Saturday, April 29, 2017

Các trường quốc tế chống những môn học bắt buộc do Bộ Giáo Dục CSVN ấn định

Các trường quốc tế chống những môn học bắt buộc do Bộ Giáo Dục CSVN ấn định
Chương trình học cho các học sinh Việt Nam tại các trường quốc tế trong nước sẽ phải bao gồm những môn bắt buộc do Bộ Giáo Dục Và Đào Tạo CSVN ấn định.
Đó là điều khoản trong một dự thảo nghị định về giáo dục, đang bị nhiều đại diện của các trường quốc tế ở Việt Nam chống đối. Báo mạng VietNamNet Bridge hôm Thứ Sáu 28/04, dẫn lời Phó giáo sư Tiến sĩ Hồ Thúy Ngọc từ Đại học Ngoại Thương Hà Nội, nhận định rằng đòi hỏi về các môn học bắt buộc sẽ là một rào cản để học sinh Việt Nam được theo học những chương trình học nước ngoài.
Nói chuyện tại một buổi hội thảo về dự thảo Nghị định về hợp tác, đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục diễn ra trước đây trong tháng 4, Tiến sĩ Ngọc cho biết các đối tác nước ngoài tin rằng nội dung bắt buộc do nhà chức trách CSVN ấn định sẽ bóp méo chương trình học sẵn có của họ. Bà nói rằng, họ là người trao bằng cho sinh viên tốt nghiệp, cho nên họ muốn sinh viên theo sát chương trình học của trường.
Ông Nguyễn Xuân Đậu từ Đại Học Kinh Doanh Và Công Nghệ thì cho biết, các đối tác nước ngoài tỏ ra không quan tâm đến chương trình học của Việt Nam. Một đại diện nước ngoài từ Diễn Đàn Doanh Nghiệp Việt Nam cũng cho biết, đòi hỏi về các môn học bắt buộc của Việt Nam rất khó áp dụng đối với họ.
Huy Lam / SBTN

Nhà máy Formosa sửa chưa xong đã nạp nhiên liệu đòi chạy thử

Nhà máy Formosa sửa chưa xong đã nạp nhiên liệu đòi chạy thử
Ban giám đốc nhà máy thép Formosa Hà Tĩnh đang yêu cầu giới hữu trách CSVN cho vận hành thử một phần lò cao vào đầu tháng 5, mặc dù hạng mục sửa chữa sau cùng và quan trọng nhất của nhà máy thép dự trù phải đến cuối tháng 6 mới hoàn tất.
Truyền thông trong nước cho hay, hôm 27 tháng 4, một đoàn công tác của Bộ Tài Nguyên Và Môi Trường do Bộ trưởng Trần Hồng Hà dẫn đầu đã đến làm việc tại nhà máy Formosa Hà Tĩnh, nơi vốn là đầu mối của thảm họa môi trường lớn nhất trong lịch sử Việt Nam xảy ra cách đây một năm. Đoàn của ông Trần Hồng Hà đến kiểm tra, sau khi nhận được đề nghị của Formosa cho vận hành thử nghiệm xưởng luyện thép và lò cao số 1. Formosa báo cáo sửa chữa được 52 trong 53 lỗi vi phạm môi trường. Còn hạng mục chuyển đổi công nghệ dập cốc ướt sang dập cốc khô và một phần hồ sinh học dự trù sẽ hoàn thành vào ngày 30 tháng 6. Tuy nhiên, ông Trần Nguyên Thành, chủ tịch hội đồng quản trị Formosa Hà Tĩnh, đặt giới hữu trách Việt Nam trước chuyện đã rồi, khi cho biết là vào ngày 19 tháng 4, công ty đã nạp nhiên liệu vào lò cao. Theo ông Thành, việc đốt lò phải hoàn thành trong 15 ngày sau khi nạp nhiên liệu, nếu không thì sẽ phát sinh một số vấn đề.
Theo tường thuật của truyền thông trong nước thì các giới chức của Bộ Tài Nguyên và tỉnh Hà Tĩnh đều tỏ ra chưa an tâm về việc giải quyết chất thải của Formosa. Ông Phan Lam Sơn, phó giám đốc Sở Tài Nguyên Hà Tĩnh, chỉ ra rằng hiện Formosa ký hợp đồng giải quyết việc xả chất thải với công ty Phú Hà chỉ trong thời hạn 3 tháng. Ông Trần Hồng Hà thì cho rằng cần phải nghiên cứu xem tại sao Formosa không xả nước thải ra sông mà phải thải ra biển, và tại sao không thải bề mặt mà thải ngầm. Được biết đoàn công tác của Bộ Tài Nguyên sẽ họp để quyết định về việc cho Formosa vận hành thử nghiệm trước khi hoàn tất sửa chữa.
Huy Lam / SBTN

Bị can 29 năm chết rồi mới đình chỉ điều tra vụ án

Bị can 29 năm chết rồi mới đình chỉ điều tra vụ án
Ông Chinh trong ngày lễ cưới của con. Ảnh: Tuổi Trẻ
29 năm chịu oan sai tủi nhục vì cái án “tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa”, mãi tới sau khi chết 6 năm mới được đình chỉ vụ án.
Ngày 26.04.2017 Viện trưởng Viện Kiểm Sát Nhân Dân (VKSND) tỉnh Vĩnh Long cho biết đã ra quyết định đình chỉ vụ án với ông Nguyễn Tùng Chinh (sinh 1950, nguyên Chánh văn phòng Công an huyện Duyên Hải, tỉnh Cửu Long, nay là tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh), sau gần 30 năm mang thân phận bị can trong vụ án oan sai.
Lý giải nguyên nhân chậm trễ trong việc minh oan cho người dân, Viện Kiểm Sát vòng vo giải thích là do hồ sơ vụ án bị thất lạc, nên cơ quan tố tụng không chứng minh được hành vi phạm tội của bị can.
Ông Trần Đắc Chiến, Viện Trưởng VKSND tỉnh Vĩnh Long từng to tiếng trên mặt báo rằng: “…trong quá trình điều tra, anh Chinh phải nêu ra ý kiến chứng minh mình vô tội, nên lỗi cũng một phần là do anh…”
Thực tế là trong hàng chục năm nay gia đình ông Chính đã chạy chỗ này chỗ nọ để kêu oan và đòi minh oan. Giới chức hai tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh đã liên tục chối bỏ trách nhiệm, và không chịu giải quyết cho ông Chinh theo luật định.
Theo hồ sơ, Năm 1982, ông Chinh (lúc đó là chánh văn phòng Công an huyện Duyên Hải, tỉnh Cửu Long) bị công an bắt tạm giam để điều tra hành vi “tham ô tài sản” do để mất 12,000 đồng và khoảng 4 lượng vàng.
Vụ án có nhiều uẩn khúc bởi cách quản lý chìa khóa tủ, tài sản tạm giữ lúc đó rất sơ sài và kể cả viên bản cũng không xác định được mất tài sản gì.
Sau hơn 5 năm bị tạm giam, vào ngày 25.01.1988, ông Nguyễn Tùng Chinh được viện trưởng Viện KSND tỉnh Cửu Long- ông Hồ Văn Ân- ký lệnh tạm tha, vì không chứng minh được hành vi phạm tội của bị can. Ông Ân và một số giới chức liên quan sau này thừa nhận mình ký lệnh, nhưng không nhớ chi tiết.
Theo luật sư, Bộ luật tố tụng hình sự qui định thời hạn tạm giam để điều tra tối đa là 12 tháng. Khi đã hết thời gian gia hạn điều tra mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm thì cơ quan tiến hành tố tụng phải ra quyết định đình chỉ điều tra.  Đồng thời, những ai gây ra án oan phải bị xét xử và bồi thường theo quy định của pháp luật.
Trở về địa phương, ông Chinh mòn mỏi đợi chờ cơ quan chức năng kết luận điều tra trong vô vọng. Đời sống kinh tế bị chèn ép, ám ảnh và áp lực tâm lý nặng nề.. Năm 2011, ông lâm trọng bệnh và qua đời. Ông Chinh đã từng khóc và tâm sự với một người từng công tác trong đơn vị cũ: “Tao không hề làm gì sai trái mà lại bị tình cảnh thế này…”.
Quốc Hiếu/SBTN

Thân nhân ‘tử sĩ Hoàng Sa’ chật vật sống còn

Viễn Đông
Theo VOA-29/04/2017 
Bà Huỳnh Thị Sinh (trái) trong lễ tang chồng.

Một số người dân có chồng và cha từng chiến đấu cho lực lượng Việt Nam Cộng hòa và bỏ mạng trong trận hải chiến đẫm máu ở Hoàng Sa cho biết rằng sau năm 1975, họ chật vật sống qua ngày.
Trận chiến trên biển, dù xảy ra hơn 40 năm trước, vẫn gợi lại nhiều suy nghĩ, nhất là khi sắp tới ngày kết thúc Chiến tranh Việt Nam, và trong bối cảnh Trung Quốc không ngừng củng cố chủ quyền Biển Đông.
"Trợ cấp gì, không có gì hết. Mình buôn bán, phụ con cháu sống thôi chứ đâu có ai phụ cấp gì cho mình đâu. Mình chắc là người của chế độ cũ thì người ta cũng không giúp đỡ mình gì đâu..."Bà Huỳnh Thị Sinh nói.
 Bà Huỳnh Thị Sinh, vợ của cố thiếu tá Ngụy Văn Thà, hạm trưởng chiến hạm Nhật Tảo HQ10 của Hải quân Việt Nam Cộng hòa, cho biết rằng hiện bà không được nhà nước hỗ trợ gì, mà “phải phụ giúp con cháu để sống qua ngày”.
Bà nói tiếp: “Trợ cấp gì, không có gì hết. Mình buôn bán, phụ con cháu sống thôi chứ đâu có ai phụ cấp gì cho mình đâu. Mình chắc là người của chế độ cũ thì người ta cũng không giúp đỡ mình gì đâu. Chỉ có bạn bè của chồng bác, lâu lâu, thỉnh thoảng cho 100, 200 [nghìn đồng]. Mà ít khi cho lắm, năm mới cho một lần”.
Bà cho biết thêm rằng mấy năm trước, nhà bị giải tỏa, nên cộng đồng cả ở trong nước lẫn ở hải ngoại đã ủng hộ tiền để mua căn hộ mới, nếu không bà cũng không biết bấu víu vào đâu.
Hình ảnh tử sĩ Ngụy Văn Thà trong buổi biểu tình chống Trung Quốc ở Hà Nội năm 2014.
Hình ảnh tử sĩ Ngụy Văn Thà trong buổi biểu tình chống Trung Quốc ở Hà Nội năm 2014.
Bà Ngô Thị Kim Thanh, vợ của Thiếu tá Nguyễn Thành Trí, Hạm phó Hộ tống hạm HQ10, trong trận hải chiến năm đó, cũng nhận được hỗ trợ của nhiều dân thường để mua nhà mới.
Bà Thanh qua đời đầu năm nay sau khi chống chọi với căn bệnh ung thư. Chị Nguyễn Thị Thanh Thảo, con gái bà, cho biết rằng lúc cuối đời, “bà không muốn đi nhà thương”, và theo chị, bà nói, “ba con không cho mẹ sống nữa thì thôi để mẹ đi cùng với ba”.
Chị Thảo cho biết rằng chị “rất tự hào về ba mình” và “bàn thờ vẫn để nguyên hình ảnh thờ ông mặc quân phục”.
"Bắt đầu từ năm 77 – 78, mang một cái lý lịch vợ sĩ quan ngụy thì bà không được làm việc tại Sài Gòn, mà phải thuyên chuyển đi tỉnh. Cuộc sống thì đúng là nó khó khăn. Nếu mà cách nhìn nhận của xã hội nó khác, đỡ gay gắt như những năm đầu, cuộc sống của gia đình chúng tôi có thể nó sẽ khác."Chị Nguyễn Thị Thanh Thảo, con gái một "tử sĩ Hoàng Sa", nói.
 “Mẹ tôi giữ khá nhiều hình ảnh và tư liệu về ba tôi, và chúng tôi có tờ tường trình về những giờ phút cuối mà đồng đội của ông ghi lại, từ khi khai hỏa cho tới khi ba tôi mất”, chị nói.
Con gái của “tử sĩ Hoàng Sa” này cho hay rằng, sau năm 1975, “cuộc sống đối với những gia đình như chúng tôi khá thiệt thòi”.
Chị nói: “Bắt đầu từ năm 77 – 78, mang một cái lý lịch vợ sĩ quan ngụy thì bà không được làm việc tại Sài Gòn, mà phải thuyên chuyển đi tỉnh. Cuộc sống thì đúng là nó khó khăn. Nếu mà cách nhìn nhận của xã hội nó khác, đỡ gay gắt như những năm đầu, cuộc sống của gia đình chúng tôi có thể nó sẽ khác. Xã hội bây giờ, Việt Nam có trợ cấp con liệt sĩ, có những chính sách ưu đãi khi vào đại học xin việc làm. Xã hội bây giờ là vậy. Chúng tôi ngược lại, xã hội trước chúng tôi được như vậy [trợ cấp trước năm 75] mà xã hội này chúng tôi không được vậy thì đương nhiên nó cũng thiệt thòi, nó có cái buồn”.
Chị Thảo nói thêm rằng vào ngày 30/4 mà truyền thông trong nước hay gọi là “ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”, chị em chị “chỉ ru rú ở trong nhà thôi”.
“Những ngày đó, tình hình an ninh của thành phố, của đất nước rất cao, [nếu] xã hội có bạo động hay có gì đó, mình ra đường nhằm vào những lúc đó thì mình sợ nhiều khi nó không an toàn vì với lý lịch của mình. Mình không phải gia đình cách mạng cho nên nhiều khi mình rất dễ bị hiểu lầm”, chị nói.
Trong khi chính quyền trong nước thường tổ chức ngày gọi là "thống nhất đất nước", nhiều người Việt ở hải ngoại, nhất là các cựu chiến binh Việt Nam Cộng hòa, lại gọi đó là "ngày quốc hận".
Trong khi chính quyền trong nước thường tổ chức ngày gọi là "thống nhất đất nước", nhiều người Việt ở hải ngoại, nhất là các cựu chiến binh Việt Nam Cộng hòa, lại gọi đó là "ngày quốc hận".
Về việc nhà nước Việt Nam chưa chính thức công nhận sự hy sinh của các tử sĩ Hoàng Sa, chị Thảo nói: “Mình tự biết thân, biết phận, mình sống mình thu mình lại, khép mình lại. Mình không có cha. Một mình mẹ tôi bươn chải để nuôi hai chị em tôi khôn lớn. Bà cũng thu mình lắm. Thành ra bà dạy tụi tôi sống khép mình. Thật sự ở Việt Nam, chưa được quyền nói về vấn đề Hoàng Sa, chỉ có hải ngoại thôi. Mình cũng cảm thấy một chút an ủi, vì dầu sao ba mình là người Việt Nam, ông lại chiến đấu giữ gìn biển đảo đất nước. Chúng tôi xem thông tin từ nguồn hải ngoại để có một chút an ủi, tự hào về ba mình”.
"Mình cũng cảm thấy một chút an ủi, vì dầu sao ba mình là người Việt Nam, ông lại chiến đấu giữ gìn biển đảo đất nước. Chúng tôi xem thông tin từ nguồn hải ngoại để có một chút an ủi, tự hào về ba mình."Chị Nguyễn Thị Thanh Thảo nói.
 Trung Quốc đã chiếm toàn bộ Hoàng Sa sau trận hải chiến làm 74 binh sĩ Việt Nam Cộng hòa bỏ mạng ngày 19/1/1974.
Nhiều nhà hoạt động xã hội ở trong nước thường xuống đường vào ngày này để tưởng nhớ các tử sĩ, nhưng tin cho hay rằng đa phần đều nhanh chóng bị “giải tán”.
Báo chí trong nước đầu năm ngoái đưa tin rằng Việt Nam đã “khởi công xây dựng khu tưởng niệm Nghĩa sĩ Hoàng Sa trên đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi”, để “vinh danh tất cả những người Việt Nam đã ngã xuống” để bảo vệ Hoàng Sa. Hiện chưa rõ tiến độ của công trình trị giá hàng chục tỉ đồng này.
Cựu Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger tại Hội nghị Thượng đỉnh về Chiến tranh Việt Nam ở Texas năm 2016.
Cựu Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger tại Hội nghị Thượng đỉnh về Chiến tranh Việt Nam ở Texas năm 2016.
Cựu Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger năm 2016 tuyên bố “không có thỏa thuận nào” với Trung Quốc về Hoàng Sa hơn 40 năm trước, giữa cáo buộc Mỹ làm ngơ để Bắc Kinh chiếm quần đảo này từ tay Việt Nam Cộng hòa.

Người từng làm cố vấn an ninh cho tổng thống Mỹ nói tại Hội nghị Thượng đỉnh về Chiến tranh Việt Nam ở Thư viện Tổng thống Lyndon Baines Johnson ở Austin, Texas, mà phóng viên VOA Việt Ngữ tham dự: “Mỹ từ trước tới nay không đưa ra quan điểm ủng hộ chủ quyền của bất kỳ nước nào đối với quần đảo Hoàng Sa. Năm 1974, giữa lúc xảy ra vụ Watergate và cuộc chiến ở Trung Đông, tôi có thể dám chắc với quý vị rằng Hoàng Sa không trong tâm trí của chúng tôi".

Những con voi bị xích

Lê Anh Hùng
 Theo VOA-29/04/2017 
Một cuộc tuần hành vì nhân quyền cho Việt Nam của cộng đồng người Việt tại Canada. (Ảnh chụp từ Youtube Thu Tran)

Vào các vườn thú, người ta thường thấy những con voi bị buộc chân bằng dây xích nhỏ. Cảnh tượng quen thuộc đó thu hút nhiều khách tham quan, khiến những người lần đầu được nhìn thấy những con voi bằng xương bằng thịt không khỏi ngạc nhiên, trầm trồ.

Từ chuyện những con voi bị xích…
Tuy nhiên, điều dường như ít người tỏ ra “băn khoăn” là mặc dù thỉnh thoảng các chú voi cũng khua cái chân bị xích, khiến sợi xích kêu rổn rảng, nhưng chúng lại không cố ý giằng đứt dây xích, điều mà chúng có thể thực hiện dễ dàng bằng sức mạnh của mình.
Theo những người quản tượng, khi voi còn bé, người ta vẫn dùng loại dây xích như thế để buộc chúng. Chỉ cần những sợi dây xích cỡ đó là đủ để giữ chân đám voi con. Mỗi khi chúng phá xích hay có ý định thế thì đều bị đánh. Dần dà, chúng không còn nghĩ đến chuyện phá sợi dây xích buộc chân mình nữa; chúng đã đánh mất bản năng tìm kiếm tự do. Chúng không còn ý thức được việc dùng sức mạnh của mình để tự cứu mình, hoặc do chúng không tin mình có thể làm được điều đó, hoặc do chúng bị nỗi sợ hãi chi phối.
…đến thủ đoạn của nhà cầm quyền cộng sản
Người dân Việt Nam sống dưới chế độ cộng sản cũng được đối xử chẳng khác những con voi kia là mấy. Bên cạnh việc vẽ ra những thiên đường trên mặt đất mang tên “chủ nghĩa xã hội” hay “chủ nghĩa cộng sản” nhằm giam hãm lớp lớp người Việt trong một thế giới ảo tưởng, nhà cầm quyền còn tìm mọi cách để người dân ý thức được thế nào là “khuôn phép cộng sản” ngay từ thuở mới cắp sách tới trường.
“Đoàn kết tốt, kỷ luật tốt” là một trong “năm điều Bác Hồ dạy”, những khẩu hiệu mà mọi lứa học sinh đều phải thuộc nằm lòng. Nhân danh “đoàn kết” và “kỷ luật”, những mầm non của đất nước bắt đầu được gò vào khuôn phép của những hình thức tổ chức tập thể đầu tiên trước khi bước vào đời là trường và lớp. Những học sinh nào không tham gia “Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh” và “Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh” đều bị coi như những học sinh “chậm tiến” hoặc “có vấn đề”.
Trong các cuốn sách giáo khoa, bên cạnh vô số “tấm gương sáng” vì “sự nghiệp cách mạng” được tôn sùng là hàng loạt “gương xấu” – đó là những kẻ chống lại “sự nghiệp cách mạng”, và tất cả đều bị “trừng trị” theo cách này hay cách khác.
Chưa hết, dư âm của cuộc “Cải cách Ruộng đất”, vụ “Nhân văn - Giai phẩm”, vụ án “Xét lại chống đảng”, hay các cuộc “cải tạo công thương nghiệp xã hội chủ nghĩa”… khiến hàng triệu người Việt đến nay vẫn chưa hết rùng mình.
Người ta còn kể cho nhau nghe về vô số vụ khủng bố, ám sát, thủ tiêu mà nạn nhân bị coi là những “phần tử phản cách mạng”. Dĩ nhiên, không nói thì ai cũng hiểu đằng sau những vụ đó là ai.
Một công dân sau khi rời khỏi ghế nhà trường, nếu không sinh hoạt trong các tổ chức chính trị như Đoàn Thanh niên Cộng sản HCM hay Đảng CSVN, anh ta hầu như không có cơ hội tiến thân trong bộ máy. Nếu anh ta còn dám “góp ý” hay “phê bình” các tổ chức này nữa thì nơi duy nhất chào đón anh ta là nhà tù.
…và tâm thế dân Việt
Mấy chục năm trước, những gì trên đây là “chuyện thường ngày ở huyện”, và đó là lý do khiến nỗi sợ hãi ám ảnh cả xã hội, từ dân thường cho đến cán bộ.
Ngày nay, mặc dù ánh sáng của cuộc cách mạng Internet và truyền thông xã hội trong một thế giới của can dự và hội nhập toàn cầu đã xua tan nhiều bóng tối từng ngự trị trên đất nước suốt nhiều thập niên, lối cai trị nhuốm màu ma quỷ mà các lãnh tụ cộng sản tiền bối từng áp đặt lên dải đất hình chữ S không còn đất sống, song phần lớn người Việt vẫn tiếp tục sống trong sợ hãi.
Những người dân thường vốn thiếu cả kiến thức chính trị lẫn phương tiện truyền thông để bày tỏ chính kiến thì không nói. Điều đáng nói là ngay cả những cán bộ về hưu, đặc biệt là giới trí thức, những người đã nhận chân được chủ nghĩa Marx-Lenin cũng như cái bánh vẽ mang tên “chủ nghĩa xã hội” hay “chủ nghĩa cộng sản”, mà cũng không dám bày tỏ thái độ của mình trước hiện tình đất nước, trước những bất công, tiêu cực trong xã hội, dù họ biết là họ đã bị lừa dối trong phần lớn cuộc đời, dù họ hoàn toàn ý thức được những hiểm hoạ mà nước nhà đang phải đối mặt.
Lý do thật đơn giản: họ sợ. Nhiều người Việt Nam cố chui vào trong cái lô cốt của sợ hãi với niềm an ủi rằng, cộng sản sớm muộn gì cũng sụp, và tự nó làm cho nó sụp chứ không cần và không ai đủ sức làm cho nó sụp. Tương tự như thế là quan điểm chỉ có cộng sản mới tiêu diệt được cộng sản.
Và nhà cầm quyền thì luôn tìm cách duy trì nỗi sợ hãi đó trong dân chúng nói chung và tầng lớp tinh hoa của xã hội nói riêng.
Ngày càng nhiều người Việt lên tiếng đấu tranh đòi nhà cầm quyền cộng sản tôn trọng các quyền tự do cơ bản đã được quy định trong Hiến pháp hay trong các công ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết thì cũng ngày càng nhiều vụ bắt giam hay khủng bố dành cho những người con ưu tú đó của đất nước.
Nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa, một cựu tù nhân lương tâm ở Hải Phòng, cho biết là ngày Mùng 4 Tết 2008, hai nhân viên an ninh đã đến nhà ông doạ dẫm là nếu ông đi viếng ông Hoàng Minh Chính thì sẽ gặp một vụ tai nạn như cặp vợ chồng Lưu Quang Vũ - Xuân Quỳnh.
Các vụ bắt bớ, khủng bố nhằm vào những người đấu tranh trong các vụ án chính trị hay trong giai đoạn phong trào bị đàn áp mạnh là chuyện bình thường. Điều tưởng như bất thường là thỉnh thoảng chúng vẫn cứ diễn ra trong những giai đoạn yên ắng, dù bản thân đối tượng hay hành vi của họ chẳng có gì đáng gọi là nhạy cảm hay nguy hiểm cho chế độ đến mức phải bị đối xử như thế. Thực ra, mục đích của hành động đó lại rất dễ hiểu: tiếp tục gieo rắc nỗi sợ hãi trong dân chúng.
“Freedom is not free”
Ở Việt Nam, phần lớn những người từng phải ngồi tù vì lý do chính trị trong khoảng hai chục năm trở lại đây là thành viên của Hội Cựu Tù nhân Lương tâm, một tổ chức XHDS ra đời năm 2014. Số hội viên Hội CTNLT hiện nay là 142 người; số hội viên đã mất là 3 người; còn số TNLT trong các nhà tù Việt Nam hiện nay là 70 người.
Dù mọi sự so sánh đều khập khiễng nhưng việc dẫn ra đây một vài con số về tù chính trị của Myanmar, đất nước vừa mới “tự diễn biến, tự chuyển hoá” sang chế độ dân chủ một cách êm thấm trong sự thèm khát của hàng chục triệu người Việt, hẳn cũng mang một ý nghĩa nào đấy. Theo tạp chíTIME, số tù nhân chính trị bị giam cầm trong các nhà tù của Myanmar giai đoạn 2009-2010 là khoảng 2.000 người. Còn theo Tổ chức Ân xá Quốc tế thì trong giai đoạn 2011-2016, chỉ riêng số tù chính trị Myanmar được ân xáđã lên tới trên 1.100 người. (Nếu có thể nói gì thêm thì dân số Myanmar là khoảng 54 triệu người, tức chỉ hơn một nửa dân số Việt Nam chút xíu.)
Cộng sản Việt Nam sẽ sụp đổ trước hết vì những nguyên nhân nội tại, đó là điều không cần phải bàn cãi. Nhưng nếu người dân không lên tiếng và hành động để góp phần thúc đẩy và giảm thiểu tổn thất cho tiến trình đó thì hoặc còn rất lâu nữa nhà cầm quyền mới chịu trả lại quyền làm người cho họ, hoặc nó sẽ chuyển hoá sang một hình thái độc tài khác.
Bất luận thế nào, giống như những con voi bị xích kia, chừng nào người Việt còn chưa ý thức được sức mạnh của mình, chừng nào những tinh hoa của giống nòi còn là nô lệ của nỗi sợ hãi, chừng đó hàng chục triệu “con Lạc cháu Hồng” còn tiếp tục mòn mỏi trong kiếp nạn cộng sản.

Hành trình ‘tự diễn biến’ trong giới du học sinh Việt

Khánh An-VOA/ 29/04/2017 
Du học sinh thường không tránh khỏi những 'cú sốc tư tưởng' nhất định khi ra nước ngoài.

Có một quá trình “tự diễn biến” trong giới du học sinh Việt Nam ở nước ngoài, mà ngay cả bản thân họ không phải lúc nào cũng nhận thấy.
Theo nhận xét của một chuyên viên tư vấn cho sinh viên nước ngoài ở Mỹ, khi mới bước chân ra “biển lớn,” du học sinh Việt thường khá thụ động và khép kín vì rào cản ngôn ngữ trong giao tiếp với người bản xứ. Tuy nhiên, ngay cả với cộng đồng người Việt Nam, du học sinh Việt cũng không tránh khỏi những “cú sốc tư tưởng” nhất định.
Từ ‘Cộng Sản mới sang…’
Mới đến thành phố Houston, Texas, Mỹ, học được 8 tháng, Như Quỳnh chia sẻ với VOA rằng nhiều bạn bè của cô khi mới sang thường bị cộng đồng người Việt địa phương gọi là “Cộng Sản mới sang”.
“Bạn em nói khi đi đăng ký học lái xe thì ông thầy dạy lái xe, có tư tưởng chống Cộng, nói ‘con này ở bên đó là Cộng Sản, dân Cộng Sản mới qua.’ Lời nói làm cho bạn em tủi thân, vì dù răng, Cộng Sản hay không Cộng Sản thì cũng là người Việt Nam”, Như Quỳnh kể lại.
Tự nhận “vẫn còn rất yêu quý nước Việt Nam”, Như Quỳnh nói “người Việt ở Mỹ có tư tưởng không tốt về Việt Nam là điều bình thường”, và như vậy là “sai lệch”.

… đến tự so sánh
Hầu hết du học sinh Việt Nam mà VOA phỏng vấn đều cho biết khi còn ở trong nước, họ hoàn toàn không để ý đến “ý nghĩa” của ngày 30/4 như các khẩu hiệu, tuyên truyền được lặp lại hàng năm. Họ chỉ đơn giản tập trung vào kế hoạch “ăn chơi” là chính. Nhưng khi ra khỏi Việt Nam, những cuộc biểu tình của cộng đồng gốc Việt vào ngày này lại mang đến “một góc nhìn khác” về ngày được gọi là “giải phóng”.
Mặc dù mình vẫn nói mình là xã hội dân chủ, công bằng, văn minh… Hồi đi học được học như vậy, nhưng khi sang bên này mới thấy không phải như vậy. Khi sang đây, mình thấy ở bên đây mới thực sự là dân chủ.-Thanh Hương, du học sinh ở Queenland, Úc.
Quỳnh Võ, một du học sinh vừa tốt nghiệp cao học tài chánh ở Pháp, nói: “Ngày xưa thì 30/4, 1/5 là được nghỉ làm nên mừng muốn chết. Toàn là tuyên truyền không! Theo công cuộc tuyên truyền thì mình thấy nhiều cái cũng nhảm. Mình biết vậy nhưng biết nói gì hơn. Giờ qua đây lại thấy một góc khác: ngày quốc hận!”
Góc nhìn khác không chỉ dừng ở các sự kiện lịch sử, mà còn trong những sự việc hàng ngày khi người trẻ Việt Nam bỗng nhiên được đặt vào một thế giới khác và có cơ hội so sánh.
Thanh Hương, một du học sinh mới sang thành phố Brisbane, bang Queenland, Úc, học chương trình MBA được 2 năm, giải thích về kết luận “Việt Nam không thực sự tự do như mình nghĩ”:
“Mặc dù mình vẫn nói mình là xã hội dân chủ, công bằng, văn minh… Hồi đi học được học như vậy, nhưng khi sang bên này mới thấy không phải như vậy. Khi sang đây, mình thấy ở bên đây mới thực sự là dân chủ. Cái gì cũng có luật lệ rõ ràng, được quyền tự do thật sự, được bảo vệ rõ ràng, từ quyền cho phụ nữ hay tất cả về y tế, giáo dục…, nhất là về quyền con người. Bên này mọi điều đều minh bạch, rõ ràng, được xử lý nghiêm bằng luật. Còn ở Việt Nam thì không như vậy.”
Thanh Hương dẫn chứng một sự kiện điển hình trong nước mà cô theo dõi từ bờ bên kia: “Ví dụ biểu tình Formosa. Người ta chỉ biểu tình để đòi lại quyền được bồi thường do biển bị nhiễm bẩn hoặc chỉ đòi làm minh bạch tại sao lại gây ra ô nhiễm môi trường như vậy thôi, em thấy biểu tình đúng như vậy mà vẫn để xảy ra bạo loạn trong biểu tình rồi chẳng đâu vào đâu hết. Còn bên này mà một sự việc gì đó không rõ ràng là người ta phải biểu tình, và người ta sẽ được cảnh sát hỗ trợ cho việc biểu tình.”
Trong khi vẫn ngầm phản đối quan điểm của cộng đồng người Việt ở Mỹ, Như Quỳnh cũng thừa nhận Mỹ tốt hơn Việt Nam. “Giả sử như ở đây có chương trình hỗ trợ cho người già giống như bảo hiểm Medicare, Medicaid… Mình đi học, nếu mình là resident (thường trú dân), thì cũng có những chương trình hỗ trợ giảm học phí cho người dân ở đây. Nó theo mục đích của người dân nhiều hơn. Nói chung là cái gì ra cái đấy, tính toán rất kỹ nên xã hội và cuộc sống em thấy tốt hơn Việt Nam nhiều”.
Và đắn đo, không về
Cho dù xung đột tư tưởng trong giới du học sinh, những người trẻ có cơ hội được sống ở cả hai bên “chiến tuyến,” là nặng hay nhẹ, thì đa số đều không mong muốn có một “chiến tuyến” nào giữa những con người mang dòng máu Việt. Quỳnh Võ chia sẻ: “Người trẻ hoặc là nhìn với góc độ ngày chiến thắng, hoặc nhìn với góc độ ngày quốc hận, thì cuối cùng, trong lòng Việt Nam sẽ có rất nhiều nước Việt khác nhau.”
 "đó là sự điều chỉnh khi bạn phải thích nghi với cái mới. Có vẻ như, đối với tôi, họ đều trải qua các giai đoạn giống nhau cho tới khi họ sẵn sàng thích nghi với văn hóa Mỹ."Chuyên viên Camila McTighin.
Quỳnh Võ và chồng đều là du học sinh từ Việt Nam sang Pháp. Cả hai đã có công việc làm ổn định và một mái ấm hạnh phúc với hai con nhỏ. Cô tâm sự về thay đổi quyết định trở về Việt Nam của gia đình mình:
“Thật ra ai có cơ hội ở lại thì họ ở lại hết. Có ai muốn sống với Cộng Sản đâu? Chẳng qua trước đây họ không nói ra thôi. Ví dụ như em, qua bên này thấy về mặt chuyên môn được làm việc sâu hơn, về học hành cũng được học thích hơn. Ngay cả một chuyện thực tế là bây giờ con cái em, mình có con rồi, con đi học trong một môi trường trong veo như vậy, tự nhiên về mặt cá nhân mình cũng đắn đo khi quyết định về dù đó là về cho con đi nữa”.
Giải thích về những thay đổi trong tư tưởng của du học sinh, cô Camila McTighi, chuyên viên tư vấn cho học sinh nước ngoài của Trường Cao Đẳng Cộng Đồng Bắc Virginia, Mỹ, đưa ra nhận xét chung: “Tôi có thể nói đó là sự điều chỉnh khi bạn phải thích nghi với cái mới. Có vẻ như, đối với tôi, họ đều trải qua các giai đoạn giống nhau cho tới khi họ sẵn sàng thích nghi với văn hóa Mỹ”.
Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Việt Nam, Nguyễn Phú Trọng, gần đây liên tục đề cập đến mối nguy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong giới Đảng Viên, công chức chính quyền. Hồi đầu tháng 1/2017, ông Trọng yêu cầu Ủy Ban Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam xây dựng và thực hiện cơ chế bảo vệ, khuyến khích người dân phản ánh, tố giác, đấu tranh chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Nhưng có một hành trình “tự chuyển hóa” mà không cần có một cuộc vận động nào đang diễn ra trong giới du học sinh, trong đó có không ít người là thế hệ tiếp theo của những người Cộng Sản.

Vụ Đinh La Thăng: Ván cờ sinh-tử chỉ mới bắt đầu

Phạm Chí Dũng 
Theo VOA-28/04/2017 
Đinh La Thăng (trái) và Nguyễn Phú Trọng.

Lễ kỷ niệm 30 tháng Tư “giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước” năm 2017 đặc biệt chưa từng thấy: cùng vào cuối giờ chiều ngày 27/4 khi các tờ báo trong nước được Ủy ban Kiểm tra trung ương “phát lệnh nổ súng” để đăng nguyên bản kết luận kiểm tra hàng núi vụ việc bị xem là “rất nghiêm trọng” tại Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petro Vietnam) cùng trách nhiệm của đương kim ủy viên bộ chính trị Đinh La Thăng, một phó chủ tịch của chính quyền TP.HCM là bà Nguyễn Thị Thu đã như ngậm ngùi thông báo với báo giới “Ban bí thư không cho phép thành phố tổ chức bắn pháo hoa 15 phút vào đêm 30/4”, dù trước đó thành phố này đã làm văn bản xin “bắn”.
Không có lời giải thích nào từ Ban bí thư của ông Đinh Thế Huynh về việc không cho bắn pháo hoa, nhưng một phó giám đốc Sở Văn hóa - thể thao của TP.HCM đã tiết lộ: tùy vào tình hình thực tế, chính trị xã hội và mỗi giai đoạn khác nhau…
Hoàn toàn không phải lý do “tiết kiệm” cho số tiền chỉ khoảng một chục tỷ đồng chi phí bắn pháo hoa - chỉ bằng 1/340 so với khoản lỗ mà Trịnh Xuân Thanh đã gây ra tại PVC - một doanh nghiệp con thuộc Petro Vietnam từ thời ông Đinh La Thăng còn là Chủ tịch Hội đồng thành viên.
Có thể cho rằng đây là lần đầu tiên TP.HCM kỷ niệm lễ 30/4 mà không được bắn pháo hoa, trong khi bầu không khí trước ngày này dường như không có gì bất thường về mặt an ninh. Cũng chưa thấy dấu hiệu nào để hình thành một “làng kháng chiến Đồng Tâm” tại thành phố này…
Vậy thì sợ gì mà không “bắn”? “Nội bộ” chăng?
Có vẻ “bài học Quân khu 9” vào thời gian trước đại hội 12 cùng vụ “tướng chữa bệnh” Phùng Quang Thanh vẫn còn nguyên ám ảnh.

Chiến thắng thứ hai

Một nỗi ám ảnh khôn nguôi đã đặc cách dành cho Tổng bí thư Trọng từ sau đại hội 12, cho dù ông đã lau được nước mắt trước đối thủ chính trị số một là ông Nguyễn Tấn Dũng.
Nỗi ám ảnh ấy còn đeo đẳng ghê gớm, đã trở nên cao trào mất ngủ bằng vụ biến mất cực kỳ thách thức của Trịnh Xuân Thanh. Cho dù ông Nguyễn Tấn Dũng đã cam kết trở thành “người tử tế”, vẫn còn không thiếu kẻ luôn chực chờ gây hậu họa cho ông Trọng.
Cuộc chiến “chống tham nhũng” của tổng bí thư cũng bởi thế đã dần hóa thân vào ân oán quyền lực và thể diện.
Nhưng phải mất đến một năm một quý từ sau đại hội 12 rạng rỡ thắng lợi, Tổng bí thư Trọng mời giành được chiến thắng thứ hai.
Bài bản được lặp lại phong cách của Vương Kỳ Sơn của Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Trung Quốc mà ông Nguyễn Phú Trọng đã dẫn đoàn “học tập” vài năm trước: dù không có được nhân chứng Trịnh Xuân Thanh, cũng chẳng trưng ra lời khai nào của Vũ Đức Thuận - nguyên trợ lý của Đinh La Thăng, vẫn còn sờ sờ ra đó một núi hậu quả bị cho là trách nhiệm của ông Thăng thời còn tại vị nơi Petro Vietnam, chưa kể một “hình án” có dấu hiệu rất rõ là 800 tỷ đồng mà Petro Vietnam góp vào Ngân hàng Đại Dương của Hà Văn Thắm đã hoàn toàn biến mất.
Không phải Bộ Công an có vẻ khá chậm chạp ngay cả khi tổng bí thư đã “tự cơ cấu” vào Thường vụ đảng ủy công an trung ương vào tháng 9 năm 2016, mà Ủy viên bộ chính trị Trần Quốc Vượng của Ủy ban kiểm tra trung ương mới bắt buộc phải nổi lên như một Vương Kỳ Sơn của Việt Nam.
Khó mà hình dung khác hơn, cử chỉ Ủy ban Kiểm tra trung ương công bố kết luận về Petro Vietnam ngay trước khi Hội nghị trung ương 5 của đảng cầm quyền diễn ra là có chủ ý. Cùng nhận định “rất nghiêm trọng” của ủy ban này đối với vụ Petro Vietnam, việc Ủy ban Kiểm tra trung ương nêu đề nghị chính thức gửi Bộ chính trị và Ban bí thư về “kỷ luật đồng chí Đinh La Thăng” tất sẽ dọn đường cho Hội nghị trung ương 5 bỏ phiếu kỷ luật Bí thư TP.HCM.
Nếu thông tin dư luận về việc Ban bí thư đã thống nhất kỷ luật ông Đinh La Thăng với mức độ “cảnh cáo về mặt đảng” là đúng, mức kỷ luật tại Ban chấp hành trung ương thông thường sẽ không nhẹ hơn. Và chỉ cần có thế, đương nhiên chức bí thư thành ủy TP.HCM sẽ một sớm một chiều bị tước khỏi tay ông Đinh La Thăng. Để trong trường hợp khả quan nhất, ông Thăng cũng chỉ nhận được một chức vụ “làng nhàng” nào đó trong bộ máy trung ương - gần giống với đương kim Trưởng ban Kinh tế trung ương Nguyễn Văn Bình, nhưng có lẽ thấp hơn ông Bình.
Còn nếu nặng hơn, đó sẽ là “cách chức về mặt đảng”, thậm chí khai trừ đảng và mở đường đến truy cứu trách nhiệm hình sự liên quan những vụ việc tại Petro Vietnam. Khi đó thì đừng có nghĩ gì đến việc tồn tại trong Bộ Chính trị, thậm chí trong Ban chấp hành trung ương.
Báo nhà nước Việt Nam, bỉ bôi thay, đang rầm rộ khởi phát một chiến dịch “xét lại Đinh La Thăng”, cho dù chỉ mới năm ngoái chính những tờ báo này đã tung hô ông Thăng lên tới mây xanh, còn gần đây nhất lại câm bặt vụ nông dân Đồng Tâm, Hà Nội phản kháng triều đình.
Nếu vụ ông Đinh La Thăng diễn ra “đúng quy trình” và theo đúng tuyên ngôn “kỷ luật vài người để cứu muôn dân” của ông Trọng, bàn cờ chính trị Việt Nam sẽ được “tái cơ cấu” thấy rõ: cùng với ông Thăng, nhân vật thứ hai đã quá mang tai tiếng là Ủy viên bộ chính trị Nguyễn Văn Bình cũng có thể bị “xét lại”. Hoặc ở vào thế “quy thuận triều đình”, ông Bình sẽ ngồi yên tại Ban Kinh tế trung ương cho đến lúc đủ tuổi hưu.

Ván cờ sinh - tử bắt đầu!

Hội nghị trung ương 5 cũng bởi thế có thể mang đến triển vọng “phục thù” cho Tổng bí thư Trọng đối với thất bại không thể cơ cấu hai nhân vật Vương Đình Huệ và Nguyễn Bá Thanh vào Bộ Chính trị tại Hội nghị trung ương 7 - diễn ra vào tháng 5/2013.
Chiến thắng thứ hai của Tổng bí thư Trọng, dù khá muộn màng, vẫn mở toang cánh cửa để ông Trọng có dịp “hội kiến” với cựu thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Có vẻ ông Trọng không còn “đường” nào khác.
Không phải đại hội 12. Giờ đây, ván cờ quyết định sinh - tử mới bắt đầu.
Khỏi phải nói, cũng có thể hình dung ông Nguyễn Tấn Dũng và “dây” của ông đang ở vào thế nguy biến đến thế nào.
Nhưng ông Dũng sẽ làm gì?

Vì sao ‘Hội nghị hòa hợp văn học’ phá sản?

 Phạm Chí Dũng 
Theo VOA-28/04/2017 
Bản tin về một sự kiện "chưa từng có": Hội Nhà văn Việt Nam sẽ mời tất cả các nhà văn hải ngoại, kể cả những người từng cầm bút phục vụ chế độ cũ (VNCH), về dự “Hội nghị hòa hợp dân tộc về văn học”.
Lễ kỷ niệm giỗ tổ Hùng Vương 10 tháng Ba âm lịch (6/4/2017) đã lặng tăm trôi qua mà chẳng hề hiện ra “Hội nghị hòa hợp dân tộc về văn học” như hứa hẹn đinh đóng cột của Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam - ông Hữu Thỉnh. Song cảnh phá sản của một ảo tưởng chính trị chưa bao giờ thành hình lại chẳng có gì đáng kinh ngạc…

Ai là ‘tác giả”?
Ba tháng trước, nhà thơ được tiếng là “cháu ngoan của đảng” đã bất ngờ công bố một kế hoạch chưa từng có tiền lệ trong lịch sử tồn tại của đảng: Hội Nhà văn Việt Nam sẽ mời tất cả các nhà văn hải ngoại, kể cả những người từng cầm bút phục vụ chế độ cũ (VNCH), về dự “Hội nghị hòa hợp dân tộc về văn học”.
Khi đó, một video xuất hiện trên mạng xã hội đã tường thuật nguyên văn phát biểu của ông Hữu Thỉnh về “Hội nghị hòa hợp dân tộc về văn học”: “Đây là một sự kiện chưa từng có, Tổng Bí thư có hỏi tôi rằng: Có phải đây là lần đầu tiên tổ chức hội nghị này không? Tôi trả lời: Đây là lần đầu tiên chúng ta sẽ tổ chức vào dịp Giỗ tổ Hùng Vương 10/3 (âm lịch) 2017…
Về mặt “đảng lãnh đạo toàn diện”, ý kiến của Tổng Bí Thư Trọng là quan trọng, thậm chí hết sức then chốt, để ông Hữu Thỉnh có được kim bài đứng ra tổ chức sự kiện đặc biệt nhạy cảm chính trị để thu phục những người còn bên kia chiến tuyến.
Nhưng chỉ ít ngày sau thông tin về video trên, lại có dư luận cho rằng dù là một người vẫn được xem là “cầm tay chỉ việc” về công tác tuyên giáo, một nhân vật quá thủ cựu như ông Nguyễn Phú Trọng không phải và không thể là tác giả sáng tạo ra chủ sách đối thoại với tất cả giới văn học hải ngoại. Mà là một quan chức cao cấp khác.
Thậm chí, một số dư luận còn đinh ninh rằng với tính chất cực kỳ nhạy cảm của “Hội nghị hòa hợp dân tộc về văn học,” sự kiện này sẽ không thể nào diễn ra nếu không được các cơ quan công an từ cấp phòng, cục, tổng cục, và đặc biệt là Bộ Công An, cho “bật đèn xanh.” Sống đủ lâu để đủ thấm trải ở Việt Nam, ai cũng thừa biết là chỉ nội công tác rà soát danh sách những nhà văn hải ngoại được mời, đặc biệt là “đối tượng nhà văn chống Cộng,” đã mất thời gian đến thế nào và đòi hỏi phải có được một sự đồng thuận cao trong ngành công an.
Nhưng vì sao “Hội nghị hòa hợp dân tộc về văn học” bị thất bại - một sự phá sản ít nhất cho đến giờ phút này?
Hoang tưởng
Ở đời, phàm cái gì không thành tâm thì hậu vận chẳng ra sao. “Hội nghị hòa hợp dân tộc về văn học” là một kiểu như thế.
Ngay sau khi ông Hữu Thỉnh phát ra tuyên bố về “Hội nghị hòa hợp dân tộc về văn học,” khắp các diễn đàn trong nước và đặc biệt ở hải ngoại đã phản ứng như sóng lừng. Rất nhiều ý kiến của nhà văn, nhà báo hải ngoại cho rằng sự kiện này về thực chất chỉ mang tính “cuội.” Họ tung ra một câu hỏi quá khó để trả lời rằng Nghị Quyết 36 của Bộ Chính Trị về “công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài” đã ra đời mười mấy năm trước mà hầu như chưa làm được gì cả, nhưng tại sao đến nay mới sinh ra mới cái cử chỉ như thể “chiêu dụ người Việt hải ngoại” như thế?
Nhiều ý kiến từ hải ngoại cũng thấu tim gan “đảng quang vinh” về chuyện suốt từ năm 1975 đến nay, đảng chỉ quan tâm đến “khúc ruột ngàn dặm” nhằm hút đô la “làm giàu cho đất nước” càng nhiều càng tốt, nhưng ai cũng hiểu là không có đô la thì chế độ không thể nào tồn tại.
Nhưng lại quá hiếm trường hợp trí thức của “khúc ruột ngàn dặm” được đảng ưu ái tạo cho đất dụng võ ở quê nhà. Sau hơn bốn chục năm “giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước,” vẫn còn quá nhiều cảnh kỳ thị của nhà cầm quyền Việt Nam đối với giới trí thức và văn nghệ sĩ hải ngoại. Nhiều trí thức hải ngoại ôm mộng trở về Việt Nam để “cống hiến,” nhưng cuối cùng đã phải chua chát biệt ly khỏi “vòng tay của đảng.” Nếu tạm gác lại nhu cầu đô la, “khúc ruột ngàn dặm” đã chẳng có gì khác hơn là “ruột dư.”
Chỉ sau năm 2016, “ruột dư” mới có cơ hội để phục hồi tư cách “khúc ruột ngàn dặm.” Chính vào năm 2016, lượng kiều hối thực gửi về Việt Nam chỉ có 9 tỷ USD, giảm đến 30% so với năm 2015. Với hơn 4 tỷ USD bị sụt giảm từ lượng kiều hối trong năm 2016, GDP danh nghĩa của Việt Nam đã bị giảm khoảng 1,5%. Đây cũng là sự sụt giảm mạnh nhất trong vòng 23 năm qua, phát ra một tín hiệu hiển hiện về triển vọng kiều hối về Việt Nam đang bắt đầu chu kỳ suy thoái, và có thể suy thoái trầm trọng.
Chỉ có điều, chủ nghĩa “lãng mạn cách mạng” cùng tinh thần duy ý chí bất tận của nhà thơ Hữu Thỉnh cùng đảng cầm quyền quên khuấy hiện tình khốn quẫn của dân tộc đã đưa đến hiện thực sống ở trên mây. Ông Hữu Thỉnh có lẽ không thể hiểu được rằng trong các “đối tượng” cần phải chiêu dụ, giới nhà văn người Việt hải ngoại là “khó gặm” đến thế nào. Để cùng lắm, Hội Nhà Văn Việt Nam chỉ có thể mời được một ít nhà văn hải ngoại “thân nhà nước,” chỉ có ý nghĩa đánh bóng chính thể, nhưng lại hoàn toàn không nổi bật trên diễn dàn văn học hải ngoại và cũng chẳng thể tạo được sức ảnh hưởng nào cho cộng đồng này.
Sát lễ kỷ niệm giỗ tổ Hùng Vương 10 tháng Ba âm lịch, có tin cho biết Hội Nhà văn Việt Nam đã phát đi trên năm chục thư mời đến các nhà văn hải ngoại. Nhưng lại chẳng có tin gì về hồi đáp từ những người được mời. Nếu đúng thế, hẳn đó là nguyên nhân chủ yếu mà đã khiến “Hội nghị hòa hợp dân tộc về văn học” không cách nào đủ túc số nhân sự để “gầy sòng.”
Thậm chí cho tới trước ngày kỷ niệm giỗ tổ Hùng Vương, vẫn chẳng thấy bóng dáng công khai nào về các công tác chuẩn bị cho sự kiện được coi là cực kỳ quan trọng trên. Báo chí nhà nước hoàn toàn im lặng và có vẻ còn muốn tránh né việc thông tin về sự kiện này.
Để giống như một cuộc triển lãm ảnh Ngày Thơ Việt Nam tại Văn Miếu của Hội Nhà văn Việt Nam vào tháng 2/2017 với thành tích “râu ông nọ cắm cằm bà kia,” “Hội nghị hòa hợp dân tộc về văn học” đã lộ ra như một cái thùng rỗng kêu to, một cái cớ để “chính khách” Hữu Thỉnh xin ngân sách chi xài một hội đoàn mà luôn bị ví như “cánh tay nối dài của đảng,” chỉ quen tiêu tốn tiền đóng thuế của dân và khá là vô tích sự.
Tình hình ngân sách của Hội Nhà Văn Việt Nam cũng bởi thế càng thêm cám cảnh.
Thất bại trong “Hội nghị hòa hợp dân tộc về văn học,” Hội Nhà Văn Việt Nam không còn được tiếng là “sáng tạo và dũng cảm,” cũng không còn cơ hội được hưởng một khoản kinh phí không nhỏ được rót từ ngân sách trung ương để làm cơ sở cho sự kéo dài tuổi thọ của “chính khách Hữu Thỉnh” với vai trò chủ tịch hội “cánh tay nối dài của đảng” không biết đến bao giờ mới chấm dứt của ông.
Nguồn cơn nào khác?
Nhưng có thể còn thêm một nguồn cơn thất bại khác dành cho “Hội nghị hòa hợp dân tộc về văn học.”
Trong lúc sự kiện trên vẫn lặng như tờ, dư luận xã hội lại nổi sóng với vụ Cục Nghệ thuật biểu diễn thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông đột ngột quyết định tạm thời dừng lưu hành 5 ca khúc Cánh thiệp đầu xuân (Lê Dinh - Minh Kỳ), Rừng xưa (Lam Phương), Chuyện buồn ngày xuân (Lam Phương), Đừng gọi anh bằng chú (Diên An), Con đường xưa em đi (Châu Kỳ - Hồ Đình Phương) vào tháng Ba năm 2017.
“Chủ nghĩa xét lại âm nhạc” chăng?
Rất có thể. Và cũng rất giống với phong trào Hồng vệ binh văn hóa văn nghệ ở Trung Quốc vào những năm 60 của thế kỷ trước.
Thậm chí mới đây, ngay cả ca khúc Nối vòng tay lớn của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn còn bị Cục Nghệ thuật biểu diễn ra quy định phải “xin phép” [Và sau đó đã xin lỗi và … cho phép - VOA]. Rồi đến cả bản Dạ cổ hoài lang bất hủ tình cảm Nam Bộ của cố soạn giả Cao Văn Lầu cũng đang chịu nguy cơ bị “trảm”…
Vì sao lại hỗn loạn đến thế?
Giờ đây, tình trạng chính trị và kinh tế của đảng cầm quyền là khó khăn hơn bao giờ hết. Sự bế tắc gần như toàn diện như thế đã khiến đang manh nha phát sinh một luồng tư tưởng cùng một số quan chức buộc phải nghiêng dần theo xu hướng “cải cách”. Trong những “cải cách” đó, lần đầu tiên từ sau năm 1975 đã bộc lộ tín hiệu có vẻ đôi chút thực chất về “lấy lòng người Việt hải ngoại”.
Nhưng từ hàng chục năm qua và đặc biệt trong khoảng 5 năm gần đây, xung đột quyền lực trong nội bộ đảng lại là một đặc trưng lớn của chính trường Việt Nam. Rất nhiều dấu hiệu và biểu hiện đã cho thấy trong cuộc xung đột triền miên và ngày càng sinh sát này, giới hoạt động dân chủ nhân quyền trong nước thường bị đem ra làm vật hy sinh.
Cho đến lúc cả văn hóa cũng bị biến diễn làm vật hy sinh cho những đấu đá chính trị ở thượng tầng chóp bu…
Tình trạng rất phổ biến hiện thời là các nhóm quyền lực vẫn có thể phá nhau và phá đám chủ trương của nhau, bất kể chủ trương đó có lợi cho dân sinh hay nhằm “hòa giải” với người Việt hải ngoại.

Việt Nam thua Lào và Campuchia mọi mặt - Vì sao?

Cát Linh, phóng viên RFA 2017-04-28  
Cựu đệ nhất phu nhân Michelle Obama (thứ 4 từ trái) và phu nhân thủ tướng Hunsen thăm một trường học ở Siem Reap vào ngày 21 tháng 3 năm 2015.
 Cựu đệ nhất phu nhân Michelle Obama (thứ 4 từ trái) và phu nhân thủ tướng Hunsen thăm một trường học ở Siem Reap vào ngày 21 tháng 3 năm 2015.  AFP photo
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc vừa kết thúc chuyến thăm chính thức Campuchia và Lào từ ngày 24 đến 27 tháng 4, năm 2017.
Theo thông tin nhận được từ trong nước, rất nhiều hợp tác quan hệ song phương giữa Việt Nam, Lào và Campuchia được đánh giá tăng trưởng tốt trong vài năm qua. Tuy nhiên, theo những số liệu báo cáo do Ngân hàng thế giới – World Bank và Diễn đàn kinh tế Thế giới – WEF đưa ra cho thấy Việt Nam ngày càng thua Lào và Campuchia về mọi mặt.
Thậm chí, trong một bài viết đăng tải trên báo Một Thế giới viết rằng: “Việt Nam bị Lào, Campuchia vượt qua không còn là dự báo, không còn là nguy cơ nữa mà đã thành hiện thực và cái danh sách thua kém ngày càng dài ra.”
Kinh tế
Nói về báo cáo của các tổ chức tài chính thế giới liên quan đến mức tăng trưởng của ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia, Tiến sĩ kinh tế Lê Đăng Doanh, nguyên là Viện trưởng Viện Quản lý Kinh tế Trung ương, từ Hà Nội đưa ra những điểm ông cho là đáng chú ý:
“Cái tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế Campuchia và của Lào cao hơn Việt Nam những năm gần đây. Campuchia tăng trưởng khoảng 7 – 8%. Trong khi đó Việt Nam năm ngoái chỉ tăng 6,21%, quí 1 năm nay tăng 5%.
Cái thứ hai, số doanh nghiệp tư nhân của Campuchia thì cũng cao hơn Việt Nam.
Campuchia cũng ít, hay hầu như không có những doanh nghiệp nhà nước lớn như Việt Nam kinh doanh vào những lĩnh vực có tính chất thương mại.
Lào có nhiều tài nguyên, nhất là tài nguyên thuỷ điện. và Lào đang cố gắng hướng đến sự phát triển mạnh mẽ.”
Lào có nhiều tài nguyên, nhất là tài nguyên thuỷ điện. và Lào đang cố gắng hướng đến sự phát triển mạnh mẽ.
- Tiến sĩ Lê Đăng Doanh
Báo Một Thế Giới từng trích dẫn lời chuyên gia kinh tế Lưu Bích Hồ - Nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu phát triển – đánh giá về khả năng hoạt động của các doanh nghiệp ở Việt Nam so với Lào và Campuchia. Ông đã đưa ra một vài nhận định khá đồng thuận với Tiến sĩ Lê Đăng Doanh.
Điển hình là ở mô hình kinh tế, một vấn đề dẫn đến sự tụt hậu của Việt Nam. Ông Lưu Bích Hồ cũng nói rằng “doanh nghiệp tư nhân của Campuchia không bị trì trệ, và đặc biệt, Campuchia không có nhiều doanh nghiệp nhà nước nên họ không gặp trở ngại về hệ thống hành chính”. Ngược lại, theo ông, nguyên nhân chủ yếu của Việt Nam là do “bộ máy hành chính quá cồng kềnh và chậm chạp trong việc cải cách.”
Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan hoàn toàn không phản biện vấn đề này. Bà chia sẻ ý kiến với báo trong nước rằng hoạt động kinh tế của Lào và Campuchia không xây dựng ở quy mô hoành tráng. Ngược lại, họ tập trung một số ít ngành có thế mạnh nên dẫn đến chất lượng hoạt động của doanh nghiệp tốt hơn Việt Nam.
Giáo dục dừng lại
Không phải chỉ riêng nền kinh tế, sự thụt lùi của Việt Nam so với Lào và Campuchia được báo chí trong nước nhắc đến ở nhiều dấu hiệu. Một trong những dấu hiệu đó nằm ở lĩnh vực giáo dục.
Tiến sĩ, nhà giáo Vũ Minh Giang đưa ra ý kiến về dấu hiệu tụt hậu giáo dục ở Việt Nam so với hiện tại và thập kỷ trước.
“Có một thời kỳ người ta đánh giá cao giáo dục Việt Nam thì lúc đó, tôi nghĩ rằng, những thành tựu của giáo dục Việt Nam tập trung ở cái giải quyết mặt bằng có tính đại trà.
Ví dụ từ một dân tộc mà số người không biết chữ rất đông, sau đó bằng nhiều chính sách có tính chất phổ cập thì người biết chữ gần như phổ cập toàn bộ thì đó là thành tích rất lớn của giáo dục Việt Nam.”
Với điều kiện kinh tế, xã hội, địa lý rất khác nhau của các vùng miền trong xã hội Việt Nam, nhưng nền giáo dục Việt Nam đã tạo ra được một sự tương đối khá đồng đều, Nhà giáo Vũ Minh Giang đánh giá đó là một nỗ lực rất lớn.
Tuy nhiên, ông đưa ra phản biện về ý kiến nói rằng giáo dục Việt Nam đã tụt hậu so với các nước láng giềng từ sau khi giáo dục được phổ cập toàn bộ.
000_Hkg1070751-400.jpg
Một trung tâm mua sắm ở Vientiane, Lào vào ngày 29 tháng 2 năm 2008. AFP photo
“Những gì mà ngay cả thời kỳ gọi là phát triển mạnh ấy thì bây giờ không gọi là tụt hậu mà là vẫn duy trì như thế. Người ta gọi là dừng lại. Trong khi đó thì các nước xung quanh phát triển bắt kịp với chuyển biến nhanh của thế giới.”
Vào giữa năm 2016, Nguyên Bộ trưởng Bộ Kế hoạch Đầu tư Bùi Quang Vinh, với vai trò là diễn giả trong buổi toạ đàm tại trường Đại học Tôn Đức Thắng cho biết điều ông trăn trở nhất là nguồn nhân lực của Việt Nam không được đào tạo và sử dụng có hiệu quả. So sánh với hình thức thi cử của các nước khác, ông Vinh chỉ ra thể chế của giáo dục Việt Nam là “kiểm soát đầu vào chặt chẽ mà không xem xét kết quả”.
Nhận xét về điều này, nhà giáo, Tiến sĩ Vũ Minh Giang nói rằng hệ thống giáo dục đào tạo Việt Nam cần phải có những cải cách rất mạnh mẽ và cấp bách. Ông gọi vấn đề này là “Đổi mới căn bản toàn diện.”
Cái điều Việt Nam cần phải làm là cải cách thể chế, cải cách bộ máy, nghĩa là nhà nước làm những việc mà đích thị nhà nước làm có hiệu quả và cần thiết.
- Tiến sĩ Lê Đăng Doanh 
Theo ông, giáo dục Việt Nam đã dừng lại quá lâu một phương thức tiếp cận mà cho đến bây giờ không phù hợp nữa, là tiếp cận nội dung, tức là dạy rất nhiều những kiến thức mà rồi kiến thức đó vận dụng vào xã hội khó khăn. Để tiếp cận nội dung thì học sinh phải học và nhớ rất nhiều. Hệ thống thi cử đánh giá thì cũng theo cách đó.
“Đấy là một hạn chế mà bây giờ đang bắt đầu công việc đổi mới không hề dễ chút nào, rất là khó khăn. Nó chuyển đổi hẳn sang một tiếp cận để người học được học phương pháp, học kỹ năng, học làm người và nhiều cái khác nữa. Bởi bây giờ, kiến thức thì người ta có thể tìm thấy ở bất cứ đâu, học ở bất cứ đâu.”
Bên cạnh đó, ông ý kiến thêm, người học phổ thông ở Việt Nam còn nhiều hạn chế về định hướng ngành nghề tương lai. Ông nhận thấy sự học ở Việt Nam vẫn còn trong tư tưởng Đại học là con đường duy nhất nên tạo ra sự mất cân đối trong đào tạo.
Bên cạnh nền giáo dục có tính cách đại chúng, theo nhà giáo Vũ Minh Giang, cần phải có một cơ chế thu hút nhân tài, sử dụng tài năng.
“Việc tìm, phát hiện và đặc biệt sử dụng tài năng ở Việt Nam hiện nay vẫn còn đang nhiều cái chưa phù hợp, chưa thu hút tài năng. Nguồn nhân lực tài năng hiện nay đang tìm đường đi nơi này nơi khác, nên vẫn còn hiện tượng người ta hay gọi là chảy máu chất xám.”
Cải cách thể chế
Không thiếu những buổi toạ đàm, những ý kiến của chuyên gia, tiến sĩ trong nước bày tỏ lo ngại về lời cảnh báo Việt Nam thua kém Lào và Campuchia. Ông Võ Trí Thành, chuyên gia kinh tế vĩ mô – Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, trong lần trả lời báo trong nước vào năm 2016 cho biết giải pháp cần thiết theo ông là chính sách tiền tệ phải được cân bằng, giữ ổn định thành quả kinh tế vĩ mô. Nhưng quan trọng hơn hết là cải cách thể chế.
Đồng thuận với ý kiến này, Tiến sĩ Lê Đăng Doanh nói rằng Việt Nam cần phải xem xét thực hiện một số vấn đề liên quan đến thể chế.
Cái điều Việt Nam cần phải làm là cải cách thể chế, cải cách bộ máy, nghĩa là nhà nước làm những việc mà đích thị nhà nước làm có hiệu quả và cần thiết.
- Tiến sĩ Lê Đăng Doanh
“Cái điều Việt Nam cần phải làm là cải cách thể chế, cải cách bộ máy, nghĩa là nhà nước làm những việc mà đích thị nhà nước làm có hiệu quả và cần thiết. Như chăm lo bảo vệ môi trường, xây dựng kết cấu hạ tầng, chăm lo giáo dục y tế. Còn các lĩnh vực thuần tuý thương mại như sản xuất bia nước ngọt thì nhà nước nên thoái vốn để tư nhân hoạt động có hiệu quả hơn.”
Tiến sĩ Lê Đăng Doanh nói rằng những vấn đề này một lần nữa đã được đề cập trong nghị quyết 19 của năm nay. Kết quả thực hiện sẽ như thế nào, vẫn còn là câu hỏi chưa có đáp án đối với xã hội, người dân Việt Nam. Tuy nhiên, có  hai điều mà ai quan tâm đến tình hình tăng trưởng của đất nước cũng tìm hiểu được, đó là chiếc ôtô "Angkor EV 2014" lấy tên ngôi đền cổ Angkor của Campuchia được điều khiển bằng điện thoại thông minh và thẻ căn cước tần số rađiô (RFID) có trang bị hệ thống GPS, có vận tốc tối đa 60km/giờ và do nhà sáng chế Nhean Phaloek, người Campuchia thiết kế.
Điều thứ hai, là câu nói nổi tiếng của ông Lý Quang Diệu, cố Thủ tướng Singapore từng nhận xét hàng: “Nếu có vị trí số một Đông Nam Á thì đó phải là Việt Nam.”