Wednesday, April 4, 2018

Tình Yêu - Tổ quốc - Danh dự - Trách nhiệm

Hồ Chí Phèo (Danlambao) - Cả một thời tuổi trẻ đã chiến đấu trong cuộc chiến khốc liệt với hàng triệu người chết, chiến đấu trong ngục tù CS với hàng ngàn người tù bỏ mình nơi hoang dã, ông có may mắn còn sống, và sống một cách đàng hoàng trong một quốc gia cùng một lý tưởng TỰ DO. Ông không giàu có, không có biệt phủ, không tiêu tốn hàng tỉ đồng vào cờ bạc, ăn chơi bời như các tướng tá Cộng sản tại VN hiện nay, nhưng ông vẫn có niềm vui riêng, hạnh phúc riêng trên một đất nước tự do, hạnh phúc. Vượt trên tất cả là một điều kì diệu gần như không tưởng, nước Úc quê hương mới đã mở rộng vòng tay đón nhận ông, một người lính đã chiến đấu cho TỰ DO. 

*

1. Tình yêu: 

Nắm tay đi đến cuối đường. 
Tình yêu ơi... nơi đâu là bến bờ. 

Melbourne, cuối năm 2017, 

Trong căn phòng nhỏ, nhìn qua cửa sổ, ánh nắng vàng nhạt buổi chiều vẫn cố nán lại để cùng cơn gió nhè nhẹ vui đùa trên các ngọn cây. Ánh sáng trong phòng đủ soi sáng bóng dáng một người đàn ông, dáng cao và gầy, đang ngồi trên giường, cúi xuống để đút thức ăn cho vợ. Ông nói nhẹ nhàng như đã từ thuở xa xưa nào, thuở của đôi tình nhân trẻ trung thích vui đùa và gọi nhau theo kiểu riêng “toa”, “moa”:

- Toa cố thêm tí. Người ốm lắm rồi đấy! 

Bà nhắm mắt, cố nâng đẩy nhẹ tay ông ra, nghiêng đầu qua một bên, mồm vẫn nhai nhóp nhép. Bà không chỉ ốm, cả khung người như đang thu nhỏ lại, mong manh và dễ vỡ. Thời xuân sắc, vui tươi, căng tràn đầy nhựa sống đã phũ phàng rũ áo ra đi. Thế gian này nào ai có thể cản được?

Ông đứng dậy, dọn dẹp khay đồ ăn. Bà chỉ ăn khoảng một phần tư, cũng nhờ ông cố dỗ dành. Chiều nào ông cũng vào khu dưỡng lão lo cho vợ ăn uống vì y tá rất bận rộn, không tốn thì giờ để năn nỉ đút ăn. Không ăn, họ dọn, thế thôi! 

Nhiều người bạn khen ông chung tình với vợ già quá. Ông chỉ cười: "Ấy mình phải trả lại tội lỗi. Tội ngày xưa hay nói dối vợ để đi du hí với bè bạn". 

Gốc người Hà Nội, di cư vào Nam năm 1954, chiều cao hơn một mét tám, dáng vẻ thư sinh, ăn nói duyên dáng, thời tuổi trẻ hẳn ông đã làm bao nhiêu bóng hồng điêu đứng. Cũng vì thế phải yêu nhiều quá, vượt tiêu chuẩn, nên nay ông phải "trả tội"?

Ông đến gần bên giường vợ, bấm nút điện hạ đầu giường xuống. Bà vẫn nhắm mắt, miệng vẫn nhai. Ông kéo chăn, che thân thể khẳng khiu của vợ, khẽ nói: 

- Toa nghỉ nhé. Trời tối rồi... Moa phải về đây. 

Hôm nay bà không khoẻ hay không được vui vì mọi hôm bà thường khẽ mở mắt, cố gắng bật lên lời chào: "Về nhá!". Bà yên lặng. Trí óc Bà đang bay bổng vào nơi nào đấy, không còn nhận thấy sự hiện hữu của ông trong phòng. 

Ông bước ra cầu thang máy, bấm mã số để xuống tầng dưới nhà. Ra vào khu nhà dưỡng lão, hay lên xuống cầu thang máy, người ta phải biết xử dụng mã số, tránh người bệnh già đi lang thang vào các nơi mà y tá chịu trách nhiệm không thể nào tìm ra. 

Nhà dưỡng lão có hai tầng. Mỗi tầng đều có nhà ăn riêng, rộng rãi, lịch sự. Chỉ người già còn khả năng tự đi hay lăn xe đến, tự chọn và thưởng thức món ăn. Còn những người yếu hơn, y tá sẽ đem đến từng phòng. Mỗi người già có phòng riêng với một nhà tắm rộng để nhân viên hàng ngày có thể đem máy tắm vào. Tắm và mát xa là điều rất cần cho người già ít còn khả năng di chuyển vì hệ tuần hoàn yếu và da đã bị lão hóa, máu đưa dưỡng chất để da hấp thụ ngày càng kém. 

Trời đã xâm xẩm tối khi ông bước ra ngoài. Giáng sinh đúng vào mùa hè ở Úc, nóng và khô nên đi bộ về nhà không khổ cực lắm, chỉ khoảng dăm phút. Mùa đông gió rét và ẩm ướt khiến không ai muốn đi ra ngoài trời. 

Vài năm trước, ông đã lái xe tông vào một gốc cây khiến hai vợ chồng đều bị đưa vào bệnh viện. Cảnh sát tiểu bang đã thu hồi bằng lái của ông già. Mất một niềm vui tự do lái xe đi nơi này, nơi kia, ông chỉ dựa vào vài người bạn còn lái được xe hay chuyên chở công cộng, và đi bộ. 

Mùa hè, trời tối, làn không khí mát đang len vào thay cái nóng khô rát của buổi chiều. Chỉ còn một mình, thui thủi bước trong bóng tối trở về nhà, một cảm giác lạnh lẽo của cô đơn như mọi ngày qua lại ập đến bên ông. 

Hai vợ chồng được chính phủ Úc cấp một căn nhà nhỏ, khang trang, mới được xây cất. Hai ông bà cùng trải qua năm tháng sống gần nhau trong căn nhà. Mỗi lần đi đâu về nhà, ông vẫn quen nghe tiếng chân bà chậm rãi bước ra cửa, tiếng bà cất lên: "Toa về đấy à?". Bây giờ chỉ bóng tối, sự yên lặng lạnh lùng chờ đợi đón ông về nhà. 

Khi bà sớm bắt đầu hội chứng mất trí nhớ, ông vẫn giữ ở nhà để chăm sóc. Cách đây nhiều tháng bà bị té nặng, sau đó không còn khả năng tự ăn uống hay vệ sinh cá nhân... Ông cũng nhận ra ở tuổi quá 80, ông không còn khả năng chăm sóc được ai nữa, buộc lòng phải đưa bà vào khu dưỡng lão. 

Mỗi chiều vào khu dưỡng lão thăm vợ, không phải để "rửa rội" như ông đùa. Ông muốn thăm vợ để gần gũi với hình bóng đã gắn bó với ông hầu như cả cuộc đời, để đút bà ăn, để có người nghe chuyện mình kể. Mặc dù ông không biết bà có hiểu gì không vì bà thường chỉ trả lời lại bằng một điệp khúc rất đơn giản: "Thế à...". 

Càng lớn tuổi người ta lại sống gần với kỷ niệm. Già dễ quên chuyện mới xẩy ra nhưng lại nhớ chuyện thời trẻ, thời niên thiếu và luôn cần người để nghe mình kể chuyện. Cuộc đời của ông quá nhiều chuyện phong phú để kể, nó gắn liền với tình yêu, với quê hương, với dân tộc. Tối nay cũng như những tối khác, từng bước chân âm thầm để trực giác tự hướng về căn nhà nhỏ, trí nhớ ông như cuốn phim đang chậm rãi quay lại những chuyện "không bao giờ quên"... 

2. Tổ quốc-Danh dự-Trách nhiệm: 

Nhân sinh tự cổ thùy vô tử, 
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh(*)

Đã chắc rằng ai nhục ai vinh, 
Mấy kẻ biết anh hang khi vị ngộ. 

(Nguyễn Công Trứ )

Cambodia, mùa hè 1972, 

Buổi sáng sớm, sương mù vẫn còn trãi dài trên khu rừng cao su Mimot, Nam Kratie, Cambodia. Núi rừng bao la luôn là nơi ẩn náu lý tưởng của mọi loài động vật. Dưới các tàng cây rậm rạp, các lán trại lẩn khuất trên một diện tích khá rộn khiến trực thăng dù bay sát ngọn cây cũng không nhìn ra. Đấy là binh trạm nơi trú quân của bộ đội Cộng sản Bắc Việt. Nơi đây cũng là trại giam quân nhân VNCH, tù nhân thuộc mặt trận phía Đông. Họ bị bắt ở vùng Lộc Ninh, An Lộc trong trận chiến “Mùa Hè Đỏ Lửa” tháng tư 1972. 

Trong không gian yên tĩnh bỗng vang lên tiếng kẻng báo động tập họp. Các tù nhân bị bộ đội Bắc Việt cầm súng, quát nạt, lùa vào khu đất trước nhà ăn. Các người tù bị ra lệnh xếp ngồi xổm và nghiêm trên mặt đất. Sau những tiếng ồn ào, tất cả yên lặng. Các người tù không dám nói gì, chỉ trao đổi với nhau bằng ánh mắt: "Chuyện gì đây? Bọn chúng tỏ vẻ sắt máu như chuẩn bị giết ai!". 

Chỉ Huy trại giam vóc dáng nhỏ bé, bước ra trước toán bộ đội đang đứng thẳng với các nét mặt cứng và lạnh lùng như bọn người máy, ông ta lên giọng kiểu cách như các lần rao giảng chính trị:

- Các anh bị bắt vào đây, Đảng và Nhà nước đã có chính sách khoan hồng, đối xử nhân đạo, cho các anh ăn uống đầy đủ, học tập cải tạo tư tưởng… Các anh phải hiểu rõ luật lệ của trại, chấp hành nghiêm chỉnh. Nhưng… Nhưng vẫn có người ngoan cố, lợi dụng sự lơ là, tự do của trại giam đã trốn khỏi trại. Trại giam quân Giải phóng, một con cá, một con tôm chưa thoát khỏi lưới huống hồ một tù nhân. Chỉ vài tiếng đồng hồ thoát khỏi, kẻ trốn trại đã bị toán truy đuổi bắt lại và anh ta đang đứng kia…

Chỉ Huy trại giam đưa tay về phía người tù vừa trốn trại. Cả đám tù nhân quay đầu nhìn về phía sau. Ánh sáng buổi sớm mai soi rõ bóng dáng cao của một người tù đứng dưới một gốc cây. Cổ, tay, chân của ông đều bị xiềng bằng dây xích. Đứng áp bên cạnh hai bộ đội cầm súng. Cả đám tù nhân sửng sốt, không ngừng được: 

- Trời ơi... Ông Dương…

Chỉ Huy trại giam đã đến điểm cực cao của màn trình diễn, mở nụ cười thoả mãn đắc thắng: 

- Anh Dương đã bị bắt lại đêm qua. Có thể anh ta bị xử bắn ngay tại chỗ nhưng Đảng và Nhà nước ta rất dân chủ. Kẻ có tội được đưa ra trước các anh và được xét xử công khai. Các anh được cho phép phát biểu ý kiến... Chúng tôi phải xử tội anh Dương như thế nào?

Ông Dương đang đứng thẳng trong bộ quần áo đầy bùn đất, trước các đồng ngũ VNCH, đã bị quân Bắc Việt bắt trong trận Lộc Ninh vào mùa hè đỏ lửa 1972. Mặc cho phiên toà bỏ túi đang diễn ra, trí nhớ của ông quay lại. Không phải quay lại những thước phim êm ả mà nó giận dữ, cuồng nộ như xích sắt của những chiếc thiết giáp bám đầy bùn đang xoay tròn trên mặt đất... Đấy là quang cảnh khói lửa mịt mù của ngày 4 tháng tư 1972, ông còn là Thiết đoàn trưởng Thiết đoàn 1 quân lực VNCH, đang đóng tại đồi Lộc Tấn, tiền đồn bảo vệ Lộc Ninh... 

Rất nhiều bài viết về trận đánh Lộc Ninh, bắt đầu từ 4/4/1975 đến 7/4/1975. Nhiều người có chuyên môn quân sự ở đủ mọi phía, phân tích theo cách nhìn riêng từng cá nhân, về sự thất bại của quân đội VNCH, đã không bảo vệ được quận lỵ nhỏ ở cuối cùng đường mòn HCM. Nhưng đơn giản, dễ hiểu cho người không cần đến kiến thức quân sự, hãy nghĩ đến truyện phim hình sự rất đơn giản: 

Người chủ nhà trở về, mở cửa bước vào nhà. Một kẻ vô lại, chuyên nghề trộm cướp, đã lên kế hoạch, chờ sẵn trong bóng tối với vũ khí. Hoàn toàn bất ngờ, hay lắm người chủ nhà chỉ tránh sao cho cú đập trí mạng không làm mình gục ngã hoàn toàn. Lộc Ninh là cú đập trí mạng mà BCT đảng CSVN cùng Võ Nguyên Giáp… đã bàn thảo, lên kế hoạch vô cùng tỉ mỉ, đưa vào chiến trường các nhân vật chủ chốt như Phạm Hùng, Ủy viên BCT, tướng Hoàng Văn Thái, tướng Trần Văn Trà... cùng hàng ngàn quân thuộc Công trường 9 quân Bắc Việt. Các võ khí hiện đại nhất của Liên Xô và Trung cộng như đạ̣i pháo 130 ly, dàn phóng hoả tiển 122 ly, súng chống tăng B40, B41, và lần đầu tiên quân Bắc Việt đã đưa vào chiến trường hàng trăm các chiến xa T54, PT76... Áp dụng chiến thuật "công đồn, đả viện", quân Bắc Việt đánh mạnh vào Lộc Ninh. Hàng vạn quân Bắc Việt cũng đã bố trí dầy đặc súng phòng không, súng chống tăng... ở các đường cứu viện từ Lộc Tấn, An Lộc,… lên Lộc Ninh. 

Sau khi hay tin chi đoàn 3/1 thiết giáp bị phục kích trên đường tiếp viện Lộc Ninh, Trung tá Dương chỉ huy chi đoàn 2/1 còn lại của Thiết đoàn 1, kéo từ Lộc Tấn lên tiếp cứu. Dù tránh được ổ phục kích, nhưng khi giao tranh dữ dội trong rừng cao su, xe tăng chỉ huy của ông bị bắn cháy. Thoát hiểm nhờ đồng đội cứu, trung tá Dương chỉ còn hai chiếc xe tăng M41 lê lết về Lộc Ninh. 

Lộc Ninh đã thất thủ. Chỉ huy Chiến đoàn 9/Sư đoàn 5 quân đội VNCH, đại tá Nguyễn Công Vĩnh bị bắt. Trung tá Dương và đồng đội còn lại, tuy mở đường máu thoát vào rừng nhưng cuối cùng cũng chung số phận vào ngày hôm sau 7/4/1972. Khi bị trói tay, không nhìn đến kẻ địch đang quát tháo, hạch hỏi, ông chỉ đưa mắt đã khô rát nhìn lên trời. Có ai hiểu sự đau đớn khi chỉ vừa nắm chỉ huy thiết đoàn vỏn vẹn 21 ngày, thiết đoàn đã tan tác, bao nhiêu sinh mạng chiến sĩ đã hy sinh, bao nhiêu gia đình với những người vợ, người con đã mất mát, không còn nhìn thấy mặt chồng, mặt cha? Ai hiểu cảm giác người chiến sĩ kỵ binh khi chiến xa mình bị bắn cháy, như người kỵ mã vuốt nhẹ đầu con ngựa mình yêu quí đã bị gẫy chân?

Theo đúng chỉ thị từ TW đảng CS, mọi quân nhân VNCH bị bắt trong trận Lộc Ninh bị đưa về giam ở rừng cao su Mimot, Cambodia. Trại giam có khoảng 5 láng, chia ra láng cấp tá, láng cấp úy... Tất cả tù "quân nhân Ngụy Quyền Miền Đông" được đối xử rất tử tế so với tù cải tạo của quân cán chính miền Nam VN sau 30/4/1975. Lý do dễ hiểu vào năm 1972, đảng CSVN rất cần món hàng tù binh… Rất cần để mặc cả trên bàn "đàm phán hoà bình" đang diễn ra ở Paris. 

Chỉ có một điều không đúng bài bản đảng đưa ra trong chiến cuộc khủng khiếp "Mùa hè đỏ lửa" là trận An Lộc. Quyết chiếm thị trấn hiền lành, nhỏ bé An Lộc bằng mọi giá để làm lễ ra mắt chính quyền do đảng chỉ định: "Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam". Một cố gắng tô son điểm phấn cho bên của mình tại hoà đàm: "Chẳng lẽ Mặt trận không làm chủ được một thành phố Miền Nam nào? Thế có được bao nhiêu dân miền Nam thuộc phe mình?". Hy sinh hàng ngàn sinh mạng các bộ đội trai trẻ miền Bắc vào lò lửa chiến tranh, Cộng sản vẫn không làm sao chiếm được An Lộc. Một thành phố đang an bình bổng trở thành địa ngục, chỉ còn các căn nhà đổ nát, xác người và máu. Thằng chuyên vừa ăn cướp, vừa la làng đã lộ rõ mặt chuột để đấu tay đôi với chủ nhà ở phòng khách giữa ban ngày ban mặt. Nhìn rõ mục tiêu của thằng vô lại, người chủ nhà không còn bị động, mọi việc đã hoàn toàn khác. Không chiếm được An lộc là một thất bại vô cùng ê chề, nhục nhã của Cộng sản Bắc Việt trong cuộc chiến "Mùa hè đỏ lửa 1972". 

Trong trại giam có tổng số khoảng 300 tù nhân thuộc quân đội VNCH. Tất cả trong trạng thái bồn chồn, lo lắng, ngồi nghe chỉ huy trại giam kể tội chiến hữu của mình. Họ lo ngại đưa mắt nhìn lẫn nhau, như trao đổi: "Chắc ông ấy bị xử bắn để răn đe mọi người". Không sợ hãi, một người tù mạnh bạo đứng phắt lên, dõng dạc: 

- Thưa cán bộ… Anh Dương được Cách mạng khoan hồng nhưng tư tưởng vẫn còn nhiều hạn chế, chưa đủ thời gian được giáo dục để cải tạo tốt. Tội trốn trại của anh Dương là tội rất nặng. Chúng tôi xin nhất trí đề nghị hình phạt rất nặng cho anh. Đề nghị cán bộ nghiêm khắc xử anh phải chịu CÁCH LY. Vâng cách ly khỏi chúng tôi, tuyệt đối không được giao tiếp, ăn cơm chung với chúng tôi. 

Chỉ huy trại giam có vẻ hồ hởi, vừa bước quanh, vừa gật gù: "Ngu sao mà không hiểu! Đồng đội bảo vệ lẫn nhau. Xử cách ly để khỏi xử bắn à... Nhưng mình cũng giả vờ thế thôi! Đảng đã ra chỉ thị rõ ràng. Cố giữ gìn hàng cho thực tốt để mặc cả, ngã giá trên hoà đàm. Chả thế Đảng cứ tích cực điện vào hỏi thăm liên tục "Đã bắt được bao nhiêu tù binh Mỹ Ngụy rồi?". Đảng chả thèm quan tâm gì đến hàng ngàn bộ đội bị chết, bị thương... Mình để sơ xuất mất một món hàng tù binh, là bị lột lon như chơi!". 

Ông bị cách ly theo đúng bài bản phiên toà tỏ vẻ dân chủ. Ông bị cùm chân, nhốt riêng vào một cái cũi tre rất chắc chắn để ngoài trời. Tuy phải lom khom, loay hoay xoay người qua lại trong cái cũi chật hẹp, ông vẫn mỉm cười với đồng đội đi loanh quanh gần đó. Họ luôn phiên quay nhìn ông với ánh mắt thăm hỏi. Những tù nhân cũng tìm dịp dấu diếm thêm cho ông phần thức ăn “bồi dưỡng” như ít cơm cháy, ít mẫu thịt... 

Cuối cùng "món hàng để mặc cả" được thả ra khỏi cái cũi, hai đồng đội phải dìu ông ra ngoài. 

Lửa trong mùa Hè 1972 đã tàn lụi với hàng vạn người chết ở Lộc Ninh, An Lộc, Quảng Trị, Đại Lộ Kinh Hoàng,... Kết thúc chiến dịch Hè 1972, CSVN không quan tâm đếm số bộ đội chết trận, chỉ lo ăn mừng vì chiếm được Lộc Ninh. Năm 1973, nhân loại thở phào nhẹ nhõm tưởng chừng chiến tranh VN hoàn toàn kết thúc khi Hiệp định Hoà Bình Paris được bốn bên Mỹ, Bắc Việt, VNCH, Mặt trận Giải Phóng ký kết. Theo điều khoản trao trả tù binh giữa bốn bên của Hiệp Định Paris, TT Dương và đồng độ̣i trong Quân Lực VNCH được trả tự do. 

Chiến tranh vẫn tiếp tục leo thang, máu tiếp tục đổ ra sau khi quân đội các nước đồng minh Mỹ, Úc, Nam Hàn, New Zealand, Thái Lan, Phillipines rút khỏi Nam Việt Nam. Hiệp định Hoà Bình Paris chỉ để chấm dứt một vở tuồng chính trị. Hai diễn viên xuất sắc Kissinger và Lê Đức Thọ trong vở tuồng “Hoà Đàm Paris” được trao giải “Nobel Hoà Bình”. Kissinger hí hửng nhận giải: "Đút vào túi cả trăm ngàn đô, ngu sao không nhận?". Lê Đức Thọ cũng muốn "không ngu" nhưng TW đảng CSVN phải họp hành lên kế hoạch đánh nhau tiếp: "Giả vờ "hòa bình" thế là đủ rồi!". Hơn nữa, chiến tranh không thể chấm dứt vì hai đàn anh CS Liên Xô, Trung Cộng chẳng lẽ khoanh tay đứng nhìn: "Cho bọn nó nợ từ viên đạn, lương khô... đến cả xe tăng, hoả tiển. Chẳng lẽ đánh đấm như thế chỉ được quận lỵ bé tí Lộc Ninh. Còn võ khí hiện đại bọn tao cho lại để nó sét rỉ à?". Hàng vạn bộ đội Bắc Việt tiếp tục hùng hục vượt đường mòn Trường Sơn vào Nam "đánh cho Tàu, đánh cho Liên Xô". Máu và lửa vẫn trãi dài từ Quảng Trị đến Cà Mau. 

Nặng nợ binh nghiệp vì tổ quốc còn cần, nhất là trong thân tâm Ông "Lộc Ninh nỗi đau còn đó và trách nhiệm của người lính phải rữa sạch mối hận này", TT Dương không xin giải ngũ, tiếp tục phục vụ trong binh chủng Thiết giáp VNCH. Ông lại nắm quyền chỉ huy Thiết đoàn 1 Kỵ Binh. Tiếp theo Ông nắm Thiết Đoàn 18 Kỵ binh thuộc Lữ Đoàn 3 Xung kích dưới quyền Tư Lệnh Lữ đoàn là Thiếu Tướng Trần Quang Khôi cho đến giờ thứ 25, ngày cuối cùng 30/4/1975. 

Bến Thủy, Nghệ An 1976. 

Những cửa sắt các toa tàu đóng lại, các tiếng vang rền của các thanh sắt va chạm mạnh, liên tục nối tiếp nhau. Đoàn tàu sắt rùng mình từ từ chuyển mình. Đấy là chuyến tàu đặc biệt, không có một toa hành khách nào chỉ là các toa tàu chở hàng kín mít, mỗi toa chỉ có một lổ thông gió nhỏ. Theo lệnh Trung Ương đảng CSVN, đây là chuyến tàu đầu tiên đưa ra Bắc những tù nhân đã có chức vụ trong chính quyền Miền Nam và đang "học tập cải tạo". 

Sau ngày 30/4/1975, qua nhiều tháng bị giam và lao động tại trại Suối Máu, ông và bạn tù đã được lệnh chuyển trại. Họ được đưa lên xe bít bùng từ trại giam về lại Sài Gòn. Trở về Sài Gòn trong xe tù, ông đưa mắt nhìn cảnh vật quen thuộc mình đã sống và không khỏi ngậm ngùi. Ông trở về Sài Gòn, rất gần gia đình nhưng cũng như xa cách nghìn trùng. Gia đình các tù nhân không hề hay biết việc di chuyển tù và không ai biết sẽ bị đưa đi đâu? Trước mắt là sông Sài Gòn quen thuộc đấy nhưng trong lòng các người tù như quặn đau. Phía trước thật mờ mịt, thật u ám, một chia ly như một hứa hẹn mãi mãi xa cách. 

Xe tù ngừng ở Tân Cảng. Trời chưa sáng nhưng đèn ở bến cảng sáng choang soi rõ một con tàu đã neo sẵn chờ bốc "hàng": tàu Sông Hương. Các người tù được lệnh xuống xe, ôm trong lòng túi đồ cá nhân. Tất cả được lệnh ngồi xuống đất theo tư thế ngồi nghiêm. Họ lặng lẽ nhưng những ánh mắt câm nín nhìn nhau đã nói lên tất cả cùng một tâm trạng của người tù: "Em và các con... Lúc này, em và các con chắc đang ngủ say. Đâu có biết rằng anh đang ngồi đây, gần nhà chúng ta lắm. Gần lắm nhưng mà sao lại thấy xa vời vợi và sẽ còn xa nữa... có thể là xa mãi mãi. Các anh như đang đi vào nơi gió cát, trên chiếc tàu hướng về một nơi vô định...!". 

Có lệnh lên tàu. Từng người tù hốc hác lầm lũi theo hàng một nối nhau bước lên cầu tàu. Gọi là "cầu tàu" cho ra vẻ, thực sự chỉ là mấy tấm ván chông chênh, không thành vịn, người tù nào không cẩn thận sẽ té nhào. Trước khi đứng dậy bước theo các bạn tù, Ông cúi xuống, hôn và lấy tay xoa nhẹ trên mặt đất khô cứng, sần sùi bụi cát của kho Bến Cảng: "Em và các con ở lại... Giã biệt Sài Gòn... Giã biệt em và các con!". 

Thành phố Vinh, Bến Thủy, buổi chiều tối, không gian tê tái, ảm đạm giống như trong các chuyến tàu chở các tù nhân Do Thái đi trại tập trung Auschwitz thời Thế chiến thứ hai. Để giữ bí mật trong việc chuyển tù, chuyến tàu sắt đậu ở một bãi đất hoang vắng cạnh bờ sông. Những Công An đồng phục màu "củ khoai lang" nhưng nét mặt lạnh như thép như những hung thần lính SS Đức Quốc Xã, tay cầm súng, sẵn sàng nổ súng bắn chết bất kỳ tù nhân nào. Các sĩ quan Công An CS, quân hàm đỏ như máu trên cổ áo, vừa chỉ tay, vừa hò hét ra lệnh. Tiếng còi tu huýt thi nhau rít lên, tiếng sủa thị uy của đàn chó Berger, vang dội trên nền các bánh xe sắt nghiến trên đường ray, tiếng cửa sắt của toa tù đóng mạnh, các tù nhân tiều tụy, áo quần xơ xác đã bị dồn lên hết các toa tàu. Sau khi tù nhân đã lên tàu, trước khi đóng và khoá cửa, Công An quăng mỗi toa tù một thùng khoai lang luộc: tiêu chuẩn ăn cầm hơi cho chuyến hành trình. Con tàu ngục tù với các toa sơn màu xám, ken két rời kho bãi. Con tàu chạy về trại tập trung, lò thiêu xác hay là gì khác? Không ai biết! Nhưng chắc chắn nơi chốn tù mới sẽ nghiệt ngã hơn rất nhiều. 

Mỗi toa tàu cho tù nhân chỉ có một lỗ thông hơi, thông khí cho khoảng 75 tù nhân trong mỗi toa. Các tù nhân thay nhau đứng trước lỗ thông hơi thưởng thức một chút hơi gió. Có tất cả khoảng 10 toa tàu ngục tù trong chuyến ra trại giam tập trung phía Bắc lần đầu này. 

Tàu chạy thẳng không ngừng ở bất kỳ trạm nào... Các tù nhân vẫn còn ngỡ ngàng, hoàn toàn không biết gì nơi chốn mình sẽ đến. Một vài tù nhân thoáng nhìn qua lỗ thông hơi, thì thào: "Tàu có lẽ đang chạy qua Thanh Hoá... Rồi Ninh Bình... Thời tiết âm u lắm...". 

Nhiều người tù có lẽ mệt mỏi, dựa vào lưng nhau hay thành tàu nghỉ ngơi. Ông lặng lẽ nhìn qua lỗ thông hơi. Trời đã về chiều. Đột nhiên ông bật người lên. Ánh đèn... Phải ông không nhầm, ánh đèn của cầu Long Biên. Tuy ánh đèn nhợt nhạt hơn xưa và cầu đã mất một nhịp, ông không bao giờ quên. Kỷ niệm thời thơ ấu vùn vụt quay trở lại. Nơi đây ông đã lớn lên. Có những buổi chiều ông cùng bạn bè vui đùa, cùng nhau chơi đá banh trên bãi cát Phúc Xá, hoặc bơi lội trên sông Hồng. Những lúc nghỉ ngơi, cả bọn cùng nhau ngồi, chia nhau vài mẩu bánh, nhìn phía cầu Long Biên, nơi những ánh đèn xe liên tiếp chạy nối theo nhau trên cầu. Ông thở dài. Ông đã trở lại Hà Nội. Trở lại nơi chôn dấu bao kỷ niệm đẹp nhưng với tâm trạng thê lương của một người tù. 

Khi ông báo mọi người tàu đang chạy qua Hà Nội, nhiều người háo hức muốn biết Hà Nội như thế nào? Có lẽ tất cả thất vọng: "Thủ đô của kẻ chiến thắng, kẻ huyênh hoang giải phóng không chỉ miền Nam mà cả thế giới, lại như thế này sao?". Hà Nội không còn những cô thiếu nữ tân thời, vui tươi, tình cảm như một thời lãng mạn xa xưa của Khái Hưng. Hoàn toàn rập khuôn như Cộng sản Tàu, chỉ còn đây những thiếu nữ nét lầm lì, khắc khổ, tóc thắt bím, đồng phục màu rêu bộ đội, đang lọc cọc đạp xe trên các con đường lồi lõm. Hà Nội không còn thanh lịch với 36 phố phường ngày xưa của Thạch Lam. Qua 30 năm, khung cảnh Hà Nội vẫn y như thời Pháp thuộc nhưng đã lâu không được chăm sóc, mọi thứ trở nên già nua, cũ kỹ hơn. Những căn nhà u ám, tường vôi tróc ra nham nhở, mái nhà rêu phong, cột điện siêu vẹo... Hà Nội đã trở thành một bà lão già ủ ê, mệt mỏi và chán chường. 

Qua Hà Nội, không khí ngột ngạt của toa tàu với quá nhiều tù nhân khiến có người bị ngạt thở. Lan, một người bạn rất thân thiết của ông lên cơn xuyển. Thân thể gầy yếu của Lan cong lên, cố hớp lên ít dưỡng khí hiếm hoi trong toa tàu. Mọi người la hét để xin cứu cấp, nhưng chỉ nhận được các báng súng đập mạnh cùng tiếng hét lạnh lùng "Yên lặng… Làm loạn chúng tôi bắn...". Đau đớn quá! Lan, người quân nhân đã cùng ông chia bùi xẻ ngọt như người thân trong một gia đình khi cùng chiến đấu ở các vùng địa đầu giới tuyến Gio Linh, Quảng Trị, Huế... đã trút hơi thở cuối cùng. Trung tá Bùi Đình Lan, một người nho nhã, dáng thư sinh, giỏi ngoại ngữ, đã từng làm việc trong Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến. Bây giờ ông chỉ còn một hình hài ốm yếu nằm bất động trên sàn tàu khô khan và lạnh lùng. Vài người tù lặng lẽ đứng nghiêm đưa tay lên chào vĩnh biệt. Linh hồn TT Lan đã vượt ra khỏi chuyến tàu ngục tù trước khi nó đến được ga cuối để quay trở về nhà: "Em và con thương yêu có còn yên bình để chờ Anh, chờ Bố trở về?" 

Mười năm sau này, người tù cải tạo Nguyễn Đức Dương, được tha trở về Sài Gòn, ông tìm gặp được L, vợ Trung tá Lan, đang ở tạm nhà người quen. Sau khi chồng bị tù tập trung, căn nhà duy nhất của gia đình bị "cách mạng" tịch thu để cấp cho cán bộ, bà L và bốn con bị đuổi đi vùng kinh tế mới. Sống khổ sở và lây lất vùng đất khô cằn sỏi đá, bà L và bốn con phải phân tán, lén lút trốn về thành phố, vô gia cư, không hộ khẩu, cũng như không được liên lạc, không tin tức về người chồng, người cha bị tù… Bẵng đi một thời gian sau đó, ông rất vui khi biết vợ và bốn con của Trung tá Lan đã vượt biên và được định cư ở Mỹ. Ông mất liên lạc. Tất cả chỉ còn trong kỷ niệm vô cùng sâu đậm của tình bè bạn, tình chiến hữu trong chiến tranh và ngục tù. 

Gần sáng chuyến tàu ngục tù đến vị trí đã định, lại một nơi đồng không mông quạnh với xa xa bóng dáng đồi núi chập trùng, một vùng ngoại ô phía Bắc Yên Bái. TW Đảng CS đã ra chỉ thị, phải đưa tất cả sĩ quan, viên chức lãnh đạo trong chính quyền VNCH ra các tỉnh biên giới phía Bắc học tập cho tốt. Đi "học tập" ở các tỉnh càng gần Trung quốc, nước anh em "môi hở răng lạnh" càng chắc ăn, Đảng và chính quyền càng yên tâm. 

Trong 75 người trên toa tàu của ông, chỉ 73 người trong toa tàu xuống ga. Còn hai người tù vẫn nằm lại trên khoang tàu. Họ đã tự chuyển qua một chuyến tàu khác, chuyến tàu ly biệt giữa sống và chết để đi về cõi vĩnh hằng. 

Các chiếc xe Molotova cùng công an tay lăm lăm súng ống chờ sẵn. Cộng sản VN học tập được rất nhiều từ Đức quốc xã, cũng như Stalin nên tất cả diễn ra đúng bài bản của một trại tù tập trung. Tù nhân lại bị xô đẩy lên các xe tải. Xe ì ạch chạy qua các con đường quanh co, lồi lõm, lên đồi, xuống dốc... 

Cuối cùng xe ngừng ở trại giam mới. Một trại giam đặc biệt với các dãy nhà san sát dành riêng cho chỗ ở cán bộ trại giam. Còn với tù nhân sẽ ở đâu?

Viên trưởng trại giam, mặt nhợt nhạt như bị sốt rét kinh niên, vừa nói vừa nghiến răng như thú dữ: "Các anh được tự do chọn các gốc cây nghỉ ngơi. Các anh phải tự dựng nhà để ở. Gạo, sắn, ngô nếu trại có sẵn sẽ cung cấp cho. Các anh phải tự làm việc để trồng cây lương thực, tự cải thiện buổi ăn. Các anh thích tự do nên chúng tôi cho các anh tự do để tự sinh tồn trong điều kiện hoang dã nhất. Nhưng... chúng tôi điều hành trại này cũng có qui luật riêng cho tự do của các anh. Ở đây là rừng, rất xa làng dân, xa thị trấn, các anh không thể nào có khả năng để thoát thân. May lắm thoát qua được biên giới cũng bị trả về chịu tội thôi. Luật quan trọng nhất của trại các anh phải luôn luôn nhớ: bất kỳ người nào trốn trại... chúng tôi sẽ bắn chết không thương tiếc. Chúng ta đang ở trong rừng, rất kín. Trong rừng nên luật lệ trong đây cũng là luật của nó. Đừng mơ tưởng điều gì khác!". 

Những người tù bắt buộc phải làm quen cuộc sống tù tội mới. Ăn uống thiếu thốn và phải chiến đấu cái rét như cắt da của núi rừng Yên Bái, nhất các người tù chỉ quen nắng ấm trong miền Nam. Những đêm đầu tiên không quen khí hậu, các loại côn trùng, muỗi mòng, không ai ngủ được. Bắt đầu một cuộc chiến mới với sự khắc nghiệt của nhà tù tập trung kiểu CS để sống còn. 

Một đêm trời mưa nặng hạt, chạy tìm chỗ tránh mưa, ông nhìn thấy một thùng phuy có lẽ dùng đựng nước. Trời tối lại mưa gió, không có ai chung quanh, ông lật ngang thùng phuy, chui được đầu và thân vào. Hạnh phúc quá! Không còn các hạt nước mưa bắn vào đầu vào cổ, ông ngủ quên đi lúc nào. Một giấc ngủ ngon trong đời tù tội. Trời sáng, thức dậy, ông không cựa quậy gì được. Tay chân ông như bị buộc vào một cái gì đó. Cuối cùng ông nhận ra ông đang nằm trong thùng phuy, không phải thùng chứa nước mà thùng chứa hắc ín cũ. Chất nhựa đường còn it́ lại trong thùng bám chặt vào người. Ông phải cởi áo, cởi quần, hy sinh vài mảng tóc để thoát thân. Cả đám tù nhân nhìn ông đứng tênh hênh, cùng cười hô hố, chúc mừng ông đã có giấc ngủ ngon trong cái thùng phuy đạt tiêu chuẩn năm sao! Nếu cán bộ không để ý, các tù nhân sẽ "cải tạo" thùng phuy để thay phiên trú ngụ. 

Ngày tháng qua đi, những thân thể còm cõi của người tù hàng ngày đưa các cây đã đốn ngã về dựng lên mái nhà tạm bợ để tránh mưa nắng. Trong hoàn cảnh nghiệt ngã con người lúc nào cũng phải cố gắng ngoi lên để sống còn. Không biết bao nhiêu tù nhân đã không thể vượt qua, ngã gục vì bệnh, vì đói, vì buông suôi, không còn thiết tha gì cuộc sống tù tội. Một nơi nào khác với cõi địa ngục này, có lẽ họ sẽ tìm thấy hạnh phúc? May mắn ông vẫn chống chọi được bệnh tật, đói rét, tiếp tục sống còn... 

Vài năm sau… cuộc sống tù đày như khá hơn vì người tù như đã quen cái lạnh, cái đói, các cơn sốt rét... Trại đón thêm các tù mới từ Nam ra. Một ngày ông được tập thể đề nghị lên chức, chức "anh nuôi". Không phải nuôi người mà nuôi lợn, nuôi heo cho cán bộ, nói tắt là nuôi "heo cán bộ". Tuy là con người nhưng tù nhân không được cán bộ trại giam quan tâm như heo cán bộ: "Lợn cho thịt để ăn, bán còn được tiền!". Heo mập tròn ỉnh, tù ốm như bộ xương, là định luật trại tù tập trung CS. Đúng tiêu chuẩn chức vụ quan trọng "tù nuôi heo cán bộ", ông được cấp một con dao, vào nơi trồng chuối, chặt cây chuối, vác về, thái ra làm thức ăn cho lợn. 

Thân cây chuối để nuôi heo cán bộ, còn trái chuối là thức ăn xa xỉ chỉ dành riêng cho cán bộ. Tù nhân không được đụng đến trái chuối. Một ngày ông tìm thấy một cây chuối với một buồng chuối sắp chín. Có lẽ cán bộ hớ hênh bỏ sót. Ông hạ ngay cây chuối. Buồng chuối được dấu ở nơi thật kín đáo. Thú rừng đánh hơi tinh lắm, chỉ kém thua cán bộ trại giam. Thú vật tìm ra là ông mất phần, còn cán bộ tìm ra ông mất chức "nuôi heo cán bộ", còn bị đánh đập, nhốt vào cũi. Phải dấu vào một gốc đá, ngụy trang thực khéo. Một cuộc chiến âm thầm với bọn cán bộ và các con thú rừng vì một buồng chuối. Ông thành công bảo vệ buồng chuối dù bị mất một ít do thú rừng. Những ngày được ngồi nhìn thung lũng bạt ngàn phía dưới, từ từ thưởng thức chất đường ngọt lịm từ trái chuối. Đấy là những giây phút hạnh phúc nhất trong cuộc đời một người tù. 

Ông không dám mang một trái chuối nào về trại. Cán bộ trại giam CS tuy ngu dốt nhưng có bản năng đánh hơi chuối chín còn hơn bất kỳ loại thú rừng nào! Thôi bạn tù cứ đè ông ra mà hít hà mùi cây chuối trên người ông đã vác trên vai. Không được ăn thì ngửi mùi hương cho đỡ nhớ! Một hạnh phúc thứ cấp, có còn hơn không! 

Sau mười năm dài trong trại tù Yên Bái, ông được thả ra về địa phương quản lý. Sau hai năm được xum họp gia đình, thường xuyên viết báo cáo, kiểm điểm hành vi với chính quyền địa phương, ông được trao trả quyền công dân. Chính quyền địa phương hớn hở làm buổi lễ long trọng để trao bằng công dân nước CHXHVN với đủ các màn trình diễn để tuyên truyền như Chủ tịch đọc diễn văn ca ngợi sự phấn đấu để trở thành công dân tốt, Bí Thư Đảng ca ngợi nhờ Đảng soi đường nay địa phương có thêm một công dân tốt... Nhưng chỉ một ngày hôm sau tại trụ sở công an địa phương nơi ông ở, Trưởng Công an trên tay cầm điện báo của công an Bến Tre, đã không cầm được câu chửi thề: "Đ M… Vừa mới khen là “công dân tốt”, nay lại phạm tội vượt biên trái phép rồi!". 

Riêng ông, ước mong được sống trong một xã hội tự do dù bất cứ nơi nào ở Châu Âu, Châu Mỹ, Châu Phi hay Bắc cực, Nam cực. Nhưng vận may vẫn chưa đến! Sau một đêm ngâm mình dưới nước biển lạnh cóng cùng những thanh niên khác dùng tay đào, kéo cát... để cứu chiếc tàu vượt biên đã bị mắc cạn vì tàu đụng phải hàng đáy. Nhưng trời đã sáng tỏ, đám công an biên phòng tỉnh Bến Tre đã tỉnh giấc, lù lù xuất hiện. Số phận lại đưa ông vào một "châu", không phải một châu lục khác trên thế giới. Tuy cũng là "châu" nhưng ở trong lãnh thổ Việt Nam: Châu Bình. Trại tù Châu Bình, một trại giam khét tiếng nghiệt ngã của tỉnh Bến Tre dành cho "tù vượt biên". Tại trại tù khổ sai này, "Công dân tốt" được Đảng và nhà nước chiếu cố, ông được bồi dưỡng làm "nghiên cứu sinh" thêm hai năm về đề tài "các loại tù dưới chế độ CS". Không hiểu sao, học tập dài đăng đẳng và khổ cực như thế, Nhà nước CS lại vờ vịt, quên khấy đi, không cấp cho ông bằng tiến sĩ "ngục tù Cộng sản"?

Nước Úc, quê hương tự do mới, 

Vào năm 1990, nhờ thân nhân bão lãnh, ông và vợ đến bến bờ tự do: nước Úc. Với hai bàn tay trắng, Ông phải làm thêm đủ các nghề như dạy lái xe, thông dịch viên... Dù qua tuổi 60, được hưởng trợ cấp cựu chiến binh như cựu binh Úc, ông vẫn có niềm vui đi làm thêm. 

Chiến tranh Việt Nam, một cuộc chiến gây nhiều chia rẽ trong xã hội Úc. Nhiều quân nhân Úc tham chiến tại Việt Nam khi trở về quê hương không được chào đón như các cựu quân nhân trong thế chiến thứ Nhất, thứ Hai. Nhưng qua đấu tranh không mệt mỏi của cựu binh Úc, cùng làn sóng tị nạn Cộng sản của người Việt, sự sụp đổ chế độ Cộng sản Âu Châu,... mọi người dân Úc cuối cùng đã nhận thức ra sự thật. Họ tổ chức các buổi vinh danh các cựu binh Úc tham dự chiến tranh Việt Nam. Cả nước Úc tổ chức hàng năm trận chiến Long Tân, xem như một chiến thắng lịch sử của quân đội Úc trước quân đội Bắc Việt tại Việt Nam. Đồng thời nước Úc vinh danh cả người lính VNCH, những đồng minh cùng chiến đấu cho lý tưởng tự do ngày nào cùng người lính Úc, nay cùng được hưởng qui chế cựu quân nhân Úc, Australian Veterans. Ngày ANZAC hàng năm, các cựu binh Úc cũng như cựu binh VNCH cùng khoác tay nhau diễn hành trên các đường phố lớn ở các thành phố lớn nhất nước Úc: Camberra, Sydney, Melbourne, Brisbane... Đây không phải là điều đem lại lợi ích vật chất cho người lính. Quan trọng hơn tất cả, đấy là một vinh dự to lớn, một phần thưởng tinh thần vô cùng quí giá cho người đã chiến đấu vì "Tổ quốc-Danh Dự-Trách Nhiệm".

Khi được hỏi tại sao ông không quyết định đi theo các cố vấn Mỹ di tản vào năm 1975, ông hóm hỉnh: "Mình đã cãi nhau với nó suốt ngày. Đi theo để cãi nhau tiếp à?". Không! Những người cố vấn Mỹ, ông vẫn xem là những người bạn tốt, vẫn thư từ hỏi thăm qua lại. Quyết định không di tản vì ông vẫn cảm thấy trách nhiệm một người lính, vẫn ở vị trí chiến đấu, không thể bỏ lại bè bạn trong giây phút cuối cùng của trận chiến?. Đi hay ở lại đến phút cuối, một quyết định khó khăn, tùy theo suy nghĩ, hoàn cảnh của mỗi người. 

Mỗi buổi tối trở về nhà, ông thường thức rất khuya, ngồi trên máy tính đọc thư của bạn bè ở mọi nơi, đọc các bài viết về chính trị, quân sự của Việt Nam và thế giới. Đấy là niềm vui nhỏ còn lại cho một người đã lớn tuổi. Một người cũng như bao người Việt khác, cuộc sống đã trải qua những thăng trầm nghiệt ngã nhất trong lịch sử của đất nước đầy máu lửa, đầy hận thù. Vì thế cứ vào những ngày tháng Tư hàng năm, dịp ông gợi nhớ lại những ngày tháng chiến tranh, ngục tù, những chiến hữu ngày xưa nay đã xa, hay đã rất xa... 

Cả một thời tuổi trẻ đã chiến đấu trong cuộc chiến khốc liệt với hàng triệu người chết, chiến đấu trong ngục tù CS với hàng ngàn người tù bỏ mình nơi hoang dã, ông có may mắn còn sống, và sống một cách đàng hoàng trong một quốc gia cùng một lý tưởng TỰ DO. Ông không giàu có, không có biệt phủ, không tiêu tốn hàng tỉ đồng vào cờ bạc, ăn chơi bời như các tướng tá Cộng sản tại VN hiện nay, nhưng ông vẫn có niềm vui riêng, hạnh phúc riêng trên một đất nước tự do, hạnh phúc. Vượt trên tất cả là một điều kì diệu gần như không tưởng, nước Úc quê hương mới đã mở rộng vòng tay đón nhận ông, một người lính đã chiến đấu cho TỰ DO. Nước Úc, đất nước tự do và nhân quyền bình đẳng cho mọi người, mọi di dân... Không có "phản động", không có "thế lực thù địch", không có tôn giáo "quốc doanh", không thần thánh hoá lãnh tụ, không đặc quyền cho "đảng viên", không cần lò củi để thiêu “tham nhũng”, trong giáo dục không có đảng viên bắt cô giáo quì gối… Xin cám ơn nước Úc: "Chúng ta dù có khác... Chúng ta vẫn là một...". Ngày nào mọi người Việt được tự do thực sự, không còn phân biệt đảng phái, chính trị,... cùng hát bài ca tương tự như bài quốc ca thứ hai của nước Úc. 

We are one, but we are many
And from all the lands on earth we come
We'll share a dream and sing with one voice
"I am, you are, we are Australian". 

(*) Dịch

Xưa nay thử hỏi ai không chết
Lưu tấm lòng son chiếu sử xanh

Hai câu thơ của Văn Thiên Tường, tướng nhà Tống, bị quân Nguyên bắt tù và sau đó bị hành quyết. 

(Cùng viết với TT Nguyễn Đức Dương nhân những ngày tháng Tư). 


Cộng sản phải phục vụ tư bản

Ngọc Ẩn (Danlambao) - Chủ thuyết cộng sản là đánh tư bản để lấy tài sản của tư sản chia cho người nghèo. Thực tế rất phũ phàng là CS sống bám vào các nước tư bản và CS van nài, bán rẽ sức lao động của người dân cho tư bản và CS phục vụ tư bản tối đa, kể cả tình dục. Hỏi người CS, có phải phục vụ tư bản là con đường tiến lên CNXH? Đảng CSVN làm kinh tế theo định hướng XHCN mà cứ ăn bám vào các nước tư bản thì làm sao định hướng? Các món ngon, quý hiếm thì CS đều xuất cảng để phục vụ các nước tư bản, như vậy thì dân theo CS hưởng được cái gì?

Ai dìm đất nước xuống?

Thủ phạm là Hồ Chí Minh và đảng CSVN đã du nhập chủ thuyết CS vào VN để bần cùng hóa cả dân tộc. Chúng ta thử làm một bài tính rất đơn giản để thấy đảng CSVN bán rẽ sức lao động của người dân. Ở Mỹ một công nhân lao động có số lương ít nhất là 120 dollar/ngày và giá thực phẩm ở Mỹ tương đương hoặc rẽ hơn tại VN. Ở VN một công nhân lương thấp là 10 dollar/ngày. Giá lương chênh lệch là 110 dollar/ngày khi so sánh giữa Mỹ và VN. Ước tính VN có 10 triệu công nhân làm việc mỗi ngày cho các công Mỹ, Nhật, Hàn, khối Âu Châu thì mỗi ngày đảng CSVN bán rẽ sức lao động của người dân hơn 1 tỉ dollar/ngày. Đây là một mối lợi khổng lồ cho các nước tư bản mà họ khó lòng bỏ qua. Bán rẽ sức lao động là lá bài tẩy của đảng CSVN dùng để phục vụ các nước tư bản và CS tiếp tục vi phạm nhân quyền trong khi đó tư bản phản ứng lấy lệ trước các vi phạm nhân quyền của CSVN. Muốn tìm nhân công rẽ thì phải đi vào các quốc gia cộng sản và độc tài, ở những quốc gia CS thì đảng no dân đói, đảng giàu dân nghèo.

Tại sao các nước cộng sản có nhân công giá rẻ mạt hạng?

Không phải vì công nhân ngu đần hay lười biếng mà chính là do đảng lãnh đạo, Nhà Nước quản lý và công an trị. Khi người công nhân đói và bọn Nhà Nước quản lý tham lam, ngu đần thì làm gì có sức mạnh để đòi hỏi lương cao? Hiến pháp ở thiên đường XHCN VN có tự do ngôn luận, có tự do báo chí, có quốc hội, có tòa án, có công đoàn nhưng tất cả đều là hàng giả. Dân VN bị đảng CS ép xài hàng giả gần một thế kỷ cho nên CSVN phọt ra bằng giả, tiến sĩ giả, lãnh đạo giả. Nghiệp đoàn giả thì làm sao đấu tranh cho quyền lợi thật của công nhân? Đại biểu quốc hội giả thì làm sao có tiếng nói bảo vệ quyền lợi người dân? Chánh án giả thì xữ án theo kiểu kẻ thắng có nhiều tiền đút lót. Kết quả là cả một xã hội giả trá và đó là kết quả Đảng lãnh đạo dân lãnh đao. Người VN muốn đoạn tuyệt với Đảng giả thì Dân lãnh đạo Đảng lãnh đao, chỉ khi đó thì lương công nhân được tăng cao, nhân quyền được tôn trọng. CSTQ dùng công nhân giá rẽ phục vụ cho tư bản đã 50 năm, giờ đây TQ hưởng được chút hơi hám của chủ nghĩa tư bản, do đó, TQ được CSVN phục vụ. Xét cho cùng thì đất nước CS nào chậm chân phục vụ tư bản thì sẽ phải phục vụ cho cả những nước CS biết ôm chân tư bản sớm hơn. Công nhân muốn lương cao, người dân có nhân quyền, đất nước có chủ quyền thì người dân đừng ngồi chờ đảng CS hay tư bản giải phóng. Tư bản và Tàu cộng thu lợi hơn một tỉ dollar/ngày trên giá công nhân VN rẽ mạt hạng, đảng CSVN tham nhũng tiền viện trợ từ TC và các nước tư bản thì làm sao bỏ. Đảng CSVN cứ dìm giá công nhân rẻ mạt thì tư bản sẽ chia phần qua các chương trình viện trợ vào túi các lãnh chúa CS.

Làm cách nào để người dân có Độc Lập-Tự Do-Hạnh Phúc?

Dân lãnh đạo Đảng lãnh đao chỉ có thế.

3-4-2018

Thành phần phên giậu

Trần Trung Đạo (Danlambao) - Thời đại Google giúp người dân thấy cái ngu dốt của giới cầm quyền CS trong phát biểu và trong cư xử, từ một Nguyễn Minh Triết ở Cuba cho tới một Nguyễn Thị Kim Ngân ở Việt Nam. 

Họ dốt nát thật chứ không ai vu cáo. Nhưng họ đã, đang và sẽ tiếp tục cai trị Việt Nam nếu không bị lật đổ. Bởi vì chung quanh họ có một lớp người làm phên giậu để bao che, cung phụng, cúi đầu làm nô lệ cho đảng trong các lãnh vực chuyên môn.

Năm 1958 tại Trung Cộng, Mao Trạch Đông đưa ra chính sách “Bước tiến nhảy vọt” bằng cách nấu chảy nồi niêu xoong chảo ra làm kim khí để chế đường rầy xe lửa, cầu cống, tàu bè, nhà máy cơ khí hạng nặng. 

Theo anh chàng gốc nông dân Mao Trạch Đông, tại sao phải tốn kém nhiều tiền của, công sức để khai thác thép và xây những nhà máy hiện đại trong khi có thể sản xuất dụng cụ bằng những phương pháp ít tốn kém. 

Một quan điểm vật lý vô cùng ấu trĩ mà một học sinh cấp tiểu học cũng biết là sai nhưng rất đông “nhà khoa học” cam phận làm bồi bút ca ngợi như là “chiếc cầu thang bước lên chủ nghĩa Cộng Sản”. 

Theo sử gia Frank Dikötter, chỉ trong vòng 4 năm từ 1958 đến 1962, đã có tới 45 triệu người Trung Hoa bị giết và chết đói trong các “công xã nhân dân”. Ai là thủ phạm? Mao. Đúng nhưng chưa đủ; ngoài Mao, còn phải kể tới thành phần phên giậu tại Trung Quốc.

Gorbachev nhìn lại những thay đổi trong xã hội Liên Sô thời ông làm Tổng Bí Thư đảng CS: “Cái khuôn mẫu Soviet thất bại không chỉ ở mức độ kinh tế xã hội mà thất bại ở mức độ văn hóa. Trong xã hội Liên Sô, các tầng lớp người dân, các thành phần có học, thành phần trí thức đã từ chối một chế độ không tôn trọng quyền làm người, trấn áp người dân cả về vật chất lẫn tinh thần”. 

Ngoài một ít tiếng nói cất lên trong cô đơn lạc lõng, giới có học tại Việt Nam giống hệt như Trung Cộng và khác hẳn với Liên Sô. 

Thành phần cung phụng đảng CS tại Việt Nam rất đông nhưng “thành phần trí thức đã từ chối một chế độ không tôn trọng quyền làm người” thì lại rất hiếm.

Không ít thuộc thành phần phên giậu Việt Nam tốt nghiệp chuyên môn ở các trường đại học Mỹ, Anh, Đức v.v... nhưng mang những kiến thức khoa học đó phục vụ cho đường lối cai trị đất nước bằng nhà tù, sân bắn của đảng CS. 

Họ biện minh rằng mình cũng giúp nước nhưng thật ra chỉ làm kéo dài sự chịu đựng triền miên của dân tộc. 

Ai là thủ phạm gây ra tình trạng sa đọa trong đạo đức, suy đồi trong văn hóa, lạc hậu trong kinh tế, ô nhiễm trong môi trường và đất biển rơi vào tay Trung Cộng? Đảng CSVN. 

Đúng nhưng chưa đủ, ngoài ra còn phải kể thành phần phên giậu đang cung phụng và bao che tội ác CS. 

Đừng vội kết án những cô gái phơi bày thân thể trần truồng trên đường phố để bày tỏ vui mừng sau một trận đá banh. Không cha mẹ Việt Nam nào dạy con làm những việc xúc phạm thuần phong mỹ tục, và cũng không phải do các cháu tự nghĩ ra những trò lố lăng như thế. Hành vi đó là kết quả của chính sách “trồng người” theo đúng quan điểm “đạo đức xã hội chủ nghĩa”. 

Thật vậy, cơ chế độc tài đảng trị CS đã biến con người Việt Nam vốn hiền hòa, chơn chất, yêu thương trong tinh thần “lá lành đùm lá rách”, “chị ngã em nâng” thành những kẻ tham lam, hẹp hòi, kiếm tiền bằng cách đầu độc đồng bào cùng máu mủ với mình. 

Thành phần phên giậu lý giải cho hành vi phản bội tổ quốc khi cho rằng dân trí Việt Nam chưa đủ cao để tiếp cận với nền dân chủ. 

Thế nào là cao và thế nào là đủ? 

Dân chủ là giá trị phổ quát của nhân loại chứ không phải tài sản riêng của một quốc gia nào.

Dân chủ là một tiến trình chứ không phải là thành phẩm do nước nào chế tạo. Tiến trình xây dựng và phát huy dân chủ có thể khác nhau tùy thuộc vào điều kiện của mỗi quốc gia nhưng vẫn là dân chủ. 

Trước năm 1989, Mông Cổ có thể nói là quốc gia chưa bao giờ thật sự biết gì về dân chủ nhưng giờ đây đã trở thành một nước dân chủ. 

Tháng Tư năm 1770, Thomas Jefferson, tổng thống thứ ba của Mỹ, phát biểu: “Theo định luật tự nhiên, tất cả con người sinh ra đều tự do, mọi người có mặt trên trái đất này có quyền riêng tư của chính họ”.

Hơn hai trăm năm sau, Tsakhiagiin Elbegdorj, một thanh niên Mông Cổ trở thành Thủ tướng Cộng Hòa Mông Cổ xác định câu nói của Thomas Jefferson là đúng trong buổi phỏng vấn dành cho báo New York Times năm 2004: “Chúng tôi muốn cho thế giới thấy rằng các giá trị thường được gọi là giá trị Tây phương không phải thuộc về Mỹ, châu Âu, Nam Hàn và Nhật Bản thôi nhưng còn thuộc về Mông Cổ”.

Điều đó cho thấy, dân chủ Mỹ hẳn nhiên khác với dân chủ Mông Cổ nhưng vẫn là dân chủ. Các giá trị dân chủ đó cũng thuộc về từng người Việt Nam.

Thành phần phên giậu đừng quên, dù kéo dài sự cai trị lâu dài, khi sụp đổ, các chế độ CS đều sụp rất nhanh. 

Ngày 21 tháng 12, 1989, Nicolae Ceaușescu đọc diễn văn trước trên một trăm ngàn người dân Romania nhưng chỉ bốn ngày sau vợ chồng ông ta bị xử bắn. 

Người bắn, Đại úy nhảy dù Ionel Boyeru, thuộc đơn vị ưu tú được tuyển chọn để bảo vệ các lãnh đạo trung ương đảng CS và cũng là người trước đó không lâu ký tên vào lá thư thề nguyền trung thành với Nicolae Ceaușescu. 

Giống như hầu hết những kẻ độc tài sống trong hoang tưởng quyền lực, những kẻ đang cai trị Việt Nam bằng bạo lực không đo lường được sức mạnh của lòng công phẫn. 

Giọt nước căm hờn bao nhiêu năm âm thầm chảy trong lòng người sẽ một ngày thành cơn lũ cuốn đi chế độ độc tài. 

Thành phần phên giậu làm giàu trên máu xương của đồng bào mình, tiếp tay với giới cai trị để đày ải đồng bào mình sẽ không có đủ thời gian tẩu tán tài sản, che đậy danh tính hay thậm chí trốn đi đâu. Thức dậy đi nếu còn một chút lương tâm Việt Nam.

4/4/2018

Chọn cách chết

Trần Quốc Việt (Danlambao) - Nếu mọi sự, tối quan trọng thể chế chính trị, không thay đổi thì trong tương lai không xa người Việt Nam sẽ rơi vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan Siberia. Hay nói cách khác đó là sự chọn lựa giữa hai cách chết.

Ở Siberia nhiều hồ đóng băng quanh năm. Cá thường tụ ở giữa hồ nơi có nhiều ánh nắng và thức ăn, vì thế những người câu cá thường bò ra chỗ lớp băng mỏng nhất để câu. Vào những ngày giá lạnh, nếu băng sụp xuống, họ đối mặt với tình trạng tiến thoái lưỡng nan Siberia- tức nếu họ ra khỏi nước và lên lại mặt băng thì họ sẽ biến thành khối nước đá và chết ngay tức thì, còn nếu họ vẫn ở dưới nước chờ đợi thì thường sau ba phút họ chết.

Nếu ta không chết trên giường bệnh ung thư; nếu ta không chết dưới bánh xe trên đường; nếu ta không chết dưới cơn mưa đấm đá trong đồn công an, thì ít nhất ta cũng chết nhiều về tâm hồn và lương tâm trong xã hội mà đạo đức ngày càng đảo điên, bản năng ngày càng che mờ lý trí, sống chết ngày càng mặc người dưới thể chế phản động và cực kỳ thối nát toàn diện chưa từng có. Con đường duy nhất giải thoát khỏi số phận tất yếu này chính là xác lập thể chế dân chủ và hồi sinh mạnh mẽ xã hội dân sự.

Nhưng tương lai chắc chắn là bóng đêm dài liệm kín bao thế hệ nếu tuyệt đại đa số mọi người hiện nay vẫn vô cảm và quay lưng lại với chính trị. Như thế, chúng ta chung cuộc trôi mãi trong vòng quay luân hồi vô tận của đau khổ nếu chúng ta không nhận lấy trách nhiệm công dân, nếu ta không cất lên tiếng nói của lương tâm và sự thật, nếu ta không là những Ngu Công phá núi toàn trị mở đường đến tương lai.

Nếu chúng ta thà mất tự do hơn mất miếng ăn thì có ngày chế độ độc tài toàn trị cũng sẽ cướp miếng ăn của ta. Nếu những người tốt trong chúng ta thờ ơ với chính sự thì tất yếu những kẻ ác sẽ mãi mãi cai trị chúng ta. Đất nước thuộc về nhân dân. Nếu họ chán ghét chế độ hiện hành này, họ phải thực thi quyền công dân để phản kháng và thực thi quyền cách mạng để lật đổ.

Hôm nay chúng ta vẫn còn có sự lựa chọn về cách sống cho mình và bao thế hệ mai sau nếu chúng ta ý thức về vai trò và trách nhiệm công dân của mình để tham gia vào phong trào dân chủ chống cường quyền dưới mọi hình thức ôn hòa. Tiếng nói tập thể từ nhân dân sẽ là vũ khí mạnh mẽ làm lung lay tận gốc chế độ. Nếu ai cũng chấp nhận hy sinh cho phong trào chung thì sự hy sinh cá nhân sẽ giảm nhẹ nhiều và hoa dân chủ và tự do sẽ tươi nở sớm hơn trên quê hương.

Đứng khoanh tay không làm gì cả trong xã hội thối nát và đầy bất công cũng là sự lựa chọn một cách sống mà tất nhiên ngày nào đấy sẽ khiến chúng ta chỉ còn được chọn lựa cách chết. Chết trong chờ đợi dưới lớp băng vô cảm ngày càng dày thêm. Hay rồi sẽ chết tức thì hôm nay dưới tay bạo quyền hay ngày mai dưới tay quân Tàu.

Ngày mai những người của Hội Anh Em Dân Chủ ra tòa vì họ có can đảm thực thi quyền công dân của mình nhằm tạo ra sự thay đổi tích cực cho xã hội. Họ đã chọn cách sống và gánh vác trên vai mình trách nhiệm công dân mà đáng lẽ ra là của hàng triệu người mà đã mặc nhiên chọn sự an phận cúi đầu để đi về tương lai nơi chỉ được chọn cách chết.

4/4/2018

Nhà nước cộng sản sắp đưa ông Nguyễn Văn Túc ra toà

CTV Danlambao - Phiên toà xét xử ông Nguyễn Văn Túc, một cựu TNLT và là một dân oan ở Thái Bình sẽ diễn ra vào ngày 10/4/2018, sau phiên xử luật sư Nguyễn Văn Đài và các đồng sự 5 ngày. Ông Nguyễn Văn Túc cũng được biết đến như là một trong những thành viên tích cực của Hội.

Cũng như các ông bà Đài, Trội, Tôn, Truyển, Đức, Hà, ông Túc bị buộc tội “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” theo điều 79 BLHS.

Thông tin về phiên xử ông Nguyễn Văn Túc được luật sư Ngô Anh Tuấn thông báo cho người thân của ông.

Xin nhắc lại, ông Nguyễn Văn Túc, 55 tuổi, quê Thái Bình, bị bắt ngày 1/9/2017. Ông bị bắt trong bối cảnh nhà cầm quyền mở cuộc trấn áp khốc liệt đối với phong trào đấu tranh trong nước, đặc biệt nhắm vào các thành viên Hội AEDC. 

Tính đến thời điểm này đã hơn 6 tháng, ông Túc chưa được gặp mặt thân nhân cũng như luật sư của mình.

Ông Nguyễn Văn Túc từng bị bắt cách đây mười năm, vào ngày 18/9/2008 và bị kết án 4 năm tù giam, 3 năm quản chế theo điều 88 “chống nhà nước” cùng với khoảng chục nhà hoạt động khác tại Hải Phòng và Hà Nội.

Sau khi ra tù, ông vẫn tiếp tục các hoạt động ôn hoà, tranh đấu cho tự do, dân chủ và nhân quyền. Ông bị bắt trở lại sau khi ra tù được 5 năm và hết án quản chế 3 năm. Giống như nhiều người đấu tranh khác, ông Túc có hoàn cảnh kinh tế khá khó khăn và sức khoẻ đặc biệt xuống dốc sau án tù trước.

Ông Nguyễn Văn Túc còn một mẹ già ngoài 80 tuổi. Hiện nhà cửa đất đai của ông bị nhà nước chiếm đoạt vẫn chưa đòi lại được thì ông bị đi tù lần hai.

Rất mong công luận quan tâm đến một chiến sĩ dân chủ can trường là ông Nguyễn Văn Túc.

4/4/2018

VN sẽ ‘cùng hợp tác khai thác’ hay chiến tranh dầu khí với TQ?

Theo VOA Tiếng Việt/04/04/2018 
Phạm Chí Dũng
Hàng không mẫu hạm Liêu Ninh dẫn đầu cuộc tập trận của hải quân Trung Quốc trên Biển Đông
 Hàng không mẫu hạm Liêu Ninh dẫn đầu cuộc tập trận của hải quân Trung Quốc trên Biển Đông
Câu chuyện mang tên “Cá Rồng Đỏ” và thực tồn trần trụi về việc chóp bu Việt Nam mất ăn ngay trên “biển nhà” của mình còn lâu mới kết thúc tính cổ tích đến mất ngủ của nó.
“Đái ra quần”
Đến tháng Tư năm 2018, tình hình có vẻ tạm an ủi là hàng không mẫu hạm Liêu Ninh của Trung Quốc chưa có dấu hiệu nào sẽ “giao lưu quốc phòng” với hải quân Việt Nam ở Đà Nẵng hay Cam Ranh, sau khi Hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson của Mỹ cập cảng Đà Nẵng vào đầu tháng Ba và thủy thủ đoàn Mỹ còn đồng ca bài “Nối vòng tay lớn” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.
Một số nguồn tin cho biết trong vài năm qua, phía Trung Quốc đã liên tục gợi ý với Việt Nam để tàu sân bay Trung Quốc, cụ thể là hàng không mẫu hạm Liêu Ninh, được chào đón ở Việt Nam. Cũng có tin cho biết Hà Nội đã cân nhắc cơ chế đón tiếp cả hai hàng không mẫu hạm của Trung Quốc và Hoa Kỳ theo truyền thống “Trung trước, Mỹ sau”. Tuy nhiên sau vụ hải quân Trung Quốc gây sức ép ở quần đảo Trường Sa và Bãi Tư Chính khiến Việt Nam phải muối mặt yêu cầu Repsol - một công ty Tây Ban Nha liên doanh với PetroVietnam - câm lặng rút khỏi dự án Cá Rồng Đỏ ở khu vực mà luôn được Bộ Ngoại giao Việt Nam chiến đấu võ miệng “thuộc vùng chủ quyền không tranh cãi của Việt Nam”, Tổng bí thư Trọng cùng Bộ trưởng quốc phòng Ngô Xuân Lịch và một số ủy viên bộ chính trị có vẻ đã thất vọng sâu sắc trước tham vọng “được đằng chân lân đằng đầu” của Bắc Kinh, mà từ đó đã dẫn tới quyết định cử tướng Lịch cấp tốc sang Mỹ vào tháng Bảy năm 2018 để cầu viện, cùng một chút chuyển đổi tư thế “dựa Mỹ đối Trung” của Việt Nam.
Nhưng tin tức khá xấu xảy đến vào cuối tháng Ba là sự hiện diện của USS Carl Vinson ở Đà Nẵng vào đầu tháng Ba đó đã chẳng mấy có tác dụng răn đe Trung Quốc, trong lúc “bản lĩnh Việt Nam” - một lối tuyên giáo không còn giới hạn liêm sỉ nào - đã tiến đến thời kỳ mà bị Trung Quốc dọa nạt một chút về chính trị, kinh tế hoặc quân sự là đã “đái ra quần” - như một cách ví von rất lịch sử ngàn năm Bắc thuộc của dân gian đương đại.
9 tháng sau “nỗi nhục Bãi Tư Chính” lần đầu, nỗi nhục lần thứ hai đã xảy ra ở cùng địa điểm. Một lần nữa, Repsol vội vàng tháo chạy khỏi mỏ dầu khí Cá Rồng Đỏ. Và đương nhiên vẫn không phải hệ thống chính trị hay báo chí nhà nước Việt Nam, mà lại là từ giới truyền thông quốc tế - vào lần này là cây bút Bill Hayton của đài BBC - đã phát hiện ra vụ “giương cờ trắng” không còn đất mà chui xuống như thế.
“Bản lĩnh Việt Nam” tiếp tục thể hiện bằng cơ chế “tự xử”: nếu ở “nỗi nhục Bãi Tư Chính” lần đầu, Petro Vietnam có thể phải bồi thường cho Repsol khoảng 36 triệu USD - kinh phí mà Repsol đã phải bỏ ra để thăm dò dầu khí, thì đến tháng Ba, con số bồi thường nghe nói lên đến 200 triệu USD.
Nhưng vẫn chưa hết, và còn lâu mới hết câu chuyện vừa hài hước vừa cay đắng này.
Tiếp theo màn “giương cờ trắng” lần 2 và thay cho sự hiện diện của hàng không mẫu hạm Liêu Ninh, Vương Nghị đã xuất hiện.
Tối hậu thư từ Vương Nghị
Chuyến đi Hà Nội của Vương Nghị diễn ra vào cuối tháng Ba năm 2018, chỉ khoảng một tuần sau “nỗi nhục Bãi tư Chính lần 2”.
Chuyến công du Việt Nam gần nhất của Vương Nghị là vào tháng 11/2017, nhưng không phải để “hai bên không làm phức tạp thêm tình hình” như cách nói của hai kẻ đồng đảng không cùng miếng ăn, mà là để chuẩn bị cho chuyến công du của Tập Cận Bình đến Hội nghị thượng đỉnh kinh tế APEC Đà Nẵng và sau đó có cuộc gặp “trà Trung Quốc ngon hơn trà việt Nam” với Nguyễn Phú Trọng.
Từ năm 2011 khi xảy ra vụ tàu hải giám Trung Quốc ngang ngược cắt cáp của tàu Bình Minh II của Việt Nam cho đến nay, Vương Nghị là một khuôn mặt xuất hiện thường xuyên ở Hà Nội và thường ngay sau các vụ Trung Quốc gây hấn với Việt Nam. Chiến thuật “vừa đánh vừa đàm” của Bắc Kinh là rất rõ, trong đó vai trò đe dọa và đàm phán của Bộ Ngoại giao Trung Quốc luôn tỏ ra có tác dụng đối với tinh thần bạc nhược của giới chóp bu Việt Nam.
Vào lần này, Vương Nghị đã lần lượt có các cuộc gặp với Bộ trưởng ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh và sau đó là Trần Đại Quang - Chủ tịch nước, Nguyễn Phú Trọng - Tổng bí thư, với chủ đề chung “kêu gọi kiềm chế trong việc giải quyết tranh chấp ở Biển Đông”.
Nhưng cũng như nhiều lần đối thoại song phương trước đây, giới quan chức Việt Nam vẫn chỉ “đọc bài”: “Chúng tôi đề xuất rằng đôi bên trong thời gian tới nghiêm túc triển khai nhận thức chung của lãnh đạo hai nước, kiểm soát tốt tranh chấp, không có các hành động làm phức tạp và mở rộng tranh chấp, tôn trọng quyền và quyền lợi chính đáng của mỗi nước theo luật pháp quốc tế”.
Trong khi đó, Vương Nghị đã nói trắng ra: “Đôi bên không nên tiến hành các hoạt động đơn phương làm phức tạp tình hình và nên củng cố hợp tác hàng hải để xây dựng một môi trường lành mạnh nhằm đạt được một thỏa thuận chung cuộc về giải quyết tranh chấp trên biển”.
Kết hợp với những tin tức trong vòng một năm qua về “hợp tác hàng hải” giữa Việt Nam và Trung Quốc, bản chất của những va chạm giữa hai chế độ “anh em” này chỉ là dầu khí và quyền được khai thác dầu khí.
Vào năm 2017, khoảng gần 2 tháng sau khi nổ ra vụ Bãi Tư Chính lần đầu tiên, một viên tướng Trung Quốc là Phạm Trường Long - Phó chủ tịch Quân ủy trung ương - đã đến Hà Nội. Khi đó, tin tức từ giới truyền thông quốc tế tiết lộ là Phạm Trường Long đã đòi Việt Nam hủy bỏ hoạt động dò tìm dầu khí tại các lô 118 (ngoài khơi Quảng Nam -Quảng Ngãi) và lô 136-3 (đông nam Vũng Tàu 200 hải lý). Những lô dầu khí này hoàn toàn nằm trong vùng thềm lục địa đặc quyền kinh tế của Việt Nam nhưng lại bị vạch chủ quyền hình “Lưỡi Bò” của Trung Quốc vắt chéo qua. Nhưng sau khi bị giới chóp bu Việt Nam phản đối, tướng Phạm Trường Long đã bỏ về thẳng mà không ở lại dự “giao lưu quân đội Việt - Trung”.
Không chỉ Cá Rồng Đỏ mà cả Cá Voi Xanh…
Một thực trạng trần trụi là mỏ khí đốt Cá Rồng Đỏ ở lô 136/03 thuộc Bãi Tư Chính và mỏ Cá Voi Xanh ở ngoài khơi Quảng Nam, Quảng Ngãi là vài tiềm năng cuối cùng có thể cứu vãn ngân sách Việt Nam đang cạn kiệt. Nếu Repsol và ExxonMobil khai thác thành công thì ngân sách cùng chế độ Việt Nam sẽ được chia phần không ít.
Riêng mỏ Cá Voi Xanh là dự án dầu khí lớn nhất của Việt Nam mà dự kiến khai thác khí ở mỏ này sẽ đóng góp gần 20 tỷ đô la vào ngân sách Việt Nam. Vào tháng Giêng năm 2017, Tập đoàn dầu khí ExxonMobil của Mỹ đã trở thành nhà khai thác khí đốt lớn nhất của Việt Nam sau khi ký kết một hợp đồng trị giá 10 tỷ đô la để khai thác dầu khí trên Biển Đông với PetroVietnam.
Thế nhưng sau khi nhận được giấy phép khai thác, đã có một sự cố xảy ra: ngày 7/11/2017, ExxonMobil đã mang lại nỗi thất vọng lớn lao cho giới chóp bu Việt Nam khi Chủ tịch Liam Mallon của Công ty Phát triển ExxonMobil đã tuyên bố sẽ hoãn dự án hợp tác với Việt Nam trên Biển Đông tới năm 2019.
Khi đó, một số đánh giá đã giả thiết về nguyên nhân chủ yếu và có thể là duy nhất của việc phải hoãn dự án có thể là Trung Quốc gây sức ép mà đã khiến Việt Nam có thể phải điều đình để ExxonMobil tạm ngừng khai thác mỏ Cá Voi Xanh.
Nhưng đến tháng Ba năm 218 khi xảy ra vụ Repsol phải lần thứ hai liên tiếp rút khỏi mỏ Cá Rồng Đỏ, giả thiết đã biến thành thực tế được xác nghiệm một cách sống sượng: vẫn là “đối tác chiến lược toàn diện lớn nhất của Việt Nam” là Trung Quốc đã nhảy bổ vào nhà của giới chóp bu Việt Nam để đòi không được hợp tác với Mỹ mà phải hợp tác với Trung Quốc để khai thác dầu khí.
Chắc chắn là để đưa ra yêu sách trên, các chuyên gia phân tích tâm lý chính trị ở Bắc Kinh đã nắm rất rõ tinh thần “văn dốt võ nhát” và “chưa đánh đã chạy” của một số quan chức cao cấp Việt Nam.
“Cùng hợp tác khai thác” hay chiến tranh dầu khí?
Phép thử liên tục đối với tinh thần trên đã được Trung Quốc tung ra suốt từ năm 2011 đến nay - chiến thuật huy động số đông tàu cá được bảo vệ bởi tàu hải giám lao vào vùng hải phận Việt Nam; và chiến thuật vừa khiêu khích vừa tấn công, đâm chìm tàu Việt, hành hung và bắn giết ngư dân Việt.
Trong khi đó ở Việt Nam, những thước phim lịch sử “ngư dân bám biển, hải quân bám bờ” vẫn được nhăn nhở chiếu lại. Từ nhiều năm qua, đã không có bất cứ trường hợp ngư dân Việt nào bị tàu Trung Quốc bắn giết được Bộ Quốc phòng Việt Nam công bố kết quả điều tra, bất chấp cơ quan bộ này hàng năm chi xài đến 5 tỷ USD tiền do dân phải è cổ đóng thuế.
Giờ đây, kịch bản thất bại đến mất ngủ ở Bãi Tư Chính đang lặp lại, khiến giới chóp bu Việt Nam mất ăn dầu khí ngay trên vùng lãnh hải của mình và càng bế tắc trong cơn ác mộng những khoản nợ nước ngoài đang ập đến như sóng thần Biển Đông.
Phương trình Biển Đông cứ mỗi tháng trôi qua lại sinh sôi thêm nhiều ẩn số. Có quá nhiều lý do để Bộ Chính trị đảng cùng cơn lạm phát gần 500 tướng quân đội phải đau đầu đến thống phong. Nếu chấp nhận “hợp tác cùng khai thác dầu khí” với Trung Quốc theo lối nói không thèm úp mở của Vương Nghị, Việt Nam sẽ đồng thời phải thừa nhận một tiền lệ chưa từng có về việc phải cho kẻ cướp chung sống trong nhà mình và một cách chính thức bắt đầu chấp nhận ách đô hộ của “Hoàng đế Tập Cận Bình”.
Còn nếu không chấp nhận cách chia bôi lợi nhuận dầu khí với kẻ cướp, tương lai có thể sẽ là một cuộc xung đột quân sự.
Năm 2018 tiềm ẩn tính kích nổ. Lồng trong khung cảnh Tổng thống Trump đang khởi động cuộc chiến tranh thương mại với nước Nga, Trung Quốc và một phần Tây Âu, tương lai chiến tranh quân sự Việt - Trung về thực chất có thể đã được khởi sự từ cuộc “chiến tranh dầu khí” ở Bãi Tư Chính vào hai năm 2017 và 2018.