Sunday, April 3, 2016

Trung Quốc Và Biện Chứng Giàn Khoan Hải Dương-943

Đào Như-03/04/201616:15:00



Cục Hải sự Trung Quốc hôm 28-3 vừa rồi thông báo cho biết Giàn Khoan Hải Dương-943 của nước này sẽ hoạt động tại giếng LD-11-1-1 ở vị trí có tọa độ 17độ 47’28,8’’ về phía Bắc 108độ48’00 kinh Đông, kể từ ngày 25-3 đến 31-7-2016.  Một lần nữa Trung Quốc lại dùng GKHD-943 như biện chứng để tranh cãi chủ quyền biển đảo trên Biển Đông với VN. Nếu GKHD-943 neo đậu đúng vào tọa độ mà cục Hải sự của TQ vừa tuyên bố, người Việt chúng ta cần chú ý theo dõi :
1-Nếu quả thật như vậy GKHD-943 chỉ cách thành phố Tam Á ở đảo Hải Nam 50 hải lý về phía Tây Nam. Vị trí này nằm ngay ngoài cửa vịnh Bắc bộ, trong khu vực vùng biển kinh tế chồng lấn giữa TQ và VN chưa được phân định dứt khoát, chỉ có giá trị giả định nhất thời.
2-Thực sư GKHD-943 đã lên đường đến địa điểm neo đậu và hoạt đông kể từ ngày 25-3-mà cho đến mãi ngày 28-3 cục Hải sự của TQ mới thông báo. Trong khi đó BộTrưởng Quốc Phòng Trung Quốc Thường Vạn Toàn đang có chuyến viếng thăm Hà Nội kể từ ngày 27-3 đến 31-3 với mục đích đồng chủ trì Hội nghị Giao lưu Quốc Phòng giữa VN và TQ.
Tại Hà Nội, Thường Vạn Toàn có buổi tiếp kiến với tbt Nguyễn Phú Trọng. Cả hai người chỉ biết xum xoe với nhau đồng hứa hẹn đề cao phương châm ngoại giao ‘4Tốt‘ và ’16 chữ vàng’ mà phía Bắc kinh đã áp đặt trong quan hệ với Hà Nội. Thường vạn Toàn và tbt Nguyễn Phú Trọng không một lời đề cập đến sự hiện diện của GKHD-943 đang hoạt động ngay ngoài cửa  vịnh Bắc bộ kể từ ngày 25-3-2016. Tại sao lại có chuyện lạ lùng như vậy? Thật đáng buồn cho lập trường chính trị của của  người cộng sản Bắc Hà. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Thủ tướng  Nguyễn Tấn Dũng vừa bị cách chức (miễn nhiệm) vô cớ và vi hiến, Bắc kinh liền đem GKHD-943 xâm nhập vùng biển ViệtNam ngay tại ngoài cửa vịnh Bắc Bộ, để làm phép thử sự trung thành và sức chịu đựng của tbt Nguyễn Phú Trọng và những người cộng sản phe cánh của ông.  Trước động thái này của Bắc kinh, Hà nội vẫn im hơi lặng tiếng. Thế mới TBT Nguyễn Phú Trọng và các đảng viên Đảng cộng sản Bắc hà  kiên định lập trường chủ nghĩa Mác lênin mà lệ thuộc Trung Quốc đến thế là cùng!
GKHD-943 là loại giàn khoan có thể hoạt động ở độ sâu 122m và có thể khoan sâu đến 10.668m. Mỗi chuyến tác nghiệp hay họat động, GKHD-943 được bảo vệ và hỗ trợ bởi nhiều tàu hải dương khác, trong đó có ba tàu Hải dương lớn: HD.564, 617, 618…và nhiều Tàu chiến và Không-lực yểm trợ khác rất là hùng hậu. GKHD-943 là biểu tượng không chỉ sức mạnh kinh tế mà còn là ‘quả đấm thép’ của sức mạnh chính trị của TQ đối với các nước yếu hơn, các nước ASEAN, nhất là VN.
Theo công ước luật biển năm 1982, khi chưa có đường phân định cuối cùng tại những khu vực chồng lấn, thì không một bên nào có thể tạm thời sử dụng một đường trung tuyến giả định làm căn cứ để giải quyết các vấn đề hoạt động tại khu vực này.
Cho nên việc TQ hạ đặt GKHD-943 tại khu vực chồng lấn này là một việc làm trái phép, chống với luật biển năm 1982. Nếu Việt Nam không lên tiếng phản đối mạnh mẽ trước dư luận quốc tế và tổ chức LHQ ngay bây giờ, trước ngày 31-7-2016, nghĩa là trước ngày GKHD-943 tự rút ra vùng lãnh hải trên sau khi hoàn tất hoạt động tác nghiệp, sau này TQ có đủ lý do viện cớ rằng VN đã từ chối chủ quyền của mình tại quần đảo Hoàng Sa- Nghĩa là VN mặc nhiên công nhận chủ quyền của TQ tại quần đảo Hoàng sa mà TQ gọi là Tây sa. Và như vậy theo TQ sẽ không còn vấn đề tranh cãi chủ quyền của quần đảo này thuộc về ai? TQ hay VN!  Đó là cái bẫy pháp lý mà Bắc Kinh đã giăng ra theo TS Trần Công Trực. Trên một diện khác, theo nhận định của một số nhân sĩ VN, bên cạnh ‘quả đấm thép’-GKHD-943- Hội nghị giao lưu Quốc phòng VN và TQ từ ngày 27-3-đến hết ngày 31-3-2016 tại biên giới Việt Trung-Lạng Sơn của VN và Quảng Tây của TQ và sự việc Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Thường Vạn Toàn cũng có mặt tại Hà nội vào cuối tháng 3 để gọi là đồng chủ trì hội nghị giao lưu Quốc phòng VN-TQ, ngay cả việc vận dụng hàng ngàn cựu chiến binh TQ của cuộc chiến 17-2-1979 đến du lịch và tưởng niệm cuộc chiến vùng biên giới Quảng Tây của TQ và Lạng Sơn của VN gần hội nghị giao lưu quốc phòng Việt Trung, tất cả cũng chỉ là những sự kiện mà Trung Quốc đã dàng dựng có tính toán trong ý đồ gây sứp ép chính trường Việt Nam.   
Rất có thể việc hạ đặt GKHD-943 ngay tại ngoài vịnh Bắc Bộ hôm 28-3 còn mang ý nghĩa của một áp lực của TQ, “quả đấm thép” của nước này đe dọa nền độc lập và tự chủ của Việt Nam trước chuyến viếng thăm Hà Nội của Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama vào ngày 16-tháng Năm sắp tới.  
Vì tham vọng khống chế toàn Biển Đông qua mô hình lưỡi bò và đường 9 khúc, Tập Cận Bình lên tiếng đe dọa Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama ngay tại buổi họp bên lề Hội nghị cấp cao về Hạt Nhân tại Washington D C, hôm 31 tháng 3. Tập Cận Bình cũng mong muốn Mỹ sẽ tuân thủ và cam kết Mỹ sẽ không đứng về phe nào trong vụ tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông. Tại buổi họp này ông Tập còn cho rẳng TQ không chấp nhận bất cứ hành vi nào dưới danh nghĩa là tự do hàng hải để xâm phạm chủ quyền lãnh thổ lãnh hải của TQ, tại Biển Nam Trung Hoa (tức Biển Đông).
“Quả đấm thép”- GKHD-943-Trung Quốc đã giương ra, Liệu TBT Nguyễn Phú Trọng và ĐCSVN sẽ vùng lên để khuất phục TQ bằng cách lên tiếng  phản đối mạnh mẽ trước thế giới và nhân loại như Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã làm hồi năm 2014 khi Giàn khoan này hạ đặt trái phép trong vùng biển đặc quyền kinh tế của ViệtNam? Hay TBT Nguyễn Phú Trọng và ĐCSVN sẽ oằn người hứng chịu sư lệ thuộc TQ, kiên định chủ nghĩa Mac Lênin và bảo vệ phương ngoại giao “4 Tốt và 16 chữ vàng” trong quan hệ với Bắc Kinh? Đó là câu hỏi lớn lao đang xoáy trong lương tri của mọi công dân yêu nước Việt Nam.
Hiện tại chưa ai lường được hiệu năng sức ép của GKHD-943 trên hội nghị Giao lưu Quốc Phòng giữa VN và TQ lần thứ 3 đến mức độ nào?
 Ngoài “quả đấm thép”-GKHD-943, liệu Trung Quốc sẽ tung ra những đòn phép  hung hãn nào hơn nữa để làm lung lạc ý chí của các lãnh đạo Việt Nam tại buổi hòa đàm với Tổng Thống Hoa Kỳ Barack Obama vào ngày 16-5-2016 sắp tới tại Hà Nội./.
Đào Như
Illinois-USA
April/3/2016

GHI CHÚ VỀ NGUỒN
Các dữ kiện của bài viết trên đều dựa trên những thong tin của các websites sau đây:
1-ĐƯA GIÀN KHOAN HD-943 VÀO BIỂN ĐÔNG PHẢI CHĂNG TRUNG QUỐC ĐANG GIĂNG BẪY PHÁP LY
2-TÍNH TOÁN CỦA BẮC KINH TRONG ÂM MƯU ĐƯA BTQP- THƯỜNG VẠN TOÀN SANG VIỆT NAM HỘI KIẾN VỜI TBT NGUYỄN PHÚ TRỌNG
 3-Tập Cận Bình đe dọa Tổng thống Mỹ Obama tại hội nghị thượng đỉnh hạt nhân hốm 1-4-2016 tại Washington.D.C.

Tháng Tư, Tìm Người Mất Xác

Huỳnh Kim Quang-03/04/2016
1
Buổi sáng hôm ấy, bầu trời trong veo. Mặt trời vừa lên khỏi rặng tre sau vườn nhà. Những tia nắng đầu ngày rọi qua giọt sương mai lóng lánh chưa kịp tan còn đọng trên đầu ngọn cỏ xanh mơn mởn. Tiểu thế giới bình an và kỳ diệu lặng lẽ có mặt giữa đất nước loạn ly đang ở vào những ngày tuyệt vọng giẫy chết!

Đó là một ngày đầu tháng 4 năm 1975, khoảng vài mươi ngày trước khi Sài Gòn thất thủ. Trong buổi sáng hôm đó gia đình tôi nhận được hung tin. Người anh Thứ Bốn của tôi đã bị Cộng Sản giết tập thể cùng với hơn một trăm hai mươi quân cán chính Việt Nam Cộng Hòa khác tại Núi Đất, Xã Hòa Định, Quận Tuy Hòa, Tỉnh Phú Yên.

Cha tôi kêu người anh Thứ Bảy và tôi cùng đi đến đó để tìm xác anh tôi mà đem về chôn. Chúng tôi đi bộ. Con đường đất dài khoảng 3, 4 cây số. Từ nhà tôi đi dọc theo hướng tây con mương chạy theo Đường Liên Tỉnh Lộ 7 đến Mương Số 1 thì quẹo phải rồi băng qua cánh đồng rộng để vào chân Núi Đất.

Mới vừa tới đầu Mương Số 1 thì đã thấy nhiều người đi ngược đi xuôi. Kẻ thì khóc than, kêu la thảm thiết. Người thì khiêng xác được bó lại trong những chiếc chiếu hay miếng nhựa cột hai đầu treo dưới đòn gánh bằng tre.

Lúc đến bìa rừng gần nơi bãi xác người thì bắt đầu ngửi được mùi tử thi xông lên nồng nặc. Đến khi vào tới chỗ hiện trường bãi đất xử bắn thì mùi tử thi bốc lên không thể nào ngửi được nữa. Cha tôi đã đưa cho anh tôi và tôi mỗi người mỗi tấm vải và chai dầu Song Thập. Ông kêu đổ dầu lên vải rồi bịt vào mũi để đánh tan bớt mùi hôi. Tôi làm theo. Đổ dầu lên miếng vải rồi lấy một tay bụm vào mũi. Mới đầu thì còn nghe mùi dầu nhưng chỉ trong chốc lát thì mùi dầu như bay hết, chỉ còn mùi xác chết thối rữa nặng kinh khủng. Ngày thường, nếu đổ dầu Song Thập mà hít vào mũi như vậy là ngộp thở ngay vì mùi dầu rất nồng và cay. Nhưng vì lúc đó không còn thần trì đâu để ngại ngùng chuyện hôi thúi mà chỉ để tâm đến việc tìm xác anh tôi, nên đành chịu trận như thế cho tới khi về.

Trước mắt tôi một bãi đất trống rộng khoảng gần một nửa sào đất nằm ngay bìa rừng, bao bọc là nhiều hầm dã chiến dấu đất đào còn mới với chiều sâu khoảng nửa thước. Chung quanh miệng hầm là những vỏ đạn văng tứ tung. Còn có cả những dây điện và mảnh vỏ trái mìn Claymore bị nát ra sau khi nổ banh. Xác người nằm la liệt, ngổn ngang, rời rạc hay chất chồng lên nhau. Có xác nằm úp mặt xuống đất. Có xác nằm ngửa mặt lên trời. Có xác nằm gục lên xác người khác. Những xác này bị cột tay tréo ra sau lưng từ người này sang người khác. Nhưng hầu như, tất cả xác đều bị rã, không một người nào còn đủ nguyên hình dạng để nhận ra. Thân nhân chỉ còn xem quần áo và giấy tờ tùy thân, nếu có, là chứng vật để nhận dạng người chết. Nghe nói, họ đã bị giết trước đó khoảng mười ngày, tức là vào đêm đầu tháng 4, và mấy ngày sau thì bị một cơn mưa lớn làm xác chết rữa ra, không còn nguyên dạng nữa. Hôm đến đó, tôi mang đôi dép xẹp. Khi đi tìm xác anh tôi thì đạp lên những lớp bầy nhầy, nhão nhoẹt như bùn mà thật ra là thịt rã ra thấm vào đất, ngập cả bãi cỏ, nên khi người đi qua thì thành lớp bầy nhầy, hôi thối không thể tả. Những xác người chỉ còn lại xương và quần áo không nguyên vẹn, có xác, thịt da chưa rã hết hoàn toàn đã sình lên. Những bộ xương sọ với hàm răng hả ra thật to, có vẻ như khi chết họ la ó dữ lắm.

Ba cha con tôi tìm mãi, lật từng xác người, xem từng bộ đồ, lục từng túi áo để xem có giấy tờ gì của anh tôi không, mà không thấy. Tìm khắp mọi nơi trong bãi đất xử bắn cho đến trưa xế thì chúng tôi quyết định không tìm nữa vì không còn gì đề tìm. Cha tôi nói phải biết chính xác là anh tôi thì mới dám đem về chôn, chứ nếu không thì mình sẽ lấy nhầm xác của người khác là không nên. Vì vậy chúng tôi ra về. Lúc đó người vẫn còn ra vô để tìm xác thân nhân. Nhiều người lăn lộn bên xác chết của thân nhân vừa tìm được, khóc than thảm thiết.

Lần đầu tiên trong đời, tôi nhỉn thấy cảnh tượng kinh hoàng của sự tàn ác do con người gây ra cho nhau. Trước đó, tôi từng đọc kinh Phật diễn tả về cõi địa ngục mà trong đó chúng sinh chịu nhiều cực hình đau khổ cùng cực, nhưng không hình dung ra được cảnh trạng đó thực sự như thế nào. Hôm đó tôi nghĩ địa ngục dù có kinh hoàng tới đâu thì chắc cũng cỡ này. Nhìn tận mắt thảm nạn bi thương tàn khốc này tôi cảm thấy chủ nghĩa cộng sản, con người cộng sản quá tàn ác, dù lúc ấy tôi mới chỉ là một đứa trẻ vị thành niên.

Trên đường về nhà, cả ba cha con tôi đều im lặng không nói gì, không ai khóc, dù ruột gan tôi và chắc chắn ruột gan cha tôi và anh tôi cũng đều đau đớn không cùng tận như bị dao cắt đứt từng đoạn.

Người anh của tôi đã mất hôm đó tên Huỳnh Công Ức, là người anh Thứ Bốn trong nhà. Cha mẹ tôi sinh ra mười người con, nhưng ba người vắn số bỏ đi trước, còn lại bảy người, bốn gái, ba trai. Lúc anh mất chừng khoảng ba mươi ba tuổi. Nhà nghèo, anh chỉ học tới lớp ba gì đó thì phải nghỉ học để phụ giúp cha mẹ lo cho gia đình. Khi đến tuổi đi lính, anh nhập ngũ vào ngành cảnh sát quốc gia. Vì không có bằng trung học, anh chỉ là một cảnh sát viên quèn về làm việc tại trụ sở xã ở địa phương. Anh nóng tánh nhưng rất thương yêu gia đình và các em. Anh thay cha tôi dạy em rất nghiêm. Tôi nhớ hồi nhỏ mỗi lần có khách đến nhà là lũ em chúng tôi bị anh bắt ra vòng tay, cúi đầu, thưa hỏi đàng hoàng. Hồi bé, mấy anh chị em nhỏ chúng tôi hay gọi nhau bằng mầy tao nên bị anh đánh đòn bắt phải xưng hô anh chị theo thứ lớp. Tôi là đứa em trai út lúc nhỏ hay nghịch ngợm nên bị anh la và đánh đòn hoài. Anh có gia đình được năm đứa con, ba gái, hai trai, đứa lớn nhất lúc đó chừng 6, 7 tuổi, đứa nhỏ nhất mới sinh được mấy ngày trước khi anh đi trình diện và bị giết.

Tôi nhớ trước cuộc triệt thoái của Quận Lực VNCH từ Cao Nguyên xuống Tuy Hòa qua đường Liên Tỉnh Lộ 7 vào giữa tháng 3 năm 1975, hôm đó trên đường chở tôi từ nhà xuống thành phố học, anh tôi nói như trăn trối, kêu tôi ở lại chăm sóc cho cha mẹ và gia đình, còn anh thì chắc phải bỏ đi không thể ở lại được nếu CS vào đây. Nhưng rồi, ngày 1 tháng 4 năm 1975, khi CS chiếm tỉnh Phủ Yên thì anh vẫn còn ở lại. Một hai ngày sau được lệnh CS kêu đi trình diện và sẽ được tha cho về trong vòng mười ngày. Ngày đi trình diện vì nghĩ rằng mươi ngày sau là về nên anh chỉ đem theo một bộ đồ dự phòng gì đó, tôi không nhớ rõ. Cho đến khoảng mười ngày sau, thay vì nhận tin anh được thả về thì gia đình lại hay tin anh bị giết cùng với khoảng trên một trăm hai mươi quân cán chính VNCH mà trong đó gồm các viên chức dân quân cán chính xã, thôn tại địa phương. Tin anh chết cũng không được chính quyền chính thức loan báo cho gia đình biết mà do bà con có thân nhân đi học tập bị giết cùng chỗ với anh lén báo tin cho nhau nghe để đi tìm xác.

Khi ba cha con tôi về tới nhà từ chỗ tìm xác anh tôi thì thấy ở nhà mọi người đang buồn rầu, khóc lóc bi thảm. Rồi vài ngày sau nhà tôi thỉnh Thầy về làm lễ cầu siêu cho anh tôi. Hôm đó, trong lễ cầu siêu tổ chức nội bộ gia đình, cha mẹ tôi nghẹn ngào vì cảnh người tóc bạc đưa người tóc xanh. Đó là cảm trạng chung của những bậc cha mẹ trong thời chiến tranh! Có lẽ đa phần các gia đình Việt Nam đều trải qua kinh nghiệm đau thương này. Có gia đình mất mát tới mấy người con trai. Nhưng điều trớ trêu là anh tôi không phải hy sinh trong chiến trận, nơi sa trường mà bị giết một cách mờ ám và tàn ác lúc đã quy hàng và trên tay không có gì đề tự vệ, chứ đừng nói để hại người.

Trong vụ này, gia đình người con trai của bà Dì Năm, chị ruột của mẹ tôi, bốn cha con đều bị giết, gồm người cha, hai đứa con trai và một người con rể.

Sau khi anh tôi chết, cha mẹ tôi buồn rầu đến sinh bệnh. Mẹ tôi hầu như tối nào cũng khóc thương vì nhớ và tội nghiệp cho người con trai bạc mệnh. Sức khỏe cha tôi suy yếu dần đến năm 1981 thì qua đời ở tuổi 66.

Bằng đi một thời gian độ mấy tháng sau vụ anh tôi chết, tức là sau 30 tháng 4 năm 1975, bỗng một hôm tôi nghe mẹ tôi nói ờ ngoài người ta đồn anh tôi đã thoát chết trong đêm định mệnh đó và trốn chạy được. Mẹ tôi kể, dĩ nhiên, chỉ cho gia đình nghe, có người nghe nói đêm đó anh tôi đã trốn được và thuê xe thồ chở xuống thành phố rồi đi thẳng vào Nam. Với tâm trạng thương nhớ anh tôi vừa mất, thì đối với gia đình tôi tin này là một điều gì đó vừa bất ngờ, vừa vui mừng khôn tả. Cả nhà tôi bàn tán với nhau suốt ngày về tin này và chỉ cầu mong anh tôi còn sống. Tuy nhiên, tin đồn này lại làm cho chính quyền địa phương để ý và theo dõi. Dạo đó tôi nghỉ học và ở nhà, nên biết rõ chuyện này. Nhiều đêm lúc về khuya chunh quanh nhà có tiếng động và có người rình rập theo dõi. Chắc chính quyền muốn biết có phải anh tôi còn sống thực hay không.

Sau nhiều ngày suy nghĩ, mẹ tôi quyết định đi tìm anh tôi. Tánh của mẹ tôi là vậy. Một khi bà đã nghe đồn về chuyện anh tôi thoát nạn trốn vào Nam thì không tài nào bà không đi tìm. Tôi nhớ, trước năm 1975, lúc anh Bốn tôi học cảnh sát ở quân trường Đà Lạt, mẹ tôi nhớ con mà đã lên tận đó để thăm, dù anh ấy chỉ đi học có mấy tháng. Khi anh Bảy tôi đi lính bị thương ở chiến trường Dakto-Tân Cảnh thuộc tỉnh Kontum, mẹ tôi cũng lặn lội lên đó để thăm. Sau năm 1975, chính xác là năm 1985, lúc tôi bị tù vượt biên ở Trà Vinh, mẹ tôi dù đã già yếu cũng một mình vào Sài Gòn nhờ người quen dẫn xuống đó để thăm tôi.

Kỳ này, mẹ tôi kêu anh Bảy tôi và tôi đi theo. Ba mẹ con khăn gói lên đường đi tìm anh tôi, dù không biết là đi đâu để tìm. Có lẽ trong đầu mẹ tôi đã có chủ hướng đi đâu tìm rồi. Còn tôi, đó là lần đầu tiên đi ra khỏi tỉnh mà lại đi thật xa nữa. Với tôi đó là chuyến đi đầy thích thú và hy vọng, thích thú vì được đi xa, hy vọng vì mong tìm được người anh. Chúng tôi xuống thành phố, đón xe đò đi vào Nam mà trạm dừng đầu tiên là Cam Ranh. Tôi nhớ khi tới Cam Ranh thì trời xế chiều. Ba mẹ con vào một cái vườn xoài bên đường quốc lộ và xin ở nhờ một đêm rồi sáng mai đi tiếp. Người chủ vườn xoài lòng dạ thật tốt đã cho chúng tôi ở tạm qua đêm. Ở đó chúng tôi hỏi thăm người ta xem những chỗ nào có người mới đến lập nghiệp thì đi tới kiếm. Người ở đây mách cho biết ở Bình Tuy, Long Khánh có nhiều chỗ dân từ ngoài mới vào khai khẩn đất đai lập nghiệp đông lắm. Ba mẹ con tôi nghe nói thế nên sáng mai lại đón xe đò xuôi Nam tiếp tục. Trên đường đi, chúng tôi bạ đâu ăn đó, hễ tới giờ ăn mà đói bụng thì mua thức ăn dọc đường mà ăn. Nhiều khi tới giờ ăn, bụng đói nhưng xe đang chạy không có trạm dừng thì cũng đành nhịn đói. Cái ăn, cái ngủ vì vậy thật là thất thường và không đầy đủ trên suốt mấy ngày đi tìm anh tôi.

Vào đến Bình Tuy thì mặt trời đã gần xuống núi. Ba mẹ con tôi xuống xe ở đây và đi bộ vào khu dân cư mới lập nghiệp. Nhà cửa còn sơ sài, cả vách và mái đều làm bằng rạ. Đất đai vườn tược mới khai khẩn. Cây cối còn thưa thớt. Những miếng đất tranh rừng bị đốt cháy đen còn chờ mưa xuống để cày vỡ lên mà trồng trọt. Buổi chiều nhìn những cột khói bốc lên từ những mái tranh nhà bếp thô sơ ở quê người làm tôi nhớ nhà. Vào xóm, chúng tôi xin tá túc ở nhà một cặp vợ chồng có 2 con nhỏ cũng từ miền Trung mới vào lập nghiệp. Có lẽ thông cảm cảnh ly hương mà họ trải lòng dung chấp, dù chỉ một đêm ở tạm. Đêm đó mẹ tôi trò chuyện và hỏi thăm những người ở đây để tìm tung tích của anh tôi. Ngặt nỗi, chúng tôi không dám nói thật về tình trạng của anh tôi nên cũng chẳng tìm ra được manh mối gì.

Sáng hôm sau, ba mẹ con chúng tôi lại đón xe đi tiếp vào Nam. Tới Long Khánh lúc trời chiều. Chúng tôi xuống xe đi bộ dọc theo đường quốc lộ để dọ thăm tin tức. Chỗ nào có nhà cửa mới dựng lên thì chúng tôi đều vào hỏi thăm. Đi tới gần tối thì gặp một ngôi chùa. Chúng tôi vào chùa xin nghỉ nhờ một đêm. Thầy trú trì, lâu quá tôi không nhớ đạo hiệu của Thầy, hỏi thăm và biết chúng tôi từ xa đến cả ngày đói bụng nên đã cho ăn bữa cơm chay thật ngon miệng. Khuya hôm đó nằm nghe tiếng chuông chùa ngân vang vào thời khóa thỉnh chung buổi sáng mà nhớ nhà, nhớ tiếng chuông chùa ở làng quê mình.

Với tình hình mấy bữa rồi lang thang đi tìm khắp nơi mà tin về người anh tôi vẫn biệt vô âm tín, như mò kim đáy biển, mẹ tôi quyết định không đi tìm nữa và trở về nhà. Sau một đêm ngủ nhờ cửa Phật, sáng hôm sau chúng tôi ra đường quốc lộ đón xe đò về nhà. Lúc ra đi chúng tôi mang theo hy vọng bao nhiêu thì khi trở về lòng dạ buồn đau tuyệt vọng bấy nhiêu.

Tin đồn anh tôi thoát nạn ở Lù Ba vẫn còn lưu truyền trong bà con làng xóm một thời gian sau đó. Nhưng mẹ tôi đã không còn có ý định đi tìm anh tôi nữa.

Với tôi, chuyện này vẫn cứ đi theo mãi. Cuối năm 1986, lúc đi vượt biên tới được đảo Pulau Bidong ở Mã Lai Á, tôi cũng đã có thăm dò và gửi danh sách tìm người mất tích cho Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc nhờ tìm dùm. Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc vào thời đó có chương trình giúp người tị nạn tìm kiếm thân nhân mất tích. Ngay cả những năm tháng mới đến Mỹ, tôi cũng thường nghe ngóng tin tức về anh tôi, nhất là trong các sinh hoạt của những hội đoàn cựu quân cán chính VNCH.

Nhiều khi nghĩ đến chuyện này tôi thấy mình như mâu thuẫn. Một mặt thì tự thân tôi cũng biết là anh tôi khó thoát chết trong vụ thảm sát đó rồi. Hơn nữa nếu anh còn sống thì chắc anh cũng đã liên lạc về gia đình bằng cách này hay cách khác, chứ chẳng lẽ anh không còn nhớ đến gia đình hay sao. Nhưng mặt khác thì dường như trong chỗ sâu kín của tâm tư tôi đôi khi cũng lóe lên một tia hy vọng mỏng manh rằng anh tôi còn sống. Giả như lúc mấy cha con tôi đi tìm mà thấy được xác anh tôi thì chắc chắn chuyện này đã kết thúc ở đó.

Thế mới biết, ở cõi đời vô thường này có thứ mình muốn quên đi mà chưa chắc đã quên được dễ dàng. Giống như trong Duy Thức học của Nhà Phật có nói đến trường hợp “lạc tạ ảnh tử” -- chủng tử kết sinh từ cái bóng rớt lại -- trong A Lại Da Thức. Chỉ một cái bóng -- của cánh hoa rơi, của ánh chiều tà, v.v… -- thoáng qua ở một khoảnh khắc nào đó trong đời, vậy mà còn mãi trong tâm, có khi mang theo từ kiếp này đến kiếp khác nữa. Huống gì là cái chết đau thương của người anh ruột!

Nhưng bao năm trôi qua tôi cũng không còn nghe tin tức gì về anh tôi. Mọi thông tin về anh tôi như đã cùng với xác thân anh im lặng nằm sâu trong lòng đất.

Chắc bây giờ anh đã tái sinh thành một gã đàn ông trung niên bảnh bao, khí phách ở đâu đó trên cõi đời này. Biết đâu tôi đã từng gặp người đàn ông này mà chẳng quen biết gì nhau.

Nguồn :https://vietbao.com/p112a251230/thang-tu-tim-nguoi-mat-xac

Tập Cận Bình ngạo mạn-Tàu cộng bị bao vây & cô lập

1
Nguyễn Vĩnh Long Hồ-04-02-2016
TẠI SAO BẮC KINH SỢ NHỮNG “QUY TẮC QUỐC TẾ”?
Chính sách ngoại giao của Bắc Kinh đang thất bại bởi thái độ ngạo mạn, côn đồ và cách hành xử lưu manh của Tập Cận Bình. Ngoại trưởng Vương Nghị mới đây đã đưa ra lời tuyên bố, Bắc Kinh sẽ tăng tốc phát triển chính sách “Ngoại giao nước lớn mang bản sắc Trung Quốc”, nhằm thúc đẩy sáng kiến“một vành đai-một con đường” từ châu Á sang châu Âu và tăng cường sức ảnh hưởng của nước nầy.
Nhà nghiên cứu, học giả Đinh Công – Viện Nghiên cứu thuộc Trung tâm Carter Mỹ và Sở nghiên cứu phát triển & hòa bình Đại học giao thông Tây An TQ – phê phán: “Ông Vương Nghị cho thấy, sau khi theo đuổi phương án ngoại giao có phần cấp tiến, Bắc Kinh đang nhận thức được ảnh hưởng tiêu cực của nó, khiến cục diện khu vực diễn biến xấu đi.”
Chính sách ngoại giao nước lớn, cứng rắn của Tập Cận Bình đang khiến Bắc Kinh đang đối diện với nguy cơ rơi vào “Chiến tranh lạnh” với Hoa Kỳ. Dù vậy, Bắc Kinh vẫn ôm nhiều tham vọng lớn, điều nầy không chỉ thể hiện ở chính sách ngoại giao nước lớn, bắt nạt mấy nước nhỏ như Philippines và Việt Nam mà còn thể hiện ở cơ chế hợp tác giữa các quốc gia ở Biển Đông với ý đồ gạt các nước đang phát triển ra ngoài việc tranh chấp. Học giả Đinh Công chỉ ra rằng:“Đây là hành động nhằm dùng hợp tác kinh tế để xoa dịu và trấn an các nước có tranh chấp chủ quyền với Bắc Kinh trên Biển Đông”.
Đối với tình hình Biển Đông, Ngoại trưởng Vương Nghị đã liên tục phản đối các hành động tuần tra Biển Đông của Hải quân Mỹ, nhằm khẳng định quyền tự do hàng hải ở vùng biển quốc tế nầy. Vương Nghị còn cho thấy Bắc Kinh có thái độ chống đối cực đoan khi nhất quyết tuyên bố sẽ không thừa nhận bất kỳ phán quyết nào của Tòa Thường trực Quốc tế The Hague (PCA) trong vụ kiện do Philippines là nguyên đơn. Vương Nghị nhấn mạnh cáo buộc nhằm vào Philippines tại cuộc họp báo ngày 8/3/2016 ở Bắc Kinh rằng: “Đối với cái gọi là vụ kiện đã biến chất, Trung Quốc không tiếp.”
Ông Đinh Công phân tích bài viết đăng trên báo Phượng Hoàng: “Trong vấn đề trọng tài quốc tế và quyền tự do hàng hải, căn cứ của các nước liên quan là hệ thống luật pháp quốc tế và quy tắc quốc tếđược thành hình qua nhiều thập kỷ từ sau Thế chiến II. Hệ thống nầy có đầy đủ cơ sở và quan trọng hơn là phù hợp với mong muốn chung của gần như tất cả các nước xung quanh TC. Trong trật tự thế giới diễn biến theo hướng đa cực…”
Luật pháp quốc tế và quy tắc quốc tế, sở dĩ được gọi là “quốc tế”, bởi có được sự tán thành và thừa nhận bởi đa số quốc gia trên thế giới, trở thành một quy ước tiêu chuẩn để kiểm soát hành động của các nước trên trường quốc tế. Quan trọng hơn, quy tắc quốc tế không đại diện cho lợi ích của một nước hoặc một nhóm quốc gia, mà là công bằng với tất cả các nước, đặc biệt là sự công bằng trong quá trình tranh tụng để giành được kết quả có lợi trước trọng tài quốc tế, chứ không phải “tẩy chay” như Bắc Kinh.
Ông Đinh viết: “Đây chính là mô hình hợp tác quốc tế, có tranh luận nhưng luôn tìm kiếm thỏa hiệp và các bên đều giữ được lợi ích quốc gia của mình ở giới hạn thỏa hiệp lớn nhất,” theo ông. “TQ có thể thu được hiệu quả ngoại giao tốt hơn khi tự xưng là một phần của hệ thống quốc tế và tỏ ra thái độ tôn trọng với các quốc gia trong đó. Ngược lại, việc lập đi, lập lại sự phản đối và không chấp nhận đối với những cơ chế thông lệ, luật pháp quốc tế…khiến Bắc Kinh đang tự mình xây dựng ấn tượng về một quốc gia“hoành hành bá đạo” làm cho chính sách ngoại giao hầu như không đạt được hiệu quả gì.”
Chính TQ đang làm gia tăng mức độ mâu thuẩn, thúc đẩy các bên liên quan tiếp tục theo đuổi các biện pháp mà họ cho là có vai trò quan trọng để kềm chế Bắc Kinh. Bởi vì, xã hội quốc tế đang nhìn thấy sự sợ hãi và yếu ớt đằng sau thái độ né tránh của TQ, cũng như sự thiếu thành ý cho một mối quan hệ hợp tác quốc tế thực sự. Bên cạnh đó, hành động cự tuyệt và phản đối của Bắc Kinh cũng khiến dư luận quốc tế cảm thấy, đây là một quốc gia hoàn toàn theo chủ nghĩa vị kỷ, mang thái độ “luật pháp và quy tắc quốc tế” chỉ để phục vụ mình, có lợi thì ủng hộ mà bất lợi thì phản đối…
Sau đây là 2 trường hợp điển hình, Bắc Kinh rất sợ quốc tế phanh phui những vụ vi phạm “quy tắc quốc tế” của mình:
  • Theo Bloomberg đưa tin ngày 22/3/2016, chỉ vài giờ sau khi xảy ra một cuộc chạm trán giữa tàu kiểm ngư Indonesia với tàu cảnh sát biển TC trong khu vực Indonesia yêu sách vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý ở quần đảo Natuna sáng chủ nhật. Quan chức Bắc Kinh cầu xin Jakarta đừng công bố việc nầy với các phương tiện truyền thông với lý do: “Dù thế nào thì chúng ta vẫn là bạn bè”. Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo Indonesia đã từ chối thẳng thừng và dứt khoát yêu cầu này, đồng thời lập tức tổ chức họp báo quốc tế phản đối hành động thô bạo của tàu Cảnh sát biển TC xâm phạm chủ quyền Indonesia. Jakarta không còn lựa chọn nào khác hơn là phải công khai hành động này và tìm cách đẩy lùi hành vi leo thang bành trướng, bá quyền của Bắc Kinh.
  • Kyodo đưa tin ngày 20/3/2016, Bắc Kinh đã ép Nhật Bản không nhắc tới tranh chấp lãnh thổ và hàng hải giữa Bắc Kinh với các nuớc láng giềng trên Biển Đông tại hội nghị thượng đỉnh G-7 tổ chức tại Nhật Bản tháng 5 tới đây, với lý do nó sẽ cản trở nỗ lực cải thiện quan hệ song phương. Tuy nhiên, Nhật Bản đã từ chối thẳng yêu cầu phi lý này. Tokyo nhấn mạnh cộng đồng quốc tế không chấp nhận các hành vi bành trướng leo thang, xây dựng đảo nhân tạo trái phép và quân sự hóa của Bắc Kinh; vì vậy, Bắc Kinh rất sợ phải va chạm và đối mặt với quy tắc quốc tế.
Ngược lại, Thủ tướng Shinzo Abe đang rất mong muốn làm rõ tầm quan trọng của pháp luật quốc tế tại diễn đàn G-7 gồm Anh, Canada, Pháp, Đức, Ý, Hoa Kỳ và nước chủ nhà là Nhật Bản sẽ diễn ra tại tỉnh Mie vào ngày 26 và 27 tháng 5/2016.
                                                                          *
Rõ ràng, đây là hành động ỷ lớn hiếp nhỏ, cá lớn nuốt cá bé mang bản chất “ngoại giao nước lớn mang bản sắc Trung Quốc” tại Biển Đông, tiếp tục bị Hoa Kỳ công kích. Ngày 16/3/2016, đến lượt Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương lên tiếng công kích về xu thế “luật kẻ mạnh” (might is right) đang trỗi dậy ở Biển Đông. Tình trạng nầy, nếu không bị chặn đứng, Bắc Kinh sẽ còn vượt xa giới hạn của nó trong lĩnh vực quân sự.
Tại một cuộc hội thảo tại Canberra, thủ đô Australia, Đô đốc Scott Swift không nêu đích danh TC, nhưng ông đã tố cáo: “Một vài quốc gia về những hành vi “xây dựng cơ sở và quân sự hóa một cách hung hăng chưa từng thấy,” ông cho rằng. “Một bầu không khí bất ổn đã nảy sinh từ việc “bồi đắp hàng ngàn hecta đất, cùng với việc xây dựng các cơ sở quân sự mới, cảng nước sâu, phi đạo dài, radar cực mạnh có tầng số cao, triển khai tên lửa “địa đối không” và máy bay tiềm kích tại khu vực quần đảo Hoàng Sa”.
Ngoài ra, Bắc Kinh còn bị cáo buộc dùng sức mạnh quân sự để cản trở quyền lưu thông trên không và trên biển và để áp đặt chủ quyền TC trên gần như toàn bộ Biển Đông, chèn ép các nước láng giềng Đông Nam Á cũng tuyên bố chủ quyền trong vùng và nếu như luật kẻ mạnh thắng thế tại Biển Đông, điều đó sẽ tác động đến nền “kinh tế toàn cầu” và “luật pháp quốc tế”.
BẮC KINH SỬ DỤNG BIỂN ĐÔNG & SÔNG MEKONG ĐỂ THỐNG TRỊ ĐÔNG NAM Á:
Giáo sư Thitinan Pongsudhirak – Khoa học Chính trị thuộc Đại học Chulalongkorn – ngày 25/3/2016, bình luận trên tờ Bangkok, cách thức hành sử của Bắc Kinh trong khu vực ngày càng trở thành tâm điểm chú ý của dư luận. Xu thế trỗi dậy không thể đảo ngược của TC có khả năng trở thành nguồn gốc căng thẳng và xung đột tiềm tàng ở ĐNA. Không có nơi nào mà sự trỗi dậy của TC lại được thể hiện rõ rệt hơn khu vực ĐNA, nơi Bắc Kinh đặt mục tiêu rõ ràng là “chiếm đất” ở Biển Đông và “chiếm nước”ở thượng nguồn sông Mekong, kiểm soát nguồn nước ngọt quan trọng của các nước hạ nguồn: Myanmar, Thái Lan, Lào, Camphuchia và Việt Nam.
Căng thẳng trên Biển Đông gia tăng vì các tuyên bố và hành động gây tranh cãi của Bắc Kinh trên một số rặng san hô, bãi cạn lúc nổi, lúc chìm gần sát bờ biển Philippines, VN, Indonesia và rất xa Hoa Lục. Ngoài ra, Bắc Kinh đang xây dựng, quân sự hóa một số đảo nhân tạo trên một số bãi cạn ở quần đảo Trường Sa, thậm chí làm phi đạo và mở các chuyến bay dân dụng để củng cố yêu sách bành trướng vô lý và phi pháp của mình để cố tạo ra tình thế “sự đã rồi” không còn bàn cãi.
Trên thượng nguồn sông Mekong, Bắc Kinh đã đơn phương cho phép mình có quyền thống trị nguồn nước bằng các khai thác lợi thế địa lý và dòng chảy tự nhiên của sông Mekong chảy xuyên quốc gia, thông qua việc xây dựng hàng loạt đập thủy điện ở thượng nguồn và khi các quốc gia ở dưới hạ nguồn gặp phải đợt hạn hán gay gắt kéo dài tồi tệ nhất trong nhiều thập kỷ, Bắc Kinh làm ra vẻ nhân đạo bằng cách tuyên bố xả nước đập Cảnh Hồng từ 15/3/2016 để bôi trơn cho Hội nghị Hợp tác Lan Thương – Mekong bên lề Diễn đàn Bác Ngao với 5 nước hạ nguồn kể trên.
Trong khi xả nước của TC ở đập Cảnh Hồng có thể giúp phần nào các nước hạ nguồn dịu bớt tạm thời tình trạng hạn hán, nhưng việc nầy lại là bằng chứng hiển nhiên sự phụ thuộc của các nước hạ nguồn vào thiện chí “ban ơn” và lòng độ lượng của Bắc Kinh. Với đòn bẩy kiểm soát nguồn nước thượng nguồn sông Mekong, Bắc Kinh đã triệu tập Hội nghị Lan Thương – Mekong tại Tam Á, Hải Nam. Tại đây, Bắc Kinh công bố các khoản cho vay và các gói tín dụng tổng trị giá khoảng 11,5 tỷ USD cho các dự án phát triển hạ tầng, từ đường sắt cho đến các khu công nghiệp dọc theo sông Mekong.
Giáo sư Pongsudhirak nhận định rằng, vấn đề quan trọng ở đây là “Cơ chế hội nghị “Thượng đỉnh Lan Thương – Mekong (LMC)” mà Bắc Kinh lập ra là một cách vô hiệu hóa “Ủy hội sông Mekong (MRC)”được thành lập bởi Campuchia, Lào, Thái lan và VN vào năm 1995 để tập trung tìm kiếm hổ trợ về chuyên môn cũng như kinh phí để quản lý nguồn tài nguyên nước ngọt của dòng sông Mekong chung của các quốc gia nầy.
Do đó, với các hoạt động của Bắc Kinh ở trên Biển Đông và trên dòng sông Mekong, Bắc Kinh có thể gây áp lực, buộc các nước láng giềng trong khu vực phải tìm cách tránh xung đột với mình. Bắc Kinh sẽ nổ lực để tạo ra các quy luật trên sân chơi quyền lực do mình tổ chức trong khu vực.
PHẢN ỨNG CỦA HOA KỲ TRÊN VẤN ĐỀ SÔNG MEKONG & BIỂN ĐÔNG:
[1] SÔNG MEKONG:
Hạn hán nghiêm trọng ở hạ lưu sông Mekong, trong đó có đồng bằng sông Cửu Long của VN, do tác động không nhỏ của các đập thủy điện trong khu vực, khiến Hoa Kỳ phải nhập cuộc. Tiến sĩ Richard Cronin – Giám đốc Chương trình ĐNA, Trung tâm nghiên cứu Stimson, Mỹ – trao đổi với P.V về tình hình hiện nay ở ĐBSCL của VN và mối liên hệ với các nước chia sẻ dòng sông Mekong.
HỎI: Ông đánh giá thế nào tình trạng hiện nay của ĐBSCL của Việt Nam?
ĐÁP: Tình hình cực kỳ nghiêm trọng, xét về hạn hán, sự mất đất và xâm nhập mặn. Chúng bị tác động bởi nhiều nguyên nhân, đó là các đập thủy điện trên thượng nguồn ở TC, lớp trầm tích cần có ở các nhánh thuộc 3 con sông Sesan, Srepok, Sekong để chống lại sự xâm nhập của nước biển, cùng với chính các hoạt động phát triển ở khu vực này đang hủy hoại môi trường. Đó là các dự án tưới tiêu, các kênh đào, khai thác cát, các dự án phát triển của địa phương, sự đầu tư không giới hạn về nuôi trồng thủy sản và việc bơm nước sạch không có quy hoạch từ tầng nước ngầm.
Ở một số giai đoạn, mực nước thấp ở bắc Lào và Thái Lan có liên quan đến việc hút nước do các đập thủy điện quy mô Lan Thương (Lancang) của Trung Quốc. Việc hút nước do đập Mạn Loan (Manwan) trong hệ thống nước nầy được thực hiện từ năm 1992-1993. Bên cạnh đó, mực nước thấp vào mùa khô ở hạ lưu Mekong trong những năm qua cũng có thể do việc hút nước do đập thủy điện Nam Theun 2 của Lào.
Tình hình hạn hán ở Thái Lan và Campuchia cũng có vẻ nghiêm trọng. Không may là Thái Lan đã bắt đầu hút nước từ sông Mekong lên phía Bắc. Tuy nhiên, tôi chưa có đủ thông tin để đánh giá việc nầy có vai trò thế nào và sẽ dẫn tới hậu quả gì.
HỎI: Xin ông nói rõ hơn nguyên nhân khiến mực nước ở sông Mekong giảm mạnh trong năm nay?
ĐÁP: Các đập thủy điện ở thượng nguồn, đặc biệt của TC là một nguyên nhân, khi dòng chảy ở Vân Nam được coi là dòng đơn quan trọng nhất trong mùa khô, có thể chiếm đến 40% trong những năm bình thường. VN và các nước ở hạ nguồn sông Mekong cần lo ngại về các đập thủy điện của TC, khi đập thủy điện Lan Thương có thể trữ lượng nước cao hơn mức trung bình một năm chảy vào Vân Nam từ phía Bắc.
Thời điểm bắt đầu xây dựng đập thủy điện trên sông Lan Thương, đặc biệt là đập Tiểu Loan, một trong những con đập lớn nhất thế giới, Bắc Kinh trấn an các quốc gia ở hạ lưu rằng, các đập ở đây vẫn có thể tăng dòng chảy xuống đáng kể trong mùa khô. Nhưng, trong hầu hết mùa khô, Bắc Kinh không tăng dòng chảy trên sông Mekong. Vào thời điểm các tháng mùa khô, dòng chảy ở Chiang Saen, gần Tam giác giữa Thái Lan, Lào và Myanmar thường ở mức rất thấp do hoạt động của các đập thủy điện ở Vân Nam.
Tóm lại, Việt Nam và các nước ở hạ lưu sông Mekong cũng cần nhấn mạnh rằng, cơ chế hợp tác Lan Thương – Mekong (LMC) cần thực sự tập trung vào con sông, chứ không phải hỗ trợ Bắc Kinh đưa hợp tác vào sáng kiến “Một vành đai, một con đường” hoặc đưa vào “Ngân hàng đầu tư hạ tầng Châu Á (AIIB)” do Bắc Kinh đưa ra. Nếu không, sáng kiến của Bắc Kinh sẽ không có giá trị thực chất nào so với mối quan ngại của các nước hạ nguồn về điều đang xảy ra ở dòng chính sông Mekong.
[2] BIỂN ĐÔNG:
Họp báo tại Australia ngày 08/3/2016, Tư lệnh Không quân Thái Bình Dương của Mỹ Lori Robinson cho biết: “Không quân Mỹ sẽ tiếp tục công tác bay tuần tra hằng ngày trên Biển Đông, bất chấp việc TC triển khai tên lửa đất đối không và chiến đấu cơ ra Biển Đông”. Tuy nhiên, Tư lệnh Lori Robinson không trả lời liệu Mỹ sẽ hành động thế nào nếu TC bắn rơi máy bay Mỹ ở Biển Đông. Ngoài ra, Tư Lệnh Lori Robinson kêu gọi các nước đưa chiến đấu cơ, tàu ngầm, tàu tuần tra lưu thông hàng hải ở Biển Đông; nếu không, các nước có thể sẽ mất quyền tự do lưu thông hàng hải ở Biển Đông.
Trong cuộc hợp báo cùng ngày, Bộ trưởng Ngoại giao Vương Nghị tuyên bố: “Bắc Kinh sẽ không cho phép nước nào xâm nhập đến chủ quyền của mình ở Biển Đông,” ông ta nói. “Tự do lưu thông hàng hải trên Biển Đông mà một nước nào đó (ám chỉ Mỹ) nói tới không đồng nghĩa với việc nước đó có quyền muốn làm gì thì làm ở Biển Đông”.
Học giả Rene L. Pattiradjawane – Chủ tịch sáng lập Trung Tâm Nghiên cứu TC – ngày 23/3/2016 viết bình luận trên tờ The Jakarta Post về sự thành hình của “chủ nghĩa thực dân hàng hải Tàu Cộng” trên Biển Đông. Ông nhận định: “Môi trường địa chính trị ở Biển Đông đang chuyển sang giai đoạn mới. Tranh chấp vượt ra ngoài giới hạn giữa các nước yêu sách về chủ quyền và hàng hải mà còn là sự cạnh tranh giữa các siêu cường.” Bắc Kinh có tham vọng kiểm soát gần như 90% toàn bộ Biển Đông với yêu sách dựa trên cái gọi là “quyền lịch sử ma”. Tuy nhiên, điều nầy đang bị Philippines chống đối quyết liệt trên mặt trận đấu tranh pháp lý và đang bị Hải quân Hoa Kỳ thách thức bằng các hoạt động tuần tra bảo vệ tự do hàng hải, hàng không trên Biển Đông. Trong khi đó Nhật Bản, Ấn Độ và Nga cũng đang tìm cách gia tăng ảnh hưởng của mình ở ĐNA.
Theo Rene L. Pattiradjawane xác định 2 nguyên nhân Bắc Kinh leo thang bành truớng trên Biển Đông như sau:
Thứ nhất: Bắc Kinh đang theo đuổi “chủ nghĩa thực dân kiểu mới ttrên biển” bằng cách từ chối mọi thiện chí yêu cầu giảm căng thẳng ở Biển Đông. Bắc Kinh đang nổ lực tìm cách thống trị tuyến đường giao thương hàng hải huyết mạch nhộn nhịp hàng đầu thế giới.
Thứ hai: Bắc Kinh đang muốn cải thiện khả năng chống can thiệp, chống lại các mối đe dọa từ bên ngoài. Những hành động này cũng giống như những gì chủ nghĩa thực dân phương Tây trước đây đã làm để mở rộng sự thống trị. Trước đây, ngay cả khi thực dân châu Âu đặt chân sang châu Á từ thế kỷ thứ 15, không có một thế lực thực dân nào dám tuyên bố sáp nhập hay lấy Biển Đông làm lãnh thổ riêng của họ hoặc chia đôi quyền thống trị Biển Đông.
Sắp tới, có thể Tòa Trọng tài Thường trực PCA ở The Hague, Hòa Lan sẽ ra phán quyết về vụ Philippines khởi kiện TC áp dụng, giải thích sai Công Ước LHQ về Luật Biển 1982 vào tháng 4 hay 5/2016. Nhiều học giả trên thế giới hiện nay tin rằng, PCA sẽ bác đường lưỡi bò Bắc Kinh dựa trên cái gọi là“quyền lịch sử ma” không có trong công pháp quốc tế. Hành động tẩy chay phán quyết PCA thể hiện tư duy của họ: “Chân lý thuộc về kẻ mạnh và ngoại giao nước lớn mang bản sắc Trung Hoa”. Bắc Kinh nhiều lần tuyên bố là sẽ không công nhận phán quyết của PCA và có thể sẽ phản ứng bằng cách rút khỏi Công ước LHQ về Luật Biển UNCLOS. Ngay truớc khi Quốc hội TC nhóm họp, Chủ tịch Tòa Án Tối Cao Chu Cường tuyên bố rằng TC sẽ thành lập một “Trung tâm Tư pháp hàng hải Quốc tế” với mục đích bảo vệ chủ quyền trên biển và lợi ích cốt lõi khác của Bắc Kinh”.
NHỮNG LIÊN MINH QUÂN SỰ CHỐNG TÀU CỘNG Ở BIỂN ĐÔNG:
[1] HOA KỲ – ẤN ĐỘ:
Ngày 02/3/2016, Đô đốc Harry Harris, Chỉ huy Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương đề xuất của Hoa Kỳ đối với Ấn Độ trở thành một phần trong mạng lưới các cường quốc hải quân nhằm đối phó với với sự bành trướng, bá quyền trên Biển Đông của Bắc Kinh. Đại sứ Mỹ tại Ấn Độ Richard R. Verma bày tỏ hy vọng trong bài phát biểu rằng, các cuộc tuần tra chung của hải quân Ấn Độ và Mỹ sẽ trở nên thường xuyên và là hoạt động được hoan nghênh trên các vùng biển Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương.
Các nhà phân tích lưu ý đến các nổ lực mới của Mỹ lôi kéo Ấn Độ vào cuộc đối đầu với Bắc Kinh trong khu vực nầy. New Delhi biết điều đó và muốn điều đó. Chuyên gia IMEMO Peter Topychkanov của Nga, khẳng định: “Lợi ích của Ấn Độ và Hoa Kỳ đều giống nhau ở khu vực này. New Delhi muốn hạn chế sự gia tăng ảnh hưởng của Bắc Kinh. Và Ấn Độ cũng không phản đối nếu chiến sự căng thẳng ra khỏi các khu vực xung quanh biên giới của mình gần với TC hơn”.
Đô đốc Harry Harris tuyên bố: “Tập trận cùng nhau sẽ dẫn đến chiến đấu cùng nhau. Hoa Kỳ – Ấn Độ – Nhật Bản – Australia cũng như nhiều quốc gia khác ở ĐNA có thể kết hợp hoạt động thoải mái ở bất cứ nơi nào trên đại dương, cũng như bên trên không phận được quốc tế cho phép. Một số bình luận gia cho rằng Mỹ đang nỗ lực dựng lại Liên minh 4 cường kể trên để đối phó với một TC hung hăng, côn đồ, cực kỳ hiếu chiến tại châu Á – Thái Bình Dương.
[2] LIÊN MINH 4 CƯỜNG:
Với chiến lược thành lập “Liên Minh 4 Cường” còn có tên gọi chính thức là Đối thoại An Ninh Tứ Giác (Quadrilateral Security Dialogue) là con đẻ của chính sách “Tân Đại Đông Á” của Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe trong nhiệm kỳ Thủ tướng đầu tiên 2006-2007 với sự yểm trợ của Phó Tổng Thống Mỹ Dick Cheney, Thủ tướng Australia John Howard và Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh. Trọng tâm của quan hệ này là một cuộc tập trận chung 4 bên quy mô mang tên “Diễn Tập MALABAR” hình thành “Liên minh Kim Cương” kiểm soát sự trỗi dậy của chủ nghĩa bành trướng của Bắc Kinh.
Lợi thế của “Liên minh 4 cường” là “Luật an ninh mới” của Nhật Bản có hiệu lực kể từ ngày 29/3/2016, cho phép lực lượng Phòng vệ Nhật Bản (SDF) được quyền tham chiến ở nước ngoài lần đầu tiên kể từ Thế chiến II. Luật an ninh mới chủ yếu sẽ mở rộng vai trò của Lực lượng phòng vệ Nhật Bản ở nước ngoài và thực thi quyền phòng vệ tập thể. Theo đó, lực lượng này có quyền tham chiến để bảo vệ các đồng minh bị tấn công vũ trang, ngay cả khi Nhật Bản không bị trực tiếp đe dọa. Giới quan sát nhận định dự luật này là bước đi cần thiết đối với nước Nhật trong thời điểm Tàu Cộng mở rộng hoạt động quân sự ở châu Á – TBD. Mỹ trước đó đã tuyên bố ủng hộ các thay đổi trong chính sách quân sự của Nhật Bản.
Chuyên gia của Viện Viễn Đông Viktor Pavlyatenko nhận định: “Trên thực tế, chúng ta thấy Nhật Bản đang khởi động giai đoạn mới bước ra sân khấu quốc tế. Và ở đây sẽ có sự tranh chấp giữa Tokyo với Bắc Kinh. Với lý do Bắc Kinh vi phạm “Luật pháp quốc tế, Công ước về Luật Biển”, Nhật Bản có quyền tham gia vào chiến dịch ĐNA với tất cả những ai muốn giảm thiểu tầm quan trọng và sức mạnh của Tàu Cộng”.
Các học giả Mỹ cũng nhận định, vai trò quốc tế của lực lượng phòng vệ Nhật Bản được mở rộng sẽ góp phần định hình an ninh khu vực Châu Á, ngăn ngừa nguy cơ xảy ra xung đột vũ trang. Washington hoan nghênh những thay đổi tích cực của Tokyo và luật này là cột mốc quan trọng giúp liên minh Mỹ – Nhật trở nên vững chắc hơn.
Các nhà phân tích thuộc Viện Nghiên cứu và Chiến lược Quốc tế của Mỹ (CSIS) từng nhận định: “Tàu Cộng đang quân sự hóa các đảo trên Biển Đông, điều đó có nguy cơ đe dọa đến tự do hàng không, hàng hải. Trong khi đó, một mình quân đội Mỹ là chưa đủ để định hình an ninh khu vực Châu Á – TBD”.
Nishi Osamu, giáo sư danh dự tại Đại học Komazawa, Nhật trao đổi với Japanfocus rằng, liên minh quân sự Mỹ – Nhật sẽ góp phần định hình an ninh khu vực Châu Á – TBD và ngăn chặn nguy cơ xảy ra xung đột quân sự. Còn các quan chức ĐNA, đặc biệt là Philippines đánh giá cao và ủng hộ mạnh mẽ sự đóng góp của Nhật Bản vào hòa bình và ổn dịnh khu vực Biển Đông.
Lữ Diệu Đông – chủ nhiệm Phòng Nghiên cứu Ngoại giao, viện Nghiên cứu Nhật Bản, viện Khoa học xã hội TQ – đã tiến hành đánh giá chi tiết đối với quyết định dỡ bỏ lệnh cấm quyền tự vệ tập thể của Nhật Bản. Ông cho rằng, ảnh hưởng lớn nhất sau khi Luật An Ninh mới có hiệu lực chính là Nhật Bản từ một nước chỉ có thể bị động, ứng phó chiến tranh, đã trở thành một nước có thể chủ động phát động chiến tranh, cho nên đây là một sự thay đổi quan trọng. Nhật Bản đặc biệt đề cập đến vấn đề Biển Đông, nếu các nước có liên quan tới Nhật bị tấn công thì Nhật sẽ hành động. Hiện nay, Nhật Bản đang cân nhắc phối hợp với Hoa Kỳ tiến hành tuần tra ở Biển Đông.
[3] AUSTRALIA + ASEAN:
Các quốc gia Đông Nam Á đang muốn thắt chặt hơn nữa quan hệ quốc phòng với Australia, quốc gia đồng minh của Mỹ và ở kế cận khu vực Biển Đông, trong bối cảnh Tàu Cộng đang gia tăng sự hiện diện quân sự ở Biển Đông. Báo Sydney Morning Herald (Úc) ngày 19/3/2016 đưa ra nhận định. Dự kiến tuần nầy, Bộ Trưởng BQP Malaysia là Hishammuddin Hussein sẽ hội đàm với người đồng cấp Australia Marise Payne để thảo luận về việc Bắc Kinh triển khai các thiết bị quân sự lên các thực thể đang tranh chấp Biển Đông. Báo nầy nhận định đây là dấu hiệu cho thấy Malaysia có thái độ cứng rắn hơn đối với Bắc Kinh.
Kế đến ngày 24/3/2016, tình hình Biển Đông tiếp tục căng thẳng với vụ khoảng 100 tàu cá của TC được 2 tàu hải cảnh bảo vệ, xâm nhập ồ ạt vào vùng đặc quyền kinh tế Malaysia tại bãi cạn Luconia. Bộ trưởng đặc trách an ninh Malaysia Shahidan Kassim cho biết, một máy bay Bombardier cùng với 3 chiếc hạm của Hải quân Hoàng gia và cơ quan tuần duyên Malaysia MMEA đã được điều động tới khu vực này, chính quyền có thể can thiệp bằng vũ lực nếu các tàu cá và tuần duyên TC xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế của Malaysia.
Trong khi đó, Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long sẽ có chuyến thăm Australia vào tháng 5/2016 tới nhằm thúc đẩy hàng loạt thỏa thuận mới giữa hai nước, trong đó bao gồm thỏa thuận tăng cường hợp tác quốc phòng. Phát biểu trong buổi họp báo ngày 18/3/2016, cùng với Ngoại trưởng Singapore Vivian Balakrishnan tại Sydney, Ngoại trưởng Australia Julie Bishop khẳng định, Australia và Singapore đều cam kết duy trì quyền tự do hàng hải và hàng không trên Biển Đông. Ngoại ttrưởng Singapore khẳng định, bảo đảm an ninh hàng hải ở Biển Đông là điều cần thiết và nhấn mạnh “Biển Đông có tầm quan trọng đối với cả Australia và Singapore  bởi 2 nước đều có rất nhiều giá trị thương mại đi qua khu vực”. Tóm lại, Malaysia, Singapore và Australia là 3 trong 5 nước thành viên “Hiệp ước Phòng thủ Ngũ cường”(FPDA) được ký kết năm 1971 (2 quốc gia còn lại là Anh và New Zealand.
Báo Sydney Morning Herald nhận định: “Thái độ hung hăng của Bắc Kinh trên Biển Đông đã thúc đẩy các quốc gia ĐNA tìm đến các mối quan hệ quốc phòng gần gũi hơn với Australia và Hoa Kỳ”. Nhận định này tương tự với quan điểm của Đô đốc John Richardson, Tư lệnh Hải quân Mỹ khẳng định rằng: “Hành động ngang ngược của Bắc Kinh chỉ khiến các nước khối ASEAN sẵn sàng hợp tác làm việc với nhau hơn,” ông nói. “Nhờ TC hung hăng mà Washington đã nhìn thấy cơ hội xây dựng quan hệ tốt đẹp với Ấn Độ, Philippines, Singapore và Mỹ sẵn sàng chào đón nhiều nước khác tham gia các đợt tuần tra bảo đảm tự do hàng hải trên Biển Đông”.
Ngày 20/3/2016, từ BQP cho đến BNG Philippines đều ra thông cáo hoan nghênh thỏa thuận Mỹ- Philippines vừa đạt được hôm 20/3/2016 trong khuôn khổ đối thoại chiến lược thường niên. Theo Hiệp định hợp tác mới này, Philippines mở 5 căn cứ quân sự đón tiếp chiến đấu cơ, tàu chiến và lực lượng TQLC Mỹ, trong đó có một căn cứ nhìn ra Biển Đông nơi Bắc Kinh tranh chấp bằng sức mạnh quân sự.
Căng thẳng với Jakarta về vụ Indonesia bắt tàu TC đánh cá trái phép đang khiến Bắc Kinh “mất đi người bạn duy nhất ở Biển Đông”, tờ Business Insider (Mỹ) bình luận. Ngày 19/3/2016, Chính phủ Indonesia thông báo đã bắt giữ 2 tàu cá TC đánh cá trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế ở quần đảo Natunacủa Indonesia. Trong khi đó, phía TC ngang ngược tuyên bố vùng biển xảy ra vụ bắt giữ thuộc lãnh hải của Tàu Cộng do nằm bên trong “đường lưỡi bò 9 đoạn”, cái mà Bắc Kinh gọi là “biên giới trên biển” để đưa ra tuyên bố chủ quyền phi pháp và phi lý và không được thừa nhận trên Biển Đông.
Theo Bloomberg, Indonesia lần nầy đã có thái độ kiên quyết, bất chấp các quan chức ngoại giao phía Bắc Kinh đã xuống nước bằng đề nghị “đừng cung cấp thông tin cho báo chí, hai nuớc vẫn là bạn của nhau.” Sau vụ này, Hạ viện Indonesia ngày 24/3/2016 đã kêu gọi chính quyền Jakarta xây dựng một căn cứ quân sự trên quần đảo Natuna. Cơ sở này sẽ là bức tường thành chống lại sự bành trướng của Bắc Kinh ở Biển Đông. Đồng thời Jakarta quyết định đưa 5 chiến đấu cơ F-16 ra quần đảo Natuna cùng với nhiều phương tiện chiến tranh khác để sẵn sàng bảo vệ quần đảo này.
KẾT LUẬN:
Ngày 29/3/2016, giáo sư Peter Dutton – Học viện Chiến tranh Hải quân Hoa Kỳ – khẳng định rằng, Tàu Cộng đang tự cô lập mình vì chính sách gây hấn ở Biển Đông. Theo quan điểm của Washington là bảo vệ trật tự hàng hải toàn cầu dựa trên luật pháp quốc tế để bảo đảm mọi quốc gia có quyền tiếp cận Biển Đông vì mục tiêu kinh tế – thương mại.
Giáo sư Peter Dutton giải thích: “Chúng tôi tổ chức các cuộc tuần tra bảo vệ tự do hàng hải trên Biển Đông để bảo vệ lợi ích quốc gia và quyền tiếp cận khu vực. Mỹ muốn đảm bảo rằng, không quốc gia nào có hành vi bắt nạt hay thống trị khu vực. Chúng tôi cũng muốn hổ trợ an ninh cho các nước đồng minh”.
Tập Cận Bình đã trả giá về cái thói kiêu căng và ngạo mạn khiến Tàu Cộng bị Mỹ – Nhật – Ấn – Australia và khối ASEAN bao vây và cô lập tại Biển Đông. Muốn thoát khỏi thế bí này, Tập Cận Bình nỗ lực lôi kéo Nga ủng hộ Bắc Kinh để chống lại “sự bá quyền” của Mỹ tại Châu Á -TBD. Tập Cận Bình kỳ vọng Putin sẽ trợ giúp nhiệt tình cho Bắc Kinh chiếm thế thượng phong ở Biển Đông. Nhưng, Putin là con cáo già không dễ gì bị Tập Cận Bình lôi kéo vào quỹ đạo chống Mỹ – Nhật & ASEAN; bởi vì, nó hoàn toàn không có lợi ích gì cho Nga.
Ngược lại, Putin vừa tạt một gáo nước lạnh vào mặt Tập Cận Bình qua một cuộc Hội thảo về Biển Đông tại Nga. Tranh chấp lãnh thổ tại Biển Đông, những diễn biến mới nhất về “HÀNH ĐỘNG PHI PHÁP CỦA TRUNG QUỐC” là nội dung cuộc hội thảo“Tranh chấp lãnh thổ và luật hòa bình trong thời toàn cầu hóa” tại Học viện Tư pháp Liên Bang Nga vào ngày 21/3/2016.
Hơn 100 chuyên viên Nga, học giả, nhà Việt Nam học của Nga và quốc tế tham gia sự kiện do Học viện Tư pháp Nga thuộc Tòa án Tối cao Liên bang Nga tổ chức. Các tham luận phân tích các nguyên nhân, yếu tố lịch sử, hiện trạng tranh chấp hiện nay tại Biển Đông, dự báo những hành động tiếp theo của Bắc Kinh trong mưu đồ độc chiếm Biển Đông và khuyến nghị biện pháp giải quyết vấn đề. Tất cả các chuyên gia, học giả đều bày tỏ quan ngại: “Tình hình sẽ tiếp tục căng thẳng nếu Bắc Kinh vẫn leo thang những hành động ngang ngược tại khu vực.”
Tiến sỹ I.A. Umnova – Trưởng ban Nghiên cứu Hiến pháp và Pháp luật Học viện Tư pháp thuộc Tòa án Tối cao Nga – khuyến nghị một số cơ chế pháp lý để giải quyết tranh chấp tại Biển Đông, trong đó có việc đệ đơn lên Tòa án Quốc tế LHQ, Tòa án công minh khu vực ASEAN, toà án SCO…
Tiến sỹ G.M. Lokshin – Trung tâm nghiên cứu Việt Nam & ASEAN, Viện Hàn Lâm khoa học Nga – phê phán: “Trung Quốc sử dụng những biện pháp thô bạo chống lại ngư dân Việt Nam, cũng như việc một lãnh đạo TC, nhất là giới quân sự đã có những tuyên bố thù địch đăng tải trên các phương tiện truyền thông,”ông khẳng định rằng. “Điều nầy đe dọa đến ổn định chính trị tại VN, đất nước có sự ổn định chính trị cao nhất tại ĐNA”.
Tiến sỹ M.E. Trigubenko – Chuyên gia cao cấp thuộc Trung tâm Chiến lược Nga tại Châu Á, Viện Hàn lâm khoa học Nga cho biết: “Việc Trung Quốc lấn chiếm lãnh thổ tại Biển Đông là chiến thuật truyền thống của Bắc Kinh, như một câu ngạn ngữ của chính TC là: “Ăn đất hàng xóm như tầm ăn dâu”. Bà vạch trần việc TC tiếp tục khiêu khích VN trên Biển Đông khi thực hiện chuyến bay thử nghiệm trái phép đến  một sân bay trên Đá Chữ Thập, đảo nhân tạo mà Bắc Kinh xây dựng phi pháp tại đây.
Tiến sỹ V. Mosyakov – Phó giám đốc Viện Nghiên cứu Phương Đông, Viện Hàn lâm khoa học Nga – nói: “Đã có sự lừa dối và phóng đại nghiêm trọng từ phát ngôn BNG / TC Hoa Xuân Oánh khi tuyên bố rằng: “TQ xây dựng những đảo nhân tạo trên Biển Đông là trong giới hạn chủ quyền của nước này”.
Tác giả A. Svetov – Chuyên gia phụ trách quan hệ với các Tổ chức của chính phủ & Truyền thông thuộc Hội đồng Nga – khuyến nghị: “Việt Nam cần tăng cái giá phải trả cho kẻ xâm lược”.
Tập Cận Bình tại cuộc họp với TT Obama bên lề thượng đỉnh an ninh hạt nhân tại Washington ngày 31/3/2016. Họ Tập lên tiếng cảnh cáo Mỹ chớ xâm phạm chủ quyền và lợi ích quốc gia của Bắc Kinh tại Trường Sa dưới danh nghĩa thực thi quyền tự hàng hải ở Biển Đông và Bắc Kinh sẽ kiên quyết bảo vệ chủ quyền của TQ ở Biển Đông.
Ngày hôm sau 01/4/2016, TT Obama đã tạt một gáo nước lạnh vào mặt Tập Cận Bình để cho họ Tập thức tỉnh. Hãng tin Reuters, trích dẫn một nguồn tin từ Washington cho biết, Hải quân Mỹ dự trù mở cuộc tuần tra thứ ba vào đầu tháng 4 tiến tới gần các đảo tranh chấp trên Biển Đông, bất chấp những phản đối của Tập Cận Bình. Thông tin về kế hoạch nầy được tiết lộ một ngày sau cuộc gặp gỡ giữa TT Obama và Tập Cận Bình.
Đến cuối tuần nầy, tàu chiến Hoa Kỳ và Nhật Bản dồn dập cập cảng Philippines gồm có 7 tàu hải quân Mỹ và 3 tàu hải quân Nhật Bản sẽ cập cảng tại vịnh Subic của Philippines vào ngày 3/4/2016 để chuẩn bị cho cuộc tập trận “BALIKATAN” sẽ diễn ra từ ngày 4/4 đến 16/4/2016 ở nhiều địa điểm khác nhau ở Philippines. Cuộc tập trận diễn ra trong bối cảnh tranh chấp căng thẳng tại Biển Đông, gần đây có xu hướng leo thang do Bắc Kinh ngang nhiên bồi đắp, cải tạo trái phép các đảo nhân tạo ở Trường Sa của Việt Nam. Ngoài cuộc tập trận chung, Philippines còn chuẩn bị cho binh sĩ Hoa Kỳ đóng tại 5 căn cứ theo “Hiệp định Hợp tác Quốc phòng Nâng Cao” (EDCA).
Trước khi tạm kết bài báo nầy, tôi xin mượn nhận định của giáo sư Yakov Berger – một chuyên gia nghiên cứu chiến lược thuộc Viện Nghiên cứu Viễn Đông – để bọn lãnh đạo Bắc Kinh và tập đoàn tay sai lãnh đạo ĐCSVN hiện nay suy ngẫm.
Giáo sư Yakov Berger cho rằng: “Không ai biết về ngân sách thực sự mà Bắc Kinh dành cho quốc phòng. Nếu như tính đến giá trị sử dụng, thì những con số thật có thể lớn hơn nhiều so với con số được công bố, nhưng lại ít hơn con số cung cấp cho phía Mỹ. Tuy nhiên, chi tiêu quân sự của Tàu Cộng không thể so sánh được với Hoa Kỳ.”
Chiến lược gia Yakov Berger khẳng định: “Nếu Tàu Cộng tiến hành một cuộc chiến tranh chống lại Hoa Kỳ thì điều đó “CHẲNG KHÁC NÀO TỰ SÁT”…
  Theo VietNamDaily.News