này của những người Phố Núi.

Hôm nay, Tháng 3, đúng 40 năm, ở một nơi xa xăm, muôn trùng cách biệt với quê nhà, những người Pleiku xa xứ từ khắp nơi qui tụ về đây. Từ các anh phi công , các anh lính chiến Biệt Động Quân, Thiết Giáp, Bộ Binh, những công chức, thầy cô giáo, những cô cậu học trò và cả những người từng sống, từng lớn lên từ Phố Núi. Tất cả đang ngồi quanh đây với biết bao nỗi nhớ đang quay về.

Nhớ bầu trời một thời bay bổng, nhớ núi rừng, nơi các chiến trường của một thuở tung hoành ngang dọc, cùng sống chết với anh em đồng đội, nhớ những con đường góc phố bám đầy đất đỏ, nhớ những mái trường Pleime, Pleiku, Phạm Hồng Thái, Minh Đức, Bồ Đề, Nông Lâm Súc…, nhớ Thành Pleime, phi trường Cù Hanh, căn cứ Biển Hồ, nhớ Đồi Đức Mẹ ... và nhớ rạp ciné Diệp Kính, Thanh Bình, rạp Diên Hồng, những quán cà phê Lính, cà phê Văn, Dinh Điền, Bắc Hương , Thiên Lý...

Những người lính Pleiku ngày nào bây giờ đã trên tuổi 70 và những cô học trò Phố Núi ngày xưa bây giờ cũng đã là bà nội bà ngoại,

Xa Pleiku đã nửa đời
Sao như vẫn ngỡ hôm qua hỡi người
Chào em còn một nụ cười
Sao trông như khóc bên trời nhớ nhau
Chào Pleiku trước và sau
Trong tôi còn đó nỗi sầu thiên thu
Chào Pleiku sương khói mù
Chính là chào phiến lá thu lìa cành.. (*)

Thời gian như những ngọn gió làm cho các phiến lá vàng lần lượt lìa cành. Ta gặp nhau hôm nay, để thấy trong ta vẫn còn có những vết thương không bao giờ thành sẹo, và để thêm một lần cho nỗi nhớ quay về. Để nếu mai này có là một chiếc lá lìa cành thì xin không rơi giữa hư không mà rơi xuống giữa lòng Phố Núi. Phố Núi mênh mông, huyền thoại trong tâm tưởng của mỗi người...

Pleiku ơi! Tháng Ba , xin hãy cho những người đã không giữ được Phố Núi ngày nào được nói một lời tạ lỗi.

Và xin Pleiku ghi lấy tấm lòng của những người xa xứ, cứ mỗi độ tháng Ba, là bao nỗi nhớ lại quay về, với tấm lòng da diết những yêu thương!

(*) Trích thơ của người lính Biệt Kích Túy Hà
Theo Người Việt-03-05-2015 3:25:15 PM
Phố Núi
(Bài viết cho mục Hồi Ức 30 tháng Tư và Đời Tị Nạn)

Pleiku, vùng cao nguyên đất đỏ, giao điểm của những con đường Quốc Lộ 19, 14 nối liền Duyên Hải, vùng Hoàng Triều Cương Thổ đến cùng tận Tây Nguyên.

Pleiku còn được gọi là thành phố Lính, nơi đặt bản doanh của Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II, nơi đồn trú của Sư Đoàn 6 KQ, Lữ Đoàn 2 Kỵ Binh, 8 Liên Đoàn Biệt Động Quân, nhiều đơn vị Bộ Binh và Tiểu Khu Pleiku.

Pleiku cũng là nơi có những ngôi trường mang tên Pleime, Pleiku, Phạm Hồng Thái, Minh Đức, Bồ Đề, Nông Lâm Súc.

Pleiku còn mang tên Phố Núi thơ mộng, một địa danh đã được dệt nên nhiều áng thi ca bởi những nhà thơ nổi tiếng một thời sống ở Pleiku hay chỉ một thoáng ghé qua Phố Núi: Vũ Hữu Định, Cao Thoại Châu, Nguyễn Bắc Sơn, Kim Tuấn, Nguyễn Mạnh Trinh, Võ Ý..


Phố Núi Pleiku, năm 1969. (Hình: Internet)

Tháng Ba 1975, Pleiku trời bỗng đổ những cơn mưa, giọt mưa như những dòng nước mắt đầm đìa khóc thương cho những người bỏ đi và cho cả những người ở lại để đón chờ một cuộc đổi đời oan nghiệt.

Tháng Ba, những đám mây la đà như những vành khăn tang phủ trên đầu Phố Núi.

Những người lính chiến bao nhiêu năm trấn thủ sống chết với vùng địa đầu tam biên, giờ phải hốt hoảng ra đi, không kịp nói với Pleiku một lời giã biệt, kéo theo những người dân hiền lành và cả những cô cậu học trò đã từng lớn lên bằng hơi thở của núi rừng, một thời tuổi thơ được vỗ về bằng tiếng đạn bom và cả những bài thơ rất tình ngợi ca Phố Núi.

Chính hơi thở của các nàng thiếu nữ Pleiku, cùng dư âm đạn bom và cả những bài thơ của những nhà thơ lính bị lưu đày, đã dệt thành những mảng mù sương giăng giăng trên Phố Núi, như muôn đời ôm lấy trái tim của những người Pleiku lưu lạc, để cho lòng lưu luyến mãi khôn nguôi...

Tháng ba 1975, Pleiku đứt đi từng đoạn ruột. Từ trời cao nhìn xuống, dòng người “di tản” kéo dài bất tận trên Tỉnh Lộ 7B, trông như những khúc ruột đứt ra từ Phố Núi. Và có biết bao nhiêu người Pleiku đã không đi hết con đường tỉnh lộ kinh hoàng này. Thân xác gởi lại nơi nào giờ cũng đã trở thành tro bụi. Bao nhiêu đứa con thơ lạc mất vòng tay của mẹ, nếu có còn sống đến hôm nay cũng đã trở thành xa lạ. Những người may mắn sống sót, hầu hết đã ra đi, tản mác khắp bốn phương trời.

Tháng ba, Phố Núi phủ lên một màu ảm đạm, hoang tàn, chia ly,chết chóc, tù đày.

Pleiku đã chết. Người thắng cuộc đã tô son trét phấn trên thi thể của Pleiku để Phố Núi dù có rực rỡ đèn màu, có vang dậy tiếng cồng chiêng trong các bản làng, Phố Núi cũng sẽ chẳng bao giờ là Phố Núi của ngày xưa, của chúng ta, những người có mặt hôm nay.

Tháng Ba, nỗi nhớ có quay về Phố Núi, thì vẫn là một Phố Núi ngày xưa. Mãi mài vẫn còn trong tâm tưởng, ký ức của mỗi người trong chúng ta hôm nay.

Không biết có bao nhiêu nước mắt nào đổ xuống để có thể giải oan cho cuộc biển dâu này của những người Phố Núi.

Hôm nay, Tháng 3, đúng 40 năm, ở một nơi xa xăm, muôn trùng cách biệt với quê nhà, những người Pleiku xa xứ từ khắp nơi qui tụ về đây. Từ các anh phi công , các anh lính chiến Biệt Động Quân, Thiết Giáp, Bộ Binh, những công chức, thầy cô giáo, những cô cậu học trò và cả những người từng sống, từng lớn lên từ Phố Núi. Tất cả đang ngồi quanh đây với biết bao nỗi nhớ đang quay về.

Nhớ bầu trời một thời bay bổng, nhớ núi rừng, nơi các chiến trường của một thuở tung hoành ngang dọc, cùng sống chết với anh em đồng đội, nhớ những con đường góc phố bám đầy đất đỏ, nhớ những mái trường Pleime, Pleiku, Phạm Hồng Thái, Minh Đức, Bồ Đề, Nông Lâm Súc…, nhớ Thành Pleime, phi trường Cù Hanh, căn cứ Biển Hồ, nhớ Đồi Đức Mẹ ... và nhớ rạp ciné Diệp Kính, Thanh Bình, rạp Diên Hồng, những quán cà phê Lính, cà phê Văn, Dinh Điền, Bắc Hương , Thiên Lý...

Những người lính Pleiku ngày nào bây giờ đã trên tuổi 70 và những cô học trò Phố Núi ngày xưa bây giờ cũng đã là bà nội bà ngoại,

Xa Pleiku đã nửa đời
Sao như vẫn ngỡ hôm qua hỡi người
Chào em còn một nụ cười
Sao trông như khóc bên trời nhớ nhau
Chào Pleiku trước và sau
Trong tôi còn đó nỗi sầu thiên thu
Chào Pleiku sương khói mù
Chính là chào phiến lá thu lìa cành.. (*)

Thời gian như những ngọn gió làm cho các phiến lá vàng lần lượt lìa cành. Ta gặp nhau hôm nay, để thấy trong ta vẫn còn có những vết thương không bao giờ thành sẹo, và để thêm một lần cho nỗi nhớ quay về. Để nếu mai này có là một chiếc lá lìa cành thì xin không rơi giữa hư không mà rơi xuống giữa lòng Phố Núi. Phố Núi mênh mông, huyền thoại trong tâm tưởng của mỗi người...

Pleiku ơi! Tháng Ba , xin hãy cho những người đã không giữ được Phố Núi ngày nào được nói một lời tạ lỗi.

Và xin Pleiku ghi lấy tấm lòng của những người xa xứ, cứ mỗi độ tháng Ba, là bao nỗi nhớ lại quay về, với tấm lòng da diết những yêu thương!

(*) Trích thơ của người lính Biệt Kích Túy Hà

Natuna và câu chuyện 'có vay, có trả'

Theo Người Việt-03-05- 2015 5:14:23 PM
Ken Phạm

(Bài viết cho mục Hồi Ức 30 tháng Tư và Đời Tị Nạn) 

Nhân đọc một tin vắn ngày 26/02/2015. 'Mới đây Indonesia phải nâng cấp một căn cứ không quân trên đảo Natuna, phía nam Biển Đông để có thể bố trí tiêm kích Su-27 và Su-30, kể cả Su-35 đang đàm phán mua của Nga.'

'Việc bố trí tiêm kích Sukhoi trên đảo Natuna là phản ứng của Indonesia trước yêu sách của Trung Quốc đòi chủ quyền hầu hết Biển Đông qua bản đồ đường lưỡi bò lan đến tận Natuna của Indonesia.'

Tự nhiên đọc đến địa danh Natuna, bỏ tờ báo xuống, những hình ảnh của tháng 5 năm xưa như quay lại trong tôi.


Bản đồ khu vực có đảo Natura trên biển Đông. (Hình: Gooogle Map)

Thắm thoát đã hơn 30 năm, tôi rời đảo này sau hơn một tuần cư trú để qua đảo Kuku, trước khi 'đáp' qua hòn đảo nổi tiếng là Pulau Galang. Từ Pulau Galang, thiên hạ chỉ cần đi tàu nhỏ chừng 1 giờ là đến Singapore để đi định cư.

Natuna, là một trong 272 hòn đảo của Indonesia. Là một hòn đảo quân sự, Natuna có một phi trường quân sự khá lớn và là 'tiền đồn' của Indonesia trên biển Đông. Dân chúng đa số là ngư phủ hay làm nghề nông. Và đa số là theo đạo Hồi, không ăn thịt heo.

Năm 1984, chúng tôi ghé đến Natuna và cư ngụ ngay ở cảng Natuna. Năm xưa, Natuna còn rất đơn sơ. Cảng Natuna chỉ là một bãi tàu đơn sơ với những chuyến tàu liên lạc với Jakarta vài lần một tuần.

Sau cuộc hải hành mệt mỏi, được nghỉ chân ở Natuna, chúng tôi đã trải qua những giây phút nghỉ ngơi, thư giãn thật nhẹ nhàng, ngay trên ghe của mình. Được cung cấp gạo, nước ngọt, nhưng thiếu thịt thà, chúng tôi tổ chức lại cuộc sống nấu ăn hàng ngày.

Để giải quyết nhu cầu chất đạm trong khi có những đàn cá bơi tung tăng trong làn nước trong, sáng kiến của dân ghe là dùng mùng ngủ, cột dây ở bốn góc ngoài. Bốn góc trong thì cột đá cho mùng nặng, chìm xuống nước. Sau đó thả mùng ngược xuống nước và chỉ đợi đàn cá bơi vào giữa mùng là kéo dây lên là đủ cá ăn trong ngày.

Ở Natuna, tôi đã chứng kiến một sự việc hơi kỳ lạ. Có thể dùng sự việc này để chứng minh câu 'ở đời có vay có trả.'

Sự việc đó như sau: Khi ở Natuna được vài ngày thì chúng tôi bị đám cảnh sát nơi đó 'vòi vĩnh' là phải chung tiền gọi là 'phí nhập cảnh' vào Natuna. Nếu không, sẽ không được cho ở lại, đi đâu thì đi! Trước viễn cảnh 'ra khơi' bắt buộc này, em nào cũng run phát rét. Và một nhóm, thông thạo tiếng Anh được cử lên thương lượng với đám cảnh sát này.

Hai người lớn tuổi trong đó có một người từng đi tu nghiệp bên Mỹ và tôi được cử ra điều đình về số vàng mà cảnh sát đòi là một chỉ vàng một người. Trên ghe có 49 người, vị chi là 49 chỉ vàng. Vấn đề là khi ghe chúng tôi đi từ Bến Tre năm xưa thì chỉ sau 2 ngày trên biển, chúng tôi đã bị 'tóm gọn' bởi đoàn ghe đánh cá Tiền Giang.

Nói là ngư dân đánh cá Tiền Giang thì không biết có phải không nhưng cứ nhìn những ngư dân này, đầu cột khăn, xâm mình và trang bị súng M16 và cả súng phóng lựu M79 và cách họ gọi nhau trên biển bằng cách bắn súng lên trời khi biển lặng, trời quang thì mấy ai nghĩ là đó là ngư dân?

Những ngư dân này ròng ghe của chúng tôi bằng dây , kéo đi theo họ đánh cá trên biển. Khi biển lặng, sóng êm, không gió và bị kéo ghe đi như vậy, trong ghe cực nóng, thiên hạ nhào xuống biển
tắm.

Nước biển ở dây không còn là màu xanh đậm nữa mà phải nói là màu gần như màu đen vì độ sâu của biển. Sự tắm táp của cư dân trên ghe chấm dứt sau đó khi thiên hạ thấy ghe đánh cá kéo lên những con cá mập lớn hãi hùng. Chắc cũng cỡ mấy con trong phim Jaws của Spielberg vậy.

Cá bị kéo lên ghe đánh cá và ngư dân làm thịt liền để ướp muối, đá tại chổ. Máu me, phần còn lại của cá đã xử lý, theo nước rửa đổ xuống biển.

Các bạn có thể tưởng tượng cảnh cá cá mập đói dưới biển, náo loạn cả một vùng để dành ăn!

Chịu không thấu với cái nóng và ai cũng nung nấu ý chí ra đi nên một người được cử bơi qua (ban đêm khi cá mập …ngủ ?) điều đình với ghe đánh cá.

Điều đình xong, ghe được cấp nhiên liệu và thức ăn để tiếp tục hải trình thì mấy ai còn chỉ vàng bạc nào nữa để nạp cho cảnh sát Natuna?

Từ 49 chỉ vàng được cảnh sát Natuna “mủi lòng” rút xuống còn 10 chỉ vàng. Mà 10 chỉ, góp tới, góp lui cũng không đủ, chỉ được vỏn vẹn 6 chỉ, theo tôi nhớ. 6 chỉ vàng được góp thì 2 anh trong nhóm phân công tôi ở lại ghe để có phái đoàn nhân đạo nào đến thì tôi liệu bề cà lăm tiếng Anh với họ. Còn họ lên gặp nhóm cảnh sát. Sau đó, họ về ghe và thông báo đã thương lượng xong và sáng hôm sau, 10 giờ sẽ có tàu của Cao Uỷ LHQ qua đón chúng tôi qua đảo Kuku như đã nói. Đêm đó, hai thầy trò kia lên bờ đi chơi.

Đột nhiên, từ 5 giờ sáng, anh trưởng nhóm đi điều đình với cảnh sát Natuna bị đau bụng, ói mửa và đau đớn kinh hoàng chịu không nổi. Hỏi ra thì anh ta có chứng đau ruột thừa. Anh ta đau cực đỉnh mà cảnh sát Natuna không chịu đưa đương sự vào bệnh viện quân sự của Natuna vì lý do bảo mật, chúng tôi bất lực nhìn anh ta lăn lộn.

Trong giờ phút đó, việc phải để đương sự ở lại Natuna trên ghe đã được đề cập đến. Vì để lên tàu lớn, từng người chúng tôi phải bám dây thừng do tàu lớn thả xuống để leo lên thì có khi còn chưa xong vì biển lại động thì làm sao đỡ nổi anh ta lên? Ở lại thì an toàn hơn và anh ta sẽ trong chuyến sau khi có ghe khác đến.

Thế là bà con đến chia tay với anh ta. Đột nhiên, anh ta khóc và nói lớn « Tôi xin lỗi bà con. Hôm qua, tôi đã điều đình với cảnh sát Natuna và chỉ đưa có 4 chỉ, còn 2 chỉ thì tôi bỏ túi. Bây giờ, Trời phạt tôi. "

Cả ghe quá sức sửng sốt với lời tự thú này. Vì cả ghe đã cùng nhau chia ngọt sẻ bùi, gian khổ trong suốt thời gian qua và không ngờ lại có người thủ lợi trên xương máu của đồng bào như vậy.

Sau đó, cảnh sát Natuna cũng chấp nhận chở anh ta vào bệnh viện quân sự, không biết có phải do anh ta nhả tiền ra hay không hay do ' tình cảm làm ăn'. Sau này chúng tôi mới biết là ghe nào ghé Natuna cũng bị vòi vĩnh như vậy và dù không có tiền đưa thì ngày đó, cũng có tàu của LHQ ghé qua đón khi được báo tin.

Một tháng sau, tôi gặp lại anh ta, óm nhom sau cuộc giải phẫu, trên đảo Pulau Galang. Kết cuộc như vậy là vẹn toàn.

Hơn 30 năm sau, ngồi ngẫm nghĩ lại những gì xẩy ra, tôi chợt nhận thấy là quả thật, có những việc mình không lý giải được.

Chỉ nghĩ là trong cuộc sống, mọi người sống cố gắng với cái Tâm của mình là điều hay nhất. Làm những điều không hay thì có khi nhận lại sự có vay có trả trong cuộc sống này hay cuộc sống
khác chăng ?

Đây cũng là một trong những nguyên tắc, của tất cả mọi tôn giáo, kêu gọi mọi người làm lành, lánh dữ vậy.


Paris, tháng 2, 2015
Kỷ niệm ghe SS-1229
Bến Tre - Natuna tháng 5, 1984

Nhà ngoại giao Bắc Hàn mang lậu 27 kg vàng vào Bangladesh


DHAKA, Bangladesh (AFP) - Nhân viên quan thuế Bangladesh hôm Thứ Sáu tịch thu gần 27 kg vàng, trị giá khoảng $1.7 triệu, từ một nhà ngoại giao Bắc Hàn sau khi ông này định đưa lậu vào Bangladesh bằng cách sử dụng quyền đặc miễn ngoại giao.

 
Phi trường Dhaka nơi xảy ra vụ bắt giữ. (Hình: Getty Images)

Giới chức cảnh sát và quan thuế tại phi trường Dhaka đã chặn nhà ngoại giao Son Young Nam, đệ nhất tham vụ tòa Ðại Sứ Bắc Hàn ở Dhaka, hồi tối ngày Thứ Năm sau khi ông từ Singapore đến nơi đây.

“Ông ta không chịu cho phép đưa các túi xách qua máy rọi an ninh, lấy lý do ông có sổ thông hành đỏ và có quyền đặc miễn ngoại giao,” theo Moinul Khan, người đứng đầu phòng tình báo của quan thuế Bangladesh.

Ông Khan nói rằng giới chức ngoại giao này được thông báo là vàng nặng hơn 2 kg không được phép mang vào.

“Sau hơn 4 giờ tranh cãi, ông ta bằng lòng để bị khám xét và chúng tôi tìm thấy các thỏi vàng và đồ trang sức bằng vàng, nặng 26.795 kg (59.1 lbs), trị giá 130 triệu taka (khoảng $1.67 triệu), từ trong túi xách của ông,” Khan cho biết thêm.

Nhà ngoại giao này, đi cùng với đại sứ Bắc Hàn tại Bangladesh trên chuyến bay từ Singapore, “đã được thả ra theo Công Ước Geneva, nhưng vàng bị tịch thu,” theo ông Khan.

Cơ quan quan thuế Bangladesh đang chuẩn bị truy tố nhà ngoại giao Bắc Hàn theo luật chống buôn lậu rất nghiêm ngặt của quốc gia này. Nếu bị kết án, người này có thể bị tù chung thân.

Vụ tịch thu xảy ra sau khi giới chức quan thuế địa phương nói rằng hai phi trường quốc tế ở Bangladesh phát giác ra nhiều vụ buôn lậu vàng thời gian gần đây, tịch thu khoảng 1 tấn vàng trong 22 tháng qua, so với chỉ 15 kg cùng thời gian trước đó.

Vàng chuyển lậu vào Bangladesh sau đó thường được đưa sang Ấn Ðộ. (V.Giang)
03-06- 2015 3:05:06 PM 

Trung Quốc: Bắn chết hung thủ đâm 9 người ở Quảng Châu

QUẢNG CHÂU, Trung Quốc (AFP) - Một người đàn ông bị công an bắn chết và một người khác bị bắt giữ sau khi có cuộc tấn công bằng dao ở một nhà ga tại thành phố Quảng Châu, thủ phủ tỉnh Quảng Ðông, khiến chín người bị thương hôm Thứ Sáu, theo nguồn tin công an.

 
Vụ tấn công xảy ra tại một nhà ga ở Quảng Châu. (Hình: Getty Images)

Vụ tấn công ở nhà ga chính của thành phố Quảng Châu xảy ra trong lúc có cuộc họp của quốc hội Trung Quốc tại Bắc Kinh và chỉ một năm sau khi có vụ đâm chém hàng loạt tại một nhà ga ở Côn Minh, khiến 31 người chết và bốn kẻ tấn công bị hạ sát.

“Có người cầm dao đâm vào đám đông ở Quảng Châu,” theo tin từ văn phòng cơ quan an ninh địa phương. Công an bắn chết một nghi can và bắt giữ một người khác, theo nguồn tin trên.

Không có thêm chi tiết nào khác được công bố và công an Quảng Châu chưa trả lời gì cho các cơ quan truyền thông quốc tế.

Nguồn tin địa phương nói rằng một trong hai nghi can gây thương tích ở tay phải của một công an viên.

Hồi Tháng Năm vừa qua đã xảy ra một vụ tấn công tương tự ở cùng nhà ga khiến sáu người bị thương, kẻ tấn công cũng bị bắn chết trong lần đó.

Giới hữu trách Trung Quốc cáo buộc là thành phần đòi ly khai ở Tân Cương, nơi có nhiều người theo Hồi Giáo sinh sống, đã gây ra cuộc tấn công hồi Tháng Ba năm ngoái tại thành phố Côn Minh, thủ phủ tỉnh Vân Nam, nằm về phía Tây Nam Trung Quốc.

Có hàng trăm người thiệt mạng tại Tân Cương hồi năm ngoái, phần lớn là người Hồi Giáo gốc thiểu số Uighur, theo các cơ quan tranh đấu nhân quyền. (V.Giang)

03-06-, 2015 2:54:28 PM

Càng gian, leo càng cao

* Chuyện Vỉa Hè

Tại cái xứ Việt Nam “kinh tế thị trường định hướng XHCN”, các chức của chế độ càng gian ác thì leo càng cao trên nấc thang quyền lực.

 Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải trực tiếp kiểm tra tiến đọ thi công công trình
Chủ tịch tỉnh (bây giờ là bí thư tỉnh ủy) Hà Tĩnh Võ Kim Cự (giữa) cùng với Phó thủ tướng Hoàng Trung Hải (đội mũ) trong một chuyến thị sát khu kỹ nghệ Vũng Áng đầy tai tiếng ưu đãi đặc biệt cho đầu tư Trung Quốc để ăn hối lộ. (Hình: VNEconomy)

Ngày 26/2/2015, Thông Tấn Xã Việt Nam (TTXVN) loan báo “Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Tô Huy Rứa đã trao quyết định của Bộ Chính trị điều động nguyên Bí thư Tỉnh ủy Hà Tĩnh Nguyễn Thanh Bình giữ chức vụ Phó trưởng Ban Tổ chức Trung ương và quyết định chuẩn y Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Tĩnh Võ Kim Cự làm Bí thư Tỉnh ủy Hà Tĩnh”.

Bản tin viết tiếp rằng “Phát biểu tại buổi lễ, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Tô Huy Rứa đánh giá cao những kết quả nổi bật mà Hà Tĩnh đã đạt được trên tất cả các lĩnh vực trong thời gian qua. Đạt được kết quả đó là có sự đóng góp không nhỏ của các ông Nguyễn Thanh Bình và Võ Kim Cự trong quá trình điều hành, chỉ đạo.”

Việc Bộ Chính trị điều động ông Nguyễn Thanh Bình giữ chức Phó trưởng Ban Tổ chức Trung ương và chuẩn y ông Võ Kim Cự giữ chức Bí thư Tỉnh ủy Hà Tĩnh nhiệm kỳ 2010-2015 được mô tả là “ghi nhận, đánh giá cao của Trung ương đối với những đóng góp của hai ông đối với Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Hà Tĩnh”.

Đầu năm ngoái, báo VNEconomy đã có một bài viết ca ngợi ông Võ Kim Cự là “có dấu ấn rất lớn trong quá trình triển khai xây dựng khi kinh tế Vũng Áng” dành rất nhiều ưu đãi ngoại lệ cho tập đoàn Trung Quốc Formosa. Hầu hết trong khoảng 10,000 người tham dự xây dựng nhà máy luyện thép và các cơ sở khác trong dự án này là người Trung Quốc.

Mai kia, số người làm việc tại đây sẽ lên khoảng 15,000 người (không mấy ai tin người Việt Nam chen vào được) mà tập đoàn Formosa đang vận động xây dựng một khu gia cư cho họ với gia đình cư ngụ lên tới 60,000 người. Nếu nó được chấp thuận sẽ là một thành phố Trung Quốc biết lập ở Hà Tĩnh, vùng đất được mô tả là nhậy cảm quốc phòng.

Đã có nhiều lời dị nghị về dự án của Formosa từ địa điểm an ninh quốc phòng đến nhà đầu tư đòi hỏi lập “đặc khu” để họ có quyền hạn biệt đãi nhiều thứ. Hàng ngàn gia đình nông dân, ngư dân bị nhà cầm quyền Hà Tĩnh cướp nhà cướp đất để trao cho tập đoàn Formosa từng biểu tình chống đối nhưng đều không đi tới đâu.

Mới đây, dư luận mới chỉ chú ý đến bản kết luận của Thanh tra Chính phủ cáo buộc nhà cầm quyền tỉnh Hà Tĩnh nhiều tội từ cấp phép đầu tư 70 năm, thay vì 50 năm, cho Formosa; chỉ định thầu rất bất thường, cấp giấy phép không đúng “quy hoạch”; không đòi Formosa nộp 136 tỉ đồng tiền thuế tài nguyên và phí bảo vệ môi trường; chọn một số chủ đầu tư cho một số dự án “không chuyên môn”; lại còn “gây thất thoát về kinh tế cho nhà nước hơn 493 tỉ đồng”; “buông lỏng quản lý, sử dụng sai đất đai tại Hà Tĩnh suốt một thời gian dài” v.v...

Đó chỉ là một số trong những điều được Thanh Tra Chính phủ nêu ra hài tội hai ông Nguyễn Thanh Bình và Võ Kim Cự. Tuy nhiên, có lẽ được “chống lưng” từ trên cao, ông Võ Kim Cự cho thanh tra 'gà nhà' của tỉnh họp báo phản bác những điều bị cáo buộc là “chưa chính xác”.

Ai cũng biết có dự án là có tiền “lại quả”. Dự án càng lớn, lại quả càng lớn. Điều này dễ thấy khi các quan chức CSVN khắp nơi, từ nhỏ đến lớn đều đua nhau lập dự án để có cơ hội ăn bẩn. Dự án đầu tư của Formosa hơn chục tỉ đô la thì chẳng lẽ tiền “lại quả” chỉ có vài triệu đô la?

Ông Võ Kim Cự, năm nay 58 tuổi, từng bị tố cáo nhiều tội. Từ một kẻ ít học, mua bằng dỏm từ “bổ túc công nông” đến bằng thạc sĩ từ đại học dỏm ở Mỹ, nhờ giỏi luồn lách chạy chọt mà leo từ “cán bộ phong trào xã đoàn”  huyện Cẩm Xuyên lên tới bí thư tỉnh ủy. Chính xác, về mặt chữ nghĩa thì ông này chưa học hết cấp ba.

Hồi năm 2010, khi ông Cự mới được ông Nguyễn Tấn Dũng cử làm phó chủ tịch tỉnh Hà Tĩnh, một  người dân địa phương đã phổ biến một bài tố cáo ông Cự rằng ‘Khi lên làm đoàn xã rồi đến đoàn huyện ở Cẩm Xuyên, ông có một lần bị kỉ luật vì làm cho một cô giáo mầm non bầu bí.’

Năm 1991, sau khi Hà Tĩnh tách ra từ Nghệ Tĩnh. Hà Tĩnh thành lập công ty khai thác Titan liên kết với Úc có tên là Khoảng Sản Hà Tĩnh, tiền thân của tổng công ty Khoáng Sản Thương Mại bây giờ. Trong quá trình làm ở Mitraco, ông Cự theo học lớp đại học tại chức luật được tổ chức ở thị xã Hà Tĩnh năm 1995-1997.

Khi đó ông Cự là lớp trưởng, một người có vai trò tổ chức đưa đón thầy cô giáo và bố trí nơi ăn, chỗ nghỉ cho các thầy cô về dạy tại chức. Nên khi tốt nghiệp ông Cự đạt loại cao, nhiều người thắc mắc thì có thầy giáo đã trả lời: ‘Chúng tôi nhờ có anh Cự giúp đỡ trong khi đi dạy ở đây nên chúng tôi cho anh điểm cao là chuyện dễ hiểu.’

Sau khi có bằng đại học tại chức, ông Cự lên giám đốc rồi công ty chuyển thành tổng công ty nên ông mang danh tổng giám đốc. Sau đó vài năm ông lên chức chủ tịch UBND tỉnh Hà Tĩnh. Có nghịch lý là trong những năm ông Cự làm giám đốc Mitraco, nhiều dự án được vẽ ra và không thu được gì. Cuối cùng, các dự án này đều được bán dần để trả nợ (mà nhiều người cho là ông dùng tiền để chạy chức phó chủ tịch tỉnh).

Trong khi làm phó chủ tịch, ông học Thạc sĩ MBA theo chương trình liên kết với đại học Wester Pacific University. Trường này cũng nằm trong danh sách những Scam Universities mà báo chí đã từng nêu. Trớ trêu hơn, ông lại là sinh viên ‘thủ khoa’ của khóa học này.

Chỉ nhìn vào trường hợp tiến thân điển hình của ông Vũ Kim Cự, người ta có thể thấy trong cái chế độ CSVN, càng gian, càng leo cao. (TN)

03-05- 2015 6:29:11 PM
Tư Ngộ/Người Việt

Đại sứ Mỹ: 'Sẵn sàng giúp Việt Nam bay cao và bay xa'

HÀ NỘI (NV) .- Đó là một trong những điều mà ông Ted Osius, Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam nhấn mạnh khi trò chuyện với sinh viên Đại học Quốc gia Hà Nội hôm 5 tháng 3, 2015.


Đại sứ Mỹ Ted Osius bắt tay sinh viên Đại học Quốc gia Hà Nội trước cuộc nói chuyện ngày 6/3/2015. (Hình:  HOANG DINH NAM/AFP/Getty Images)

Buổi trò chuyện vừa kể là một trong những hoạt động kỷ niệm 20 năm Việt Nam – Hoa Kỳ thiết lập quan hệ ngoại giao.

Ông Osius lập lại sự kiện ông Trương Tấn Sang, Chủ tịch Nhà nước Việt Nam thăm Hoa Kỳ năm 2013 để thiết lập “quan hệ đối tác toàn diện”. Ông cũng lập lại nhận định của ông John Kerry, Ngoại trưởng Hoa Kỳ, theo đó, cả Hoa Kỳ và Việt Nam đều đã nỗ lực để quan hệ hai bên tốt hơn, nhằm thay đổi lịch sử, thay đổi tương lai. Đó cũng là lý do ông Osius khẳng định, “không có điều gì là không thể”!

Ông Osius tiết lộ nhiều dự định giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Đó là chuyện ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng CSVN sẽ thăm Hoa Kỳ trong năm nay. Theo ông Osius, những chuyến thăm như vậy là một phương thức để duy trì đối thoại cởi mở và thẳng thắn về những vấn đề mà cả hai bên phải đối mặt.

Trong tháng này, quân đội Hoa Kỳ và Việt Nam sẽ cùng thực hiện các hoạt động cứu trợ nhân đạo và cứu trợ thảm họa trong khuôn khổ chương trình Thiên thần Thái Bình Dương. Ngoài ra, ông  Trần Đại Quang, Bộ trưởng Công an Việt Nam sẽ sang thăm Hoa Kỳ để bàn nhiều vấn đề, trong đó có nhân quyền.

Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam nêu ra những triển vọng mới trong quan hệ giữa hai bên qua một số câu hỏi, chẳng hạn: Liệu Hoa Kỳ có thể trở thành quốc gia dẫn đầu về đầu tư vào Việt Nam giống như Hoa Kỳ đang dẫn đầu về đầu tư vào ASEAN? Liệu Việt Nam có thể cải cách các quy định về thị thực để tạo sự thuận lợi hơn cho hoạt động kinh doanh tại Việt Nam?..

Hồi giữa tháng 1, ở hội thảo “Quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ: 20 năm thành công hơn nữa” do Học viện Ngoại giao Việt Nam, Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam, Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược quốc tế của Hoa Kỳ (CSIS) và Đại học Portland của Hoa Kỳ phối hợp tổ chức ở Hà Nội, ông Osius cũng đã từng nhấn mạnh, Hoa Kỳ muốn giúp Việt Nam trở thành một quốc gia lớn mạnh, giàu có và độc lập, tôn trọng luật pháp và nhân quyền.

Lúc đó, ông Hà Kim Ngọc. một Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam, khẳng định, sự can thiệp sâu hơn của Hoa Kỳ sẽ “có lợi cho toàn khu vực” trong những năm sắp tới.

Cũng thời điểm vừa kể, Hoàn Cầu Thời báo của Trung Quốc đăng bài “Đòn bẩy thương mại có thể ngăn chặn Việt Nam quay sang với Mỹ”. Dựa trên ý kiến của ông Chu Phương Ngân, làm việc tại Viện Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế Quảng Đông, cảnh báo, Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam vừa nói với Thủ tướng Việt Nam rằng, tại vòng đàm phán mới về Hiệp định Tự do thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP) với Việt Nam, Hoa Kỳ có thể mềm dẻo hơn để hoàn tất thương lượng vào tháng ba và trình Quốc hội Hoa Kỳ thông qua vào tháng năm.

Lịch sử đã chứng minh “hàng triệu lần” rằng Hoa Kỳ sẽ không bao giờ nhượng bộ trong đàm phán mà không có lý do, đặc biệt là khi Hoa Kỳ đang ở thế thượng phong. Trong trường hợp này, sự nhượng bộ của Hoa Kỳ vừa là “một chiến thuật hỗ trợ cho các lợi ích nhỏ mọn”, vừa là “một tính toán chiến lược có thể tác động đến toàn cảnh chính trị khu vực”.

Theo Hoàn Cầu Thời báo, Việt Nam hy vọng TPP sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và về lâu dài, muốn giảm bớt sự phụ thuộc vào nhập cảng từ Trung Quốc. Mặt khác, biển Đông đang là lý do thúc đẩy Việt Nam tìm chỗ “đỡ đầu” và Hoa Kỳ được xem là lựa chọn tốt nhất. Hoàn Cầu Thời báo cho rằng, Hoa Kỳ muốn tạo ra các cuộc cách mạng màu tại Việt Nam nhằm sử dụng Việt Nam giống như Philippines – “những con tốt để kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc”.

Vì vậy, năm nay là năm quan trọng đối với quan hệ ba bên Trung Quốc – Hoa Kỳ - Việt Nam. Việc “lôi kéo Việt Nam” của Hoa Kỳ sẽ “dễ dàng phá vỡ khuôn khổ mong manh về an ninh trong khu vực, gây ra những nguy cơ đối với sự toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc”.

Hoàn Cầu Thời báo lên án Hoa Kỳ “trơ tráo can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác” và cho rằng Trung Quốc “có thể sử dụng những phương tiện dễ được chấp nhận hơn để giúp Việt Nam thu được những mối lợi từ quan hệ song phương tích cực”. Đồng thời cảnh cáo “nếu Việt Nam đứng về phía Hoa Kỳ để chống lại Trung Quốc, Trung Quốc cũng sẽ có những biện pháp trừng phạt”.

Hoàn Cầu Thời báo khuyến cáo, để ngăn chặn Việt Nam nghiêng về phía Hoa Kỳ, Trung Quốc cần tỏ ra mềm mỏng hơn để xoa dịu căng thẳng ở biển Đông. Nếu không, khi căng thẳng gia tăng, có nhiều khả năng Việt Nam lúng túng và trở thành một đồng minh của Hoa Kỳ.

Nhà cầm quyền Bắc Kinh được khuyên là cần “triệt để khai thác các lợi thế truyền thống như là đối tác thương mại chính của Việt Nam và sử dụng các biện pháp kinh tế đa dạng, đặc biệt là đầu tư, nhằm thúc đẩy phát triển cơ sở hạ tầng và sức mạnh kinh tế của Việt Nam”.  Vì “các mối lợi thực sự sẽ làm cho Việt Nam trở nên sáng suốt để cân nhắc giữa theo và chống khi đưa ra các quyết định liên quan đến Trung Quốc và Hoa Kỳ”. (G.Đ)

03-06- 2015 2:11:22 PM