Friday, December 1, 2017

Việt Nam cố ‘kìm’ Internet sau 20 năm đã ‘mở’

VOA Tiếng Việt-02/12/2017 
Blogger Nguyễn Chí Tuyến ở quán cafe Internet trên đường phố Hà Nội.
 Blogger Nguyễn Chí Tuyến ở quán cafe Internet trên đường phố Hà Nội.
Các chuyên gia nhận định rằng việc Việt Nam mở cửa cho Internet trong 20 năm là một bước đột phá ‘đầy ấn tượng,’ nhưng chính quyền không ngừng tăng cường những ‘rào cản nghiêm ngặt’ cùng với sự ‘kiểm duyệt nặng nề.’
Từ Hà Nội, nhà hoạt động nhân quyền – blogger Nguyễn Chí Tuyến nhận định về hoạt động Internet tại Việt Nam.
“Tôi nghĩ rằng đó là một bước tiến trong việc tiếp thu tiến bộ của thế giới để đưa vào Việt Nam. Nếu như 20 năm trước mà họ vẫn cứ muốn đóng cửa Internet thì trình trạng của Việt Nam bị cách xa thế giới cũng chẳng khác gì Triều Tiên như bây giờ.”
Nếu như 20 năm trước mà họ vẫn cứ muốn đóng cửa Internet thì trình trạng của Việt Nam bị cách xa thế giới cũng chẳng khác gì Triều Tiên như bây giờ.
Blogger Nguyễn Chí Tuyến
Báo New York Times hôm 30/11 có bài nói rằng chính phủ Việt Nam lấy lý do vì ngày càng có nhiều mối quan ngại gia tăng về an ninh mạng và tin tức giả tạo để mạnh tay kiểm soát mạng xã hội, nơi các nhà hoạt động chính trị dùng làm diễn đàn để tố cáo các vi phạm tham nhũng và sai trái của quan chức nhà nước.
Báo này cũng nêu trường hợp dự luật An ninh mạng do Bộ Công an soạn thảo và đã trình cho quốc hội thông qua, trong đó yêu cầu các trang mạng xã hội như Google, Facebook và Skype phải đặt văn phòng và máy chủ tại Việt Nam, đã bị nhiều đại biểu quốc hội và Phòng Thương mại và Công nghiệp phản đối.
Tiến sĩ Nguyễn Bách Phúc, Chủ tịch Hội Tư vấn về Khoa học Công nghệ và Khoa học Quản lý hôm đầu tháng 11 phát biểu với truyền thông quốc tế rằng dự luật này là một sự “thiệt thòi” và “không giống ai.”
Dự luật này làm dấy lên nỗi sợ trong cộng đồng doanh nghiệp, người dùng Internet và thậm chí ngay cả một số giới chức lãnh đạo, nên sau đó đã bị lùi lại cho đến khi diễn ra kỳ họp quốc hội tiếp theo vào giữa năm 2018.
Blogger Mẹ Nấm - Nguyễn Ngọc Như Quỳnh bị xử án 10 năm tù vì các bài viết và phát biểu trên mạng xã hội.
Blogger Mẹ Nấm - Nguyễn Ngọc Như Quỳnh bị xử án 10 năm tù vì các bài viết và phát biểu trên mạng xã hội.
Mặc dù vậy, tờ New York Times cũng khen ngơi những thành tựu của Internet Việt Nam trong 20 năm khi tỷ lệ sử dụng mạng xã hội cao nhất trong số các nước có thu nhập bình quân đầu người tương đương, với khoảng 52 triệu tài khoản Facebook đang hoạt động, với số dân khoảng 96 triệu.
Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Việt Nam Trương Minh Tuấn tuần rồi cũng nhận định rằng sau 20 năm hòa mạng toàn cầu, Internet Việt Nam đã có những bước tiến thật sự “ấn tượng,” cụ thể là Internet đã len lỏi vào khắp các ngõ ngách của cuộc sống, làm thay đổi thói quen, cuộc sống của mọi người.
Ông Tuấn đã ca ngợi thành tựu của Internet Việt Nam như trên hôm 22/11, nhân sự kiện Internet Day 2017 và lễ kỷ niệm 20 năm Internet Việt Nam tại Hà Nội.
Theo truyền thông trong nước, Việt Nam hiện có khoảng trên 50 triệu người dùng Internet, chiếm 54% dân số, cao hơn mức trung bình 46,64% của thế giới, nằm trong top những quốc gia và vùng lãnh thổ có số lượng người dùng Internet cao nhất tại châu Á.
Facebook và YouTube là mạng xã hội phổ biến nhất Việt Nam với 51% người dùng Internet sử dụng hai mạng xã hội này.
Theo báo cáo của We are Social, một công ty chuyên về chiến lược tiếp thị và quảng cáo điện tử, Việt Nam cũng đứng thứ 7 trong danh sách những nước có người dùng đông nhất trên Facebook.
Tuy nhiên, theo đánh giá của Freedom House năm 2017, Việt Nam là nước kiểm duyệt Internet nặng nề nhất khu vực Đông Nam Á. Trong 20 năm qua, chính phủ Việt Nam đã ban hành, sửa đổi hàng loạt luật, nghị định và thông tư để kiểm soát Internet tại Việt Nam.
Việt Nam là nước kiểm duyệt Internet nặng nề nhất khu vực Đông Nam Á.
Phúc trình của Freedom House năm 2017
Nhà hoạt động Nguyễn Chí Tuyến nói rằng cho đến nay các lãnh đạo Hà Nội vẫn lo sợ rằng tự do trên Internet sẽ nguy hại đến việc cầm quyền của họ:
“Hai mươi năm trước, trước khi mở cửa cho Internet để cho người dân tiếp cận với thế giới và vén bức màng nhung bưng bít, ngay cả những người cầm quyền Việt Nam cũng từng rất lo sợ rằng Internet sẽ gây hại đến việc cầm quyền của họ.”
Các lý do mà chính quyền Việt Nam nêu ra khi cần thiết phải có sự kiểm soát Internet và quản lý không gian mạng là “chống xâm phạm an ninh quốc gia, tiến hành tấn công, khủng bố mạng, phá hoại tư tưởng, kích động biểu tình, hoạt động gián điệp mạng, chiếm đoạt thông tin, tài liệu bí mật nhà nước.”
Kiểm duyệt Internet ở Việt Nam
Kiểm duyệt Internet ở Việt Nam
Xét về mặt kiểm duyệt Internet, Việt Nam cũng không kém gì Trung Quốc. Báo New York Times nói vào năm 2009, Việt Nam cũng đã cố gắng chặn Facebook, nhưng không dám thiết lập một bức tường lửa hoàn toàn vì sợ rẽ đánh mất ngành thương mại điện tử và kinh doanh internet.
Trong khi ngay từ đầu Trung Quốc đã kiểm soát Internet trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng trực tuyến, thì cách tiếp cận nhẹ nhàng của Việt Nam đã tạo ra một cơ sở hạ tầng giúp thích ứng nhanh về khả năng điều chỉnh và kiểm soát của chính phủ.
Nhưng với tốc độ phát triển mạng xã hội như hiện nay, và không có mạng nội địa như Weibo hay Wechat của nước đàn anh, thì việc Việt Nam đến nay mới kiểm soát mạng xã hội đã quá trễ, báo New York Times nhận định.
Luật sư Trịnh Hữu Long viết trên trang Khoaluat.org rằng: “Dự luật An ninh mạng của Việt Nam, không biết do vô tình hay cố ý, giống Luật An ninh mạng của Trung Quốc một cách đáng kinh ngạc,” khi ông phân tích có đến 7 điểm tương đồng “như hai giọt nước.”
Nhìn chung, rõ ràng là Việt Nam thiếu sự kiểm soát Internet rộng lớn như quốc gia hàng xóm phương bắc. Tuy nhiên, điều này đã không ngăn Hà Nội trong viêc bịt miệng các nhà bất đồng chính kiến.
Một cuộc triển lãm trên Facebook về các giấy mời và giấy triệu tập do Công an gửi cho các nhà hoạt động.
Một cuộc triển lãm trên Facebook về các giấy mời và giấy triệu tập do Công an gửi cho các nhà hoạt động.
Việt Nam thường xuyên bị quốc tế chỉ trích vì vi phạm về nhân quyền, đặc biệt là tự do ngôn luận – khi mà nhà nước kiểm soát chặt chẽ báo chí, phát thanh và truyền hình, và cả những người viết blog.
Blogger Nguyễn Chí Tuyến nói nếu dự luật An ninh mạng được thông qua thì chắc chắn uy tín của Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng, do các quy định trong luật vi phạm các công ước thương mại quốc tế mà Việt Nam đã ký kết.
“Ở Việt Nam thì lập pháp, hành pháp, hay tư pháp đều dưới sự chỉ đạo của Đảng Cộng sản. Rất nực cười là dự luật này do Bộ Công an soạn thảo ra. Những điều kiện trong dự luật khó có thể thực thi về mặt kỹ thuật, tài chính, cũng như các định chế về mặt pháp lý mà Việt Nam đã tham gia sẽ có những xáo trộn, tác động xấu đến nền kinh tế. Nếu như vẫn giữ nguyên các qui định trong dự luật thì khó thể thông qua. Còn nếu như nó vẫn được thông qua thì hệ lụy rất nguy hiểm cho nền kinh tế Việt Nam.”
Ở Việt Nam thì lập pháp, hành pháp, hay tư pháp đều dưới sự chỉ đạo của Đảng Cộng sản. Rất nực cười là dự luật này do Bộ Công an soạn thảo ra.
Blogger Nguyễn Chí Tuyến
Việc chặn các nền tảng mạng xã hội phổ biến giờ đây có vẻ như là một bước di thụt lùi - và đã qua rồi cái thời kiểm soát Internet đầy đủ, tờ New York Times nhận định.
Các nhà quan sát nhận định rằng chính quyền Hà Nội xem Internet là nguồn gây mất ổn định xã hội, nhưng kiểm soát Internet một cách quá nghiêm ngặt cũng có thể là một nguồn gây bất ổn - thậm chí sẽ bất ổn hơn ở một quốc gia độc tài như Việt Nam.

Cai Lậy chiến thắng lần 2

Theo VOA-01/12/2017 
Trân Văn 
BOT Cai Lậy.
BOT Cai Lậy.
Cai Lậy – một thị xã thuộc tỉnh Tiền Giang – lại trở thành điểm nóng sau khi Trạm thu phí Cai Lậy mở cửa.
Lấy lý do cần giảm kẹt xe trên quốc lộ 1 tại đoạn chạy ngang Cai Lậy, Bộ Giao thông – Vận tải Việt Nam đã cho phép Công ty Đầu tư Quốc lộ 1 Tiền Giang mở một con đường chạy vòng bên ngoài Cai Lậy theo hình thức BOT (đầu tư – khai thác – chuyển giao). Những con đường chạy vòng bên ngoài các khu thị tứ được gọi nôm na là “đường tránh” và dự án của Công ty Đầu tư Quốc lộ 1 Tiền Giang tại Cai Lậy được gọi là Dự án BOT đường tránh Cai Lậy.
Khi đầu tư vào Dự án BOT đường tránh Cai Lậy (trị giá 1.386 tỉ), Công ty Đầu tư Quốc lộ 1 Tiền Giang chỉ có 208 tỉ đồng, 85% vốn còn lại là tiền vay ngân hàng.
Công ty Đầu tư Quốc lộ 1 Tiền Giang bắt đầu thu phí cho Dự án BOT Cai Lậy từ 1 tháng 8 nhưng chỉ 15 ngày sau phải tạm đóng cửa trạm thu phí vì “tứ bề thọ địch”: Giới tài xế dùng tiền lẻ trả phí, đếm tiền lẻ thì lâu nên giao thông tắc nghẽn. Nhiều giới chất vấn tại sao Bộ Giao thông – Vận tải lại cho phép Công ty Đầu tư Quốc lộ 1 Tiền Giang (vốn chỉ đầu tư và được phép khai thác đường tránh Cai Lậy) đặt trạm thu phí trên quốc lộ 1, thành ra xe cộ có dùng đường tránh Cai Lậy hay không vẫn phải trả phí? Báo giới phanh phui, tuy Công ty Đầu tư Quốc lộ 1 Tiền Giang khai rằng đã chi 1.000 tỉ đồng để làm 12 cây số và 7 cây cầu cho đường tránh Cai Lậy nhưng trên đường tránh Cai Lậy chỉ có 5 cây cầu, tuy công trình vừa hoàn thành, xe cộ qua lại không nhiều nhưng đường tránh Cai Lậy đã bắt đầu hư hỏng…
Giờ, sau ba tháng rưỡi chuẩn bị, hôm 30 tháng 11, Công ty Đầu tư Quốc lộ 1 Tiền Giang tổ chức thu phí trở lại. Cuốc đối đầu giữa giới tài xế với Công ty Đầu tư Quốc lộ 1 Tiền Giang tái diễn: Lần này, tài xế dùng cả tiền lẻ, lẫn giấy bạc có mệnh giá cao nhất (500.000 đồng) để trả phí, chuyện đếm tiền lại trở thành nan giải, giao thông lại tắc nghẽn và nhiều lần, Công ty Đầu tư Quốc lộ 1 Tiền Giang phải “xả trạm” để xe cộ qua lại miễn phí.
Từ 2011 – 2015, trên toàn Việt Nam có 71 dự án BOT cầu đường thì cả 71 dự án đều không tổ chức đấu thầu mà chỉ định “nhà đầu tư”
Nỗ lực hóa giải sự kháng cự của giới tài xế bằng cách thiết lập một khu vực riêng, chuyên thu nhận tiền lẻ dường như không hiệu quả. Nỗ lực bảo vệ hoạt động Trạm Thu phí Cai Lậy của hệ thống công quyền bằng cách điều động đủ loại cảnh sát (giao thông, trật tự, cơ động) đến chấn chỉnh tài xế cũng bị vô hiệu hóa.
Tờ Người Lao Động đưa một video clip ghi lại cảnh một tài xế trả dư 100 đồng tiền phí, không có 100 đồng để thối, nhân viên thu phí đưa cho tài xế này 200 đồng – giống như bớt cho anh ta 100 đồng - nhưng tài xế này dứt khoát không nhận “ân tình” đó. Bởi tiền Việt Nam hiện hành không có loại nào mà mệnh giá dưới 200 đồng, sốt ruột vì dòng xe ùn ứ phía sau càng lúc, càng dài, một trung tá rồi một đại tá cảnh sát giao thông có mặt tại hiện trường, yêu cầu tài xế rời khỏi trạm thu phí nhưng cả hai đều phải bỏ đi sau khi tài xế cảnh cáo, công an không có quyền can thiệp vào các “giao dịch dân sự”.
Tương tự, tờ Tuổi Trẻ tường thuật, cảnh sát giao thông đã thu giấy phép lái xe, giấy tờ xe của một số tài xế cứng đầu, dùng tiền lẻ trả phí nhưng không chịu vào khu vực dành riêng cho những người trả tiền lẻ, bởi tài xế vẫn không chịu dời xe đi nơi khác, cảnh sát giao thông đã ra lệnh cho xe chuyên dụng đến cẩu xe của những tài xế này đi nhưng lệnh này phát ra bốn lần, trong vòng 20 phút mà xe chuyên dụng không cẩu được xe nào vì cả tài xế lẫn dân chúng phản ứng dữ dội.

***

Trong mười năm vừa qua, các trạm thu phí cầu đường thi nhau mọc lên như nấm trên khắp Việt Nam khiến dân chúng điêu đứng: Phí vận tải tăng làm vật giá tăng vọt.
Do chỉ trích và các hoạt động phản kháng của dân chúng đối với các trạm thu phí càng ngày càng dữ dội, chính phủ Việt Nam đã yêu cầu cơ quan Kiểm toán Việt Nam rồi Thanh tra Chính phủ xem lại một số dự án cầu đường do các doanh nghiệp thực hiện theo hình thức BOT để thu phí.
Kết quả kiểm tra, thanh tra của hai cơ quan vừa kể cho thấy, 100% dự án BOT cầu đường có vấn đề. Từ 2011 – 2015, trên toàn Việt Nam có 71 dự án BOT cầu đường thì cả 71 dự án đều không tổ chức đấu thầu mà chỉ định “nhà đầu tư”.
Bởi các dự án BOT cầu đường được xem như thượng sách để phát triển hạ tầng giao thông trong bối cảnh công quỹ cạn kiệt nên về nguyên tắc, “nhà đầu tư” phải có đủ vốn, đủ năng lực thi công, cũng như kinh nghiệm và khả năng quản trị. Tuy nhiên trên thực tế, gần như toàn bộ các “nhà đầu tư” chỉ có hai bàn tay trắng, vốn liếng mà họ đổ vào các dự án BOT cầu đường được rút ra từ các ngân hàng. Dự án BOT Thái Nguyên – Chợ Mới (Bắc Kạn) có tổng vốn đầu tư là 2.476 tỉ nhưng Công ty Tuấn Lộc và Công ty Trường Lộc, hai trong ba doanh nghiệp tham gia “liên danh đầu tư” vào dự án này không có đồng nào.Khi đầu tư vào Dự án BOT đường tránh Cai Lậy (trị giá 1.386 tỉ), Công ty Đầu tư Quốc lộ 1 Tiền Giang chỉ có 208 tỉ đồng, 85% vốn còn lại là tiền vay ngân hàng.
Có hàng loạt câu hỏi mà dân chúng, các chuyên gia, báo giới đã từng nêu ra đối với các dự án BOT cầu đường như: Trong khi mục tiêu của các dự án BOT cầu đường là phát triển thêm hệ thống hạ tầng giao thông thì tại sao hệ thống công quyền lại chọn nhiều công lộ, giao cho các “nhà đầu tư” sửa chữa chút đỉnh rồi thu phí? Tại sao hệ thống công quyền không theo các qui định hiện hành, tùy tiện thay đổi qui mô đầu tư để các “nhà đầu tư” có cơ hội thu phí cao hơn và lâu hơn? Tại sao hệ thống công quyền lại dễ dàng chấp nhận cho các “nhà đầu tư” thực hiện dự án BOT ở một nơi rồi đặt trạm thu phí ở một nơi khác, ép tất cả các phương tiện phải trả phí, bất kể có sử dụng những công trình được đầu tư theo hình thức BOT hay không?
Cho dù những câu hỏi ấy không có câu trả lời nhưng ai cũng biết tại sao? Đó là kết quả tất nhiên khi nhiều viên chức hữu trách thỏa hiệp với các băng nhóm, dùng chủ trương phát triển hệ thống hạ tầng giao thông bằng hình thức BOT làm phương tiên kiếm tiền.
Đáng ngạc nhiên là thay vì điều tra, xử lý đến nơi, đến chốn những viên chức nhận hối lộ và các băng nhóm đưa hối lộ, hệ thống công quyền lại dùng lực lượng bảo vệ pháp luật để đe dân như chuyện vừa xảy ra ở Trạm thu phí Cai Lậy.
Tuy rõ ràng là an ninh kinh tế - tài chính quốc gia đã trở thành một thứ “con tin” trong tay các “nhà đầu tư” vào những dự án BOT cầu đường (Theo một báo cáo mà chính phủ Việt Nam trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cách nay ba tháng thì tính đến cuối năm ngoái, chủ đầu tư các dự án BOT trong lĩnh vực giao thông đang nợ hệ thống ngân hàng khoảng 84.000 tỉ đồng. Đáng chú ý là hệ thống ngân hàng đã dùng những khoản tiền gửi tiết kiệm ngắn hạn của dân chúng để cho chủ đầu tư các dự án BOT trong lĩnh vực giao thông vay dài hạn. Cũng vì vậy, nếu chủ đầu tư các dự án BOT trong lĩnh vực giao thông gặp khó khăn trong việc thu phí, hệ thống ngân hàng sẽ nghiêng ngả!) nhưng vì thế mà xoay sang đe dân bằng dùi cui, còng, súng chỉ hứa hẹn bất ổn. Cứ xem các video clip ghi lại những diễn biến trong hai ngày 30 tháng 11 và 1 tháng 12 ắt sẽ thấy. Dân đã hết “thuần” rồi.

Việt Nam ‘kiểm soát đặc biệt’ về môi trường đối với 28 doanh nghiệp

Theo VOA-01/12/2017 
Nhà máy thép Formosa ở Hà Tĩnh.
 Nhà máy thép Formosa ở Hà Tĩnh.
Bộ Tài nguyên và Môi trường Việt Nam vừa đưa ra danh sách 28 doanh nghiệp sẽ chịu sự kiểm soát đặc biệt về môi trường, trong đó có các dự án Formosa, Bauxit Tây Nguyên, Núi Pháo, các nhà máy thép, nhà máy xử lý chất thải ở Hà Nội và TPHCM… Đây là một đề án được thực hiện theo chỉ thị của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc sau khi xảy ra thảm họa môi trường Formosa ở miền Trung.
Phó Tổng cục Môi trường Hoàng Văn Thức được Vietnam Plus trích lời cho biết mục tiêu của đề án là “không để bị động như thời điểm năm 2016”.
Vẫn theo giới chức của Bộ TNMT, đề án đưa ra các loại hình doanh nghiệp có nguy cơ ô nhiễm cao như xi măng, nhiệt điện, khai thác khoáng sản và các tiêu chí để kiểm soát dự án ngay từ đầu.
Trong danh sách 28 dự án chịu sự kiểm soát đặc biệt, ngoài dự án thép Formosa, còn có các dự án từng gặp nhiều bất bình và phản đối từ công chúng như dự án bauxit nhôm Tân Rai và Nhân Cơ, dự án sản xuất và chế biến Vonfram Núi Pháo ở Thái Nguyên, dự án Trung tâm điện lực Vĩnh Tân ở Bình Thuận, dự án Khu Liên hợp xử lý chất thải rắn Đa Phước ở TPHCM và Khu liên hợp xử lý chất thải Nam Sơn ở Hà Nội.
Nhiều dự án sản xuất thép, hóa chất, nhà máy lọc dầu cũng được xếp vào diện giám sát đặc biệt.
Theo Tổng cục Thống kê Việt Nam, có đến 80% các khu công nghiệp vi phạm các quy định về môi trường. Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế-Xã hội Quốc gia nói những vụ ô nhiễm môi trường trong những năm gần đây đã gây cản trở tăng trưởng kinh tế, khiến Việt Nam mất khoảng 0,6% GDP hàng năm từ nay cho đến năm 2020.

Cai Lậy và làn sóng bất tuân dân sự

 Phạm Chí Dũng
Theo VOA-01/12/2017 
Công văn số 404/TTg-KTN ngày 18/3/2013 của PTT Hoàng Trung Hải đồng ý chỉ định nhà đầu tư dự án BOT Pháp Vân - Cầu Giẽ, một dự án còn tai tiếng và nhơ nhuốc hơn cả BOT Cai Lậy. Nguồn: Báo Điện tử Chính phủ.
 Công văn số 404/TTg-KTN ngày 18/3/2013 của PTT Hoàng Trung Hải đồng ý chỉ định nhà đầu tư dự án BOT Pháp Vân - Cầu Giẽ, một dự án còn tai tiếng và nhơ nhuốc hơn cả BOT Cai Lậy. Nguồn: Báo Điện tử Chính phủ.
30/11/2017 - trùng với ngày “tòa án nhân dân” của riêng chính quyền độc đảng ở Việt Nam giáng cú y án 10 năm tù giam xuống đầu của một blogger đấu tranh phản kháng nạn ô nhiễm xả thải của Formosa là Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, trạm thu phí BOT Cai Lậy một lần nữa phải đầu hàng xả trạm trước phong trào bất tuân dân sự của lái xe và người dân.
Bất chấp chính quyền Tiền Giang và chủ đầu tư BOT Cai Lậy lập “phương án tác chiến” rất chi tiết với mũi chủ công trấn áp là hàng trăm cảnh sát cơ động và công an giao thông, bất chấp việc bị lực lượng “tay sai bảo kê” này răn đe và đàn áp, bắt bớ, cánh lái xe đã không chỉ tiếp tục yêu sách đòi BOT Cai Lậy phải hủy bỏ tình trạng “quy hoạch một nơi, thu phí nơi khác”, duy trì chiến thuật trả tiền lẻ mà còn dũng cảm đối mặt với công an, thậm chí còn tổ chức tập hợp kéo đến đồn công an đòi người khi 3 lái xe bị công an bắt giữ.
Kể từ lần phản kháng đầu tiên vào tháng 9/2017 cũng tại trạm BOT Cai Lậy, nhận thức về đấu tranh mưu sinh, chống bất công và áp bức của lái xe đã nâng lên nhiều hơn, đồng thời giới hạn sợ hãi được kéo giảm. Đây cũng là một đặc thù rất lớn của phong trào đấu tranh dân chủ nhân quyền ở Việt Nam từ suốt những năm 2005, 2006 đến nay. Tập hợp và đoàn kết theo số đông luôn là một yếu tố sống còn để phong trào dân chủ và bất tuân dân sự đạt được thành công.
Có vẻ một bộ phận trong giới lãnh đạo các tỉnh Đồng Nai, Tiền Giang và cả một số địa phương khác đang lấp ló cơ chế “gia đình trị” hoặc “sứ quân địa phương”
Sự tiến bộ dù chậm chạp của xã hội Việt Nam là nếu trước đây phong trào phản kháng dân sự chỉ tập trugng ở giới đấu tranh nhân quyền và chủ yếu với những vấn đề nhân quyền chính trị, thì những năm gần đây phong trào phản kháng dân sự đã dần “xã hội hóa”, lan dần sang khối quần chúng mà trước đó vẫn bàng quan vô cảm, liên đới mật thiết không chỉ với nhu cầu mưu sinh và quyền lợi cá nhân, mà còn dần ý thức được rằng nếu người dân không hành động và không đấu tranh với các nhóm lỡi ích được”bảo kê” bởi chính quyền thì trước sau gì mỗi cá nhân cũng trở thành nạn nhân của chúng.
Cảm hứng và kinh nghiệm
Phong trào bất tuân dân sự đang lớn mạnh và khởi sắc hẳn. Cuộc trước là nguồn cảm hứng cho cuộc sau. Từ các cuộc biểu tình phản đối chặt hạ cây xanh và tổng đỉnh công của công nhân một số tỉnh Nam Bộ vào năm 2015 đến phong trào biểu tình phản đối Formosa của người dân miền Trung vào năm 2016.
Bất tuân dân sự ở trạm thu phí BOT đã không còn là hiện tượng đơn lẻ.
Khởi nguồn từ tháng Tư năm 2017, phương cách phản ứng một cách sáng tạo và hợp pháp của người dân huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh đối với trạm thu phí Bến Thủy 1 là dùng tiền lẻ mệnh giá 200 đồng hay 1.000 đồng để mua vé. Kết quả của việc phản kháng này là tạo nên tình trạng kẹt xe nghiêm trọng và khiến rối đầu chính quyền. Lực lượng công an đã phải bó tay vì không thể đàn áp người dân trả phí đàng hoàng. Lực lượng này chỉ còn làm được chuyện duy nhất là giải quyết tình trạng ùn tắc giao thông kéo dài nhiều cây số.
Vào nửa đầu năm 2017, việc nhà cầm quyền phải nhân nhượng miễn phí 100% cho người dân 4 huyện 2 tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh qua cầu Bến Thủy 1 là thắng lợi tiêu biểu đầu tiên của cuộc đấu tranh bền bỉ và sáng tạo của nhân dân, đánh dấu những bước đi khởi đầu thành công của phong trào bất tuân dân sự tại Việt Nam.
Phương thức phản kháng đầy sáng tạo này của người dân Nghi Xuân đã được áp dụng và lan rộng sang nhiều lãnh vực khác. Đến tháng 8 - 9/2017 và từ đó đến nay, hàng loạt cuộc phản kháng khôn khéo nhưng có hiệu quả đã được giới lái xe ứng dụng thành công ở nhiều trạm thu phí BOT trên nhiều vùng…
Càng về sau này, yếu tố tổ chức và hơn nữa là tổ chức có kỷ luật chặt chẽ càng nổi lên trong những hoạt động bất tuân dân sự. Mối dây liên lạc và phổ biến kinh nghiệm đã hình thành càng rõ rệt giữa các nhóm lái xe ở các tỉnh thành, đặc biệt được chi tiết hóa về cách thức dùng tiền lẻ để trả tiền thu phí và cách “câu giờ” càng lâu càng tốt… Công an đành đứng ngoài cuộc mà không còn dám hầm hè đe dọa lái xe như trước đây. Một số chủ trạm BOT đòi truy tố lái xe nhưng nếu công an làm như vậy lại trái luật. Không còn cách nào khác, một số trạm thu phí đã phải “xả trạm”, để dòng xe lưu thông qua trạm mà không thu phí…
Ngược lại với phong trào bất tuân dân sự của lái xe và người dân, ngày càng nhiều chính quyền địa phương đã lộ hẳn hành vi “bảo kê” trắng trợn cho các nhóm trục lợi chính sách, đặc biệt là dấu hiệu tổ chức và triển khai “lực lượng vũ trang riêng”, mà bằng chứng không thể chối cãi là vụ trạm thu phí BOT Biên Hòa (Đồng Nai) vào tháng 10/2017 và trạm thu phí Cai Lậy (Tiền Giang) vào tháng 11/2017.
Trong đó, Đồng Nai có thể được xem là một trường hợp rất đáng mổ xẻ về cận cảnh lãnh chúa hay “sứ quân”.
“Lực lượng vũ trang riêng”?
Vụ một lực lượng đông đảo cảnh sát cơ động và cảnh sát giao thông công khai dàn quân trong khu vực Trạm thu phí BOT Biên Hòa vào ngày 26/10/2017 như một cách “khủng bố” việc cánh lái xe trả tiền lẻ là một bằng chứng rõ ràng, không chỉ về mối quan hệ móc nối đã trở nên quá sâm đậm giữa nhóm lợi ích chủ đầu tư BOT Biên Hòa với cơ quan công an, mà còn cả màu sắc đậm đặc rất ấn tượng của “lực lượng vũ trang riêng”.
Dùng cảnh sát cơ động và cảnh sát giao thông tại các trạm BOT Biên Hòa và Cai Lậy để “dằn mặt” lái xe là hành vi “khủng bố” quá lộ liễu.
Trước đó, BOT Biên Hòa đã trở thành cái tên ấn tượng bởi cách lạm thu tràn lan mang lại lợi lộc rất lớn cho chủ đầu tư, khiến phát sinh làn sóng bất tuân dân sự của cánh tài xế khi đối phó tình trạng lạm thu bằng cách trả tiền lẻ khiến BOT Biên Hòa buộc phải xả trạm cho xe qua.
BOT Biên Hòa cũng trở thành cái tên khó quên khi sau đó nhiều lái xe đã bị cơ quan cảnh sát giao thông Đồng Nai “mời làm việc” - như một cách “khủng bố” tinh thần những người tài xế không chịu khuất phục cảnh lạm thu.
Nhưng đến việc dàn quân tại BOT Biên Hòa để “khủng bố”, sự việc đã vượt quá giới hạn của “nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”.
Sự khác biệt về mức độ trắng trợn chà đạp luật pháp của hiện tượng trên là trong rất nhiều vụ các chính quyền địa phương dùng lực lượng công an và cả quân đội để cưỡng chế giải tỏa người dân nhằm trưng thu đất đai, cơ chế này vẫn được dựa trên một số văn bản mang tính pháp quy của chính quyền (quy hoạch, quyết định giải tỏa, quyết định bồi thường…), cho dù không ít văn bản như thế là bất hợp lý hoặc rất bất công. Nhưng đối với trường hợp BOT Biên Hòa, đã không có bất kỳ văn bản pháp quy nào từ phía chính quyền được nêu ra để chứng minh là hành động trả tiền lẻ của lái xe là vi phạm pháp luật.
Một khi không được “chống lưng” bởi bất cứ quyết định hoặc quy định pháp quy nào, cơ chế dùng cảnh sát cơ động và cảnh sát giao thông tại các trạm BOT Biên Hòa và BOT Cai Lậy để “dằn mặt” lái xe là một hành vi “khủng bố” quá lộ liễu, quá trắng trợn mà chỉ có thể cho thấy tình trạng phép vua thua lệ làng, cát cứ quyền lực đang phổ biến và gia tăng chóng mặt ở một số địa phương, tạo ra một tiền đề hữu hiệu để một khi “có đủ điều kiện”, chính giới lãnh đạo địa phương đó sẽ ra sức phát huy cơ chế tập quyền cá nhân và tập quyền gia đình trị, không ngại ngần sử dụng lực lượng công an và cả quân đội cho ý đồ thâu tóm lợi ích và quyền lực cho mình.
Gần đây, một trong số lãnh đạo Đồng Nai - bà Phan Thị Mỹ Thanh, Phó Bí thư tỉnh ủy - đã bị “dính” vụ Trạm BOT đường vào mỏ đá Tân Cang và quá “ưu ái” cho doanh nghiệp của người nhà của bà này như một thể thức “gia đình trị”.
Cũng gần đây, báo chí đã nêu quá nhiều vụ cảnh sát giao thông Đồng Nai “ăn cả trên bộ lẫn trên sông” nhưng vẫn bị những quan chức đen đúa nào đó từ bóng tối âm thầm che chắn.
Không hẳn tất cả, nhưng có vẻ một bộ phận trong giới lãnh đạo các tỉnh Đồng Nai, Tiền Giang và cả một số địa phương khác đang lấp ló cơ chế hoặc “gia đình trị” hoặc “sứ quân địa phương”, hoặc cả hai, và cả những dấu hiệu khó có thể chối cãi về “xây dựng lực lượng vũ trang riêng”.
Nguy cơ mới trong thể chế độc đảng
“Có đủ điều kiện” lại là một cụm từ mà Tổng bí thư Trọng sính dùng trong bản nghị quyết ban hành sau Hội nghị trung ương 6 tháng 10/2017 về “nhất thể hóa chức danh đảng và nhà nước”. Theo đó, ở những cấp xã, huyện “có đủ điều kiện”, bí thư cấp ủy sẽ đồng thời là chủ tịch ủy ban nhân dân và hội đồng nhân dân, có thể gọi nôm na là “3 thành 1”. Cơ chế này sẽ khiến quyền lực thực tế tập trung vào chỉ một người, thay vì trước đây phổ biến là ba, hoặc thí điểm hai người - bí thư tỉnh kiêm chủ tịch hội đồng nhân dân, nhưng bí thư tỉnh và chủ tịch tỉnh là hai nhân sự khác nhau và cách nào đó kiểm soát quyền lực lẫn nhau.
Nhưng sau Hội nghị trung ương 6, thông tin từ nhiều quan chức có trách nhiệm đã cho biết cơ chế “3 thành 1” không chỉ dừng ở cấp xã và huyện mà sẽ triển khai ở cấp tỉnh thành, thậm chí còn có thể “lên” tới cấp trung ương.
Hệ quả rõ ràng là nếu thực hiện cơ chế “3 thành 1,” các “lãnh chúa” sẽ “quyết” hết, từ vấn đề nhân sự đến điều hành kinh tế - xã hội, và cả những dự án màu mỡ có nguồn vốn từ ngân sách và viện trợ ODA. Sẽ không có chuyện “lãnh chúa” phải hỏi hoặc xin ý kiến của Hội đồng nhân dân tỉnh thành về quyết sách này quyết sách kia.
Thế nhưng khi nêu ra kế hoạch “nhất thể hóa 3 thành 1”, đảng lại hầu như không đưa ra bất kỳ cơ chế nào để kiểm soát quyền lực. Có phải đảng muốn lờ đi cơ chế kiểm soát quyền lực để không còn cơ quan nào có thể giám sát những gì đảng sẽ làm?
Chỉ biết rằng nếu không có cơ chế kiểm soát quyền lực được cụ thể hóa bằng một luật về “nhất thể hóa”, sẽ chẳng có ai chịu trách nhiệm và sẽ chẳng làm thế nào để đảng hay chính phủ kiểm soát được cơ số hành vi tự tung tự tác mà những lãnh đạo được xem là “có tâm có tầm” do đảng chỉ định vào vị trí “3 thành 1” sẽ “tự diễn biến”. Để khi đó, tình trạng tản quyền dâng cao, biến thành “chia quyền” và phát triển mạnh khuynh hướng ly tâm hóa quyền lực. Sẽ hình thành cơ chế “đa trung tâm quyền lực” không chỉ ở nhiều bộ ngành mà cả nhiều địa phương.
Thậm chí sau một thời gian thực hiện “3 thành 1” mà chẳng bị kiểm soát quyền lực, rất dễ để “giới tinh hoa” của đảng coi sóc linh hồn dân ở nhiều địa phương sẽ biến những địa phương đó thành một vương quốc riêng của mình. Thậm chí rất có thể sẽ xuất hiện những “chính ủy chuyên quyền” tham vọng và liều lĩnh nhất khi nghĩ đến việc tự trang bị cho địa phương mình một “lực lượng vũ trang” riêng, bao gồm vừa công an vừa quân đội, thẳng tay đàn áp dân chúng…
Đồng Nai và Tiền Giang chỉ là vài trong số những số địa phương đang có dấu hiệu manh nha để trở thành một cái gì đó na ná để thỏa mãn tương lai trên.

‘Thanh - Thăng’: Nước cờ mạo hiểm của Tổng bí thư Trọng

 Phạm Chí Dũng 
Theo VOA-29/11/2017
Ông Nguyễn Phú Trọng.
 Ông Nguyễn Phú Trọng.
Xử Thanh!

Hai tuần lễ sau khi kết thúc Hội nghị thượng đỉnh APEC, Tổng bí thư Trọng đã quyết định tung ra một nước cờ mạo hiểm trong cuộc chiến được xem là “chống tham nhũng” của đảng nhưng chắc chắn có liên quan mật thiết đến bước đường công danh tại vị của cá nhân ông: khẩn trương đưa vụ Trịnh Xuân Thanh và giai đoạn II vụ án Hà Văn Thắm ra xét xử vào tháng 1 và tháng 2 năm 2018.
Chỉ đạo trên được nêu ra trong cuộc họp của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng vào ngày 25/11/2017, với sự có mặt của “cánh tay phải” của Tổng bí thư Trọng là Trần Quốc Vượng - Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra trung ương và đồng thời là “thành viên thường trực ban bí thư” - một cách gọi thay cho vai trò của người vẫn còn là Thường trực ban bí thư - Đinh Thế Huynh - nhưng bệnh mãi vẫn không chịu khỏi.
Một cách chính thức sau 4 tháng kể từ thời điểm nổ ra vụ “bắt cóc Trịnh Xuân Thanh” theo cách gọi của Nhà nước Cộng hòa liên bang Đức hay “Trịnh Xuân Thanh tự nguyện đầu thú” theo lối đặt câu của Bộ Công an Việt Nam, ông Trọng đã quyết định đưa nhân vật từng khiến ông mất ngủ ra xét xử.
Vô hình trung, động thái trên có thể khiến dư luận nhớ lại một luồng quan điểm phát ra từ nội bộ đảng vào đầu tháng 8/2017, ngay sau khi “Thanh về”: “Trả giá đối ngoại để giải quyết đối nội”.

Trả giá!

Quan điểm “trả giá đối ngoại để giải quyết đối nội” cho rằng “Để bắt được Trịnh Xuân Thanh là vấn đề không dễ và Bộ Công an, Bộ Ngoại giao cũng thừa biết những vấn đề phức tạp sẽ xảy ra sau khi bắt Trịnh Xuân Thanh ở Đức. Nếu đúng như báo chí Đức đưa tin là Trịnh Xuân Thanh bị “bắt cóc” thì cũng không có giải pháp nào tốt hơn là phải chịu trả giá về mặt đối ngoại để giải quyết vấn đề đối nội”, và “Thực ra “bắt cóc” hay “đầu thú” không quan trọng, mà quan trọng là có con người Trịnh Xuân Thanh tại Việt Nam – một mắt xích quan trọng trong cuộc chiến chống tham nhũng’.
Chỉ có điều, phía Việt Nam đã không thể hình dung cái giá phải trả là quá cao. Sau vụ vài nhân viên ngoại giao bị xem là tình báo bị Đức trục xuất vào tháng 8/2017, đến tháng Mười Chính phủ Đức đã tung ra một cú giáng không thể tưởng tượng: tạm thời đình chỉ quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam. Sang tháng Mười Một, Đức còn hủy cả một hiệp định Đức - Việt miễn visa cho cán bộ ngoại giao Việt Nam đi công tác ở Đức và còn trục xuất thêm một nhân viên ngoại giao nữa trong tòa đại sứ Việt Nam ở Đức.
Trong tương lai gần, hành động trừng phạt từ người Đức vẫn có thể tiếp diễn…

“Thanh trước Thăng sau”?

Trong khi đó trên phương diện “đối nội”, người ta nhận ra thái độ có vẻ tự tin của Tổng bí thư Trọng khi ông công bố thời điểm xử vụ Trịnh Xuân Thanh và vụ Hà Văn Thắm giai đoạn 2 vào tháng 1 và tháng 2 năm 2018 - một hành động tương tự việc ông Trọng cho công luận biết về thời điểm diễn ra Hội nghị trung ương 6 là vào tháng 10/2017.
Với thái độ tự tin trên, ông Trọng đang ấp ủ hy vọng giành chiến thắng?
Sau vụ Trịnh Xuân Thanh, vụ Hà Văn Thắm giai đoạn 2 lại liên quan đến một nhân vật đặc biệt: Đinh La Thăng.
Ông Thăng được xem là một trong những người thân tín của cựu thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, đặc biệt vào thời ông Thăng còn là chủ tịch Hội đồng thành viên Tập đoàn dầu khí quốc gia (PVN) giai đoạn 2006 - 2010.
Vào các tháng Tư và Năm năm 2017, Đinh La Thăng bất ngờ “ngã ngựa” bởi một kết luận của Ủy ban Kiểm tra trung ương về những sai phạm của ông Thăng thời ở PVN là “rất nghiêm trọng”. Tuy nhiên sau khi bị loại khỏi Bộ Chính trị, Đinh La Thăng vẫn còn giữ được ghế ủy viên trung ương đảng, thậm chí còn không bị ông Trọng “điểm danh” tại Hội nghị trung ương 6 vào tháng 10/2017.
Tại kỳ họp quốc hội Việt Nam tháng 10 - 11 năm 2017, thậm chí ông Đinh La Thăng còn ngự ngay ở hàng ghế đầu.
Tại phiên xử phúc thẩm Hà Văn Thắm vào tháng 9/2017, một tín hiệu “bắt” hướng đến Đinh La Thăng đã phát ra khá rõ. Tại phiên tòa này, luật sư Nguyễn Minh Tâm - người bào chữa cho nhân vật Nguyễn Xuân Sơn - đã bất ngờ tung ra văn bản do ông Đinh La Thăng ký khi đang là Chủ tịch Hội đồng thành viên PVN, với nội dung yêu cầu các đơn vị thành viên thuộc PVN và các nhà thầu dầu khí phải mở tài khoản và thực hiện các giao dịch tại OceanBank.
Ngay sau khi Hà Văn Thắm của OceanBank bị Viện Kiểm sát đề nghị án chung thân, còn Nguyễn Xuân Sơn của Ngân hàng Dầu Khí Toàn Cầu còn nặng hơn - tử hình, Hội đồng xét xử đã trực chỉ Đinh La Thăng với yêu cầu cơ quan điều tra tiếp tục điều tra làm rõ vụ 800 tỷ đồng của PVN gửi vào Ngân hàng Đại Dương của Hà Văn Thắm…
Lẽ tất nhiên sau chỉ đạo đưa ra xét xử vụ Trịnh Xuân Thanh và Hà Văn Thắm giai đoạn 2 của Tổng bí thư Trọng, rất nhiều người đang hình dung ra một kết cục “xử Thanh trước, Thăng sau” và sẽ không còn an toàn đối với Đinh La Thăng.
Một lần nữa kể từ tháng 10/2017, một số tờ báo nhà nước bắt đầu hấp hé đề cập về “chữ ký Đinh La Thăng” liên quan đến vụ 800 tỷ đồng của PVN gửi OceanBank.
Tuy nhiên bằng vào thái độ “hiền” hẳn của ông Trọng về chống tham nhũng ngay sau Hội nghị trung ương 6, cũng có những dư luận đang đặt dấu hỏi về hiện tượng “lò nguội” của ông. Để nếu hiện tượng này trở thành một cái gì đó thực chất, vụ xét xử Hà Văn Thắm giai đoạn 2 sẽ vẫn chỉ là những cái tên cũ hoặc “tép”, mà không có Đinh La Thăng.
Cần nhắc lại, quan điểm “trả giá đối ngoại để giải quyết đối nội” cũng cho rằng “Nếu không “đánh rắn dập đầu” thì bọn tham nhũng sẽ phản đòn và tiếp tục ngóc đầu dậy chống đối quyết liệt hơn”.
Vào tháng 9/2016, ngay trước Hội nghị trung ương 4 của đảng cầm quyền về “chống tự diễn biến, tự chuyển hóa”, một cây viết mang tính tín hiệu chính trị là Huy Đức đã tung ra bài ‘THANH hay THĂNG’ , báo hiệu cuộc thanh trừng trong nội bộ đảng CSVN sẽ bùng nổ sau đó.
Bài ‘THANH hay THĂNG’ về thực chất là một bài điều tra án kinh tế. Ý chính của bài này là vụ Tổng công ty Xây lắp dầu khí (PVC), nơi mà Trịnh Xuân Thanh làm lỗ hơn 3.200 tỷ đồng, chỉ là chuyện nhỏ. Câu chuyện lớn hơn nhiều là doanh nghiệp chủ quản của PVC - Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) - nơi mà trước khi về cái ghế bộ trưởng Giao thông vận tải, ông Đinh La Thăng đã làm chủ tịch hội đồng thành viên.
Huy Đức kết luận trong bài ‘THANH hay THĂNG’: “Thanh – Thuận, cho dù tội trạng tày đình cũng chỉ là kẻ thừa hành. PVC chưa phải là mất mát đau nhất ở PVN dưới thời Đinh La Thăng; di sản của ông ta sau 5 năm ở đây chỉ có thể nói là “tan hoang”. Nếu các cơ quan pháp luật muốn làm tới nơi thì quy mô của vụ án không chỉ “xảy ra ở PVC” mà là ở PVN, vấn đề không phải là Thuận hay Thanh mà là Thăng”.
Có thể hình dung, bài viết trên đang hướng Cơ quan điều tra C46 của Bộ Công an sang một “quy trình” mới: PVN.
Thực tế sau đó đã xác minh rằng bài ‘THANH hay THĂNG’ của Huy Đức là điểm mở đầu cho một chiến dịch truyền thông “chống tham nhũng” để kết thúc số phận của “hổ” Đinh La Thăng trong Bộ Chính trị.

Hai mặt trận

Giờ đây, cho dù Tổng bí thư Trọng có hình dung ra hay không, nhưng trên thực tế nước cờ “Thanh hay Thăng” của ông đang khiến ông cùng lúc phải tác chiến trên cả hai mặt trận: với các đối thủ chính trị của “thời kỳ trước” lẫn “thời nay”, và với Nhà nước Đức.
Hai mặt trận trên lại có chung một gạch nối: Trịnh Xuân Thanh.
Nếu ông Trọng hoàn tất chiến dịch “xử Thanh và Thăng” tại tòa án của mình một cách trọn vẹn, nghĩa là “đánh dập đầu rắn”, mục tiêu “giải quyết đối nội” sẽ cơ bản đạt được và sẽ mang lại một vị thế chính trị lẫn uy tín khá chắc chắn trong nội bộ đảng cầm quyền cho “Sỹ phu Bắc Hà”, thậm chí còn được tiếp tục đẩy lên tầm cao với những danh xưng chưa từng có “Minh quân” và…“Bậc nhân kiệt thế thiên hành đạo”!
Nhưng nếu chỉ “giơ cao đánh khẽ” hoặc hành xử lưng chừng theo lối “đập chuột sợ vỡ bình”, “lò” của ông Trọng sẽ có thể bị nguội hẳn mà rất khó hun nóng lại, để chính bản thân ông Trọng sẽ phải đối mặt với nguy cơ từ các đối thủ chính trị trong nước về “phải giữ đúng cam kết nghỉ giữa nhiệm kỳ khóa 12”, lẫn sức ép từ người Đức về không chỉ quan hệ ngoại giao mà cả về tương lai quá đen tối của EVFTA.

Bộ Giao Thông Vận Tải: Trạm BOT Cai Lậy vẫn tiếp tục hoạt động

RFA 2017-12-01  
Hình từ video cho thấy công an đang bắt giữ một tài xế ở BOT Cai Lậy, Tiền Giang hôm 30/11/2017
 Hình từ video cho thấy công an đang bắt giữ một tài xế ở BOT Cai Lậy, Tiền Giang hôm 30/11/2017  Screen capture
Trạm thu phí BOT Cai Lậy, Tiền Giang sẽ tiếp tục hoạt động sau nhiều lần xả trạm từ ngày chính thức thu phí vào đầu tháng 8 năm 2017.
Một lãnh đạo Bộ Giao thông Vận tải (Bộ GTVT) trả lời báo trong nước vào chiều ngày 1 tháng 12 như vừa nêu và cho biết Bộ này sẽ phối hợp với các cơ quan chức năng, UBND tỉnh Tiền Giang để lên kế hoạch giải quyết tình hình liên quan.
Cũng theo vị lãnh đạo này thì BOT Cai Lậy đã giảm 30% phí và người dân sinh sống quanh trạm đã được miễn phí.
Một vị lãnh đạo khác, ông Nguyễn Văn Huyện, Tổng cục trưởng Tổng cục Đường bộ cũng khẳng định sẽ không vì việc người dân dùng tiền lẻ để trả khi qua trạm mà dừng việc thu phí.
Cũng liên quan đến tình trạng căng thẳng tại trạm thu phí này, vào chiều ngày 1 tháng 12, phía Bộ GTVT  đã phát đi thông cáo báo chí để giải thích về mức thu phí sử dụng dịch vụ đường bộ tại BOT Cai Lậy.
Theo giải trình của Bộ GTVT, bộ đã nghiên cứu về vị trí đặt trạm, phương án thu phí, quá trình triển khai thực hiện dự án và đã nhận sự đồng thuận của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, được Thủ tướng chính phủ chấp thuận.
Bộ GTVT cho biết, sau 3 tháng xả trạm do các tài xế dùng tiền lẻ qua trạm, BOT Cai Lậy thu phí trở lại vào sáng 30 tháng 11 nhưng tiếp tục gặp phải sự phản đối của các chủ phương tiện và người dân. Liên tiếp, 2 ngày 30 tháng 11 và 1 tháng 12, các tài xế dùng tiền lẻ mệnh giá 100 đồng, 200 đồng và cả tiền xu để trả phí, gây ùn tắc giao thông buộc trạm Cai Lậy tỉnh Tiền Giang phải xả trạm.
Chỉ trong 2 ngày, BOT Cai Lậy phải xả trạm 6 lần.
Diễn tiến căng thẳng tại BOT Cai Lậy được Thủ tướng Chính phủ Hà Nội,Nguyễn Xuân Phúc, nhắc đến trong phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 11 tại Hà Nội vào sáng ngày 1 tháng 12.
Ông Nguyễn Xuân Phúc yêu cầu Bộ Giao thông- Vận tải phải có báo cáo tổng hợp về BOT, đặc biệt là trường hợp BOT Cai Lậy, Tiền Giang và không để tình trạng này kéo dài.
Trạm thu phí Cai Lậy hoạt động từ ngày 1/8. Tuy nhiên sau đó tài xế đã dùng tiền lẻ để phản đối trạm đặt sai vị trí, gây tình trạng ùn tắc nghiêm trọng. Ngày 15/8 vừa qua cơ quan chức năng cho xả trạm và hạ giá vé đối với tất cả các phương tiện qua trạm.
Nhưng các tài xế không đồng ý với những biện pháp của cơ quan chức nặng, cho rằng việc đặt trạm và thu phí là điều vô lý.

Bị khởi tố vì đốt cờ đỏ - sao vàng

RFA- 2017-12-01 
 Anh Nguyễn Đình Túc, sinh năm 1992, cư trú tại xã Ích Hậu, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh.
Anh Nguyễn Đình Túc, sinh năm 1992, cư trú tại xã Ích Hậu, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh.  Courtesy Vietnamnet
Một thanh niên tại Hà Tĩnh bị khởi tố với cáo buộc mà cơ quan chức năng tỉnh này gọi là ‘xúc phạm quốc kỳ’.
Truyền thông trong nước dẫn lời đại tá Phan Trọng Thành, trưởng Công an huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh cho biết như vừa nêu.
Theo tin được loan đi thì anh Nguyễn Đình Túc, sinh năm 1992, cư trú tại xã Ích Hậu, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh sau khi nhậu say, trong ngày được gọi là ‘ngày hội Đại đoàn kết dân tộc’ nhân dịp kỷ niệm 87 năm ngày Truyền thống Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam’,  đã có hành động đốt băng rôn, khẩu hiệu, cờ đoàn, và cờ của Nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
Tin nói Công an được báo về vụ việc vào ngày 17 tháng 11 và cơ quan này tiến hành điều tra.
Đến ngày 28 tháng 11, cơ quan chức năng ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can về tội danh ‘xúc phạm quốc kỳ’.
Mạng báo Dân Trí dẫn lời anh Túc khai với công an rằng khi đang ngồi nhậu với bạn bè thì nghe thấy tiếng “lách cách” trên mái nhà như có ai ném đá. Túc cho rằng có ai trong Tổ liên gia đang “chơi xấu” anh trong ngày Đại đoàn kết nên đã thực hiện những hành động vừa nêu.
Chính phủ Hà Nội qui định tội xúc phạm quốc kỳ, quốc huy tại điều 276 Bộ Luật Hình Sự. Nếu bị kết tội, hình phạt từ bị cảnh cáo đến cải tạo không giam giữ cao nhất là ba năm hay phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm.

Vụ Võ An Đôn: Việt Nam chưa bao giờ thực tâm cải cách tư pháp, luật sư Lê Công Định.

Kính Hòa RFA 2017-12-01 
Luật sư Lê Công Định trả lời hãng tin AFP, tháng Tư, 2015.
Luật sư Lê Công Định trả lời hãng tin AFP, tháng Tư, 2015.  AFP
Luật sư Võ An Đôn bị đoàn luật sư Phú Yên rút giấy phép hành nghề và khai trừ ra khỏi đoàn luật sư tỉnh Phú Yên, vào tháng 11 năm 2017.
Cách đây 3 năm, năm 2014, một luật sư khác là ông Nguyễn Đăng Trừng, một đảng viên cộng sản, cũng bị khai trừ ra khỏi đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh.
Từ Sài Gòn, Luật sư Lê Công Định, phân tích với Kính Hòa, đài Á châu tự do điều gọi là cải cách tư pháp tại Việt Nam trong thời gian 30 mươi năm qua. Trước tiên ông đánh giá sự kiện khai trừ luật sư Võ An Đôn ra khỏi Đoàn luật sư tỉnh Phú Yên.
Luật sư Lê Công Định: Tôi cho đó là sự việc rất nghiêm trọng vì ở đây, đó là quyền tự do ngôn luận, được hiến pháp ghi nhận, chứ không phải là một cách quyền bị luật pháp cấm đoán. Do đó việc nói luật sư Đôn có những phát ngôn vi phạm pháp luật Việt Nam, để rồi từ đó xóa tên ông khỏi đoàn luật sư thì đó là một dấu hiệu rất là nguy hiểm. Và từ nay nếu những luật sư Việt Nam nếu vẫn tiếp tục hành nghề, thì họ phải rất cẩn trọng trong lời nói của họ, tức là họ không được nói những điều gì mà chính quyền cảm thấy không hài lòng.
Việc chấp nhận định chế luật sư, cho phép các luật sư hành nghề, là ở tình thế bắt buộc mà đảng cầm quyền không có sự lựa chọn mặc dầu họ không muốn.
-Luật sư Lê Công Định.
Vai trò luật sư trong nền tư pháp rất quan trọng, luật sư là một định chế bổ trợ tư pháp. Bổ trợ tư pháp có nghĩa là nền tư pháp vận hành theo cái hướng là đi đến công lý cho mọi công dân trong xã hội, trong đó tòa án đóng vai trò chính, những ngành liên quan đến tư pháp phục vụ cho việc xét xử, mang đến công lý thì đều được nhìn là bổ trợ tư pháp. Không những tòa án độc lập mà những nghề bổ trợ tư pháp như luật sư, công chứng, cũng đòi hỏi có sự độc lập, đặc biệt là nghề luật sư.
Chúng ta thấy rằng những trường hợp như luật sư Trừng, luật sư Đôn, tuy khác nhau về sự việc nhưng đều giống nhau ở chổ là cả hai người đều bày tỏ sự không phục tùng sự chỉ đạo của đảng cầm quyền. Ông Trừng thì không muốn có sự sắp đặt của đảng bộ ở Sài Gòn, muốn ông phải thôi chức vụ, bởi vì theo ông luật sư phải độc lập, và cái tổ chức luật sư ở Sài Gòn phải độc lập để bầu ra người lãnh đạo cho nó. Ông đã phản ứng lại việc ép ông không ra ứng cử nữa.
Trường hợp luật sư Đôn cũng vậy, ông không thể hiện sự phục tùng đảng cầm quyền. Họ luôn muốn ông là phải có những phát ngôn không phương hại đến địa vị cầm quyền của họ. Ông làm mất đi điều mà họ muốn bảo vệ trước mặt công chúng. Luật sư Đôn là người bộc trực, nói thẳng ra những vấn đề mà đảng cầm quyền không vừa ý.
Kính Hòa: Đối với ngành tư pháp của Việt Nam từ khi những người cộng sản lên cầm quyền, có lẽ chúng ta cũng phải công nhận là từ chế độ  bồi thẩm nhân dân, cho đến chấp nhận luật sư tranh luận ở tòa, thì những nhà cầm quyền ở Việt Nam cũng đã thực hiện cải cách tư pháp, vậy ông có thấy là sự việc luật sư Võ An Đôn là chỉ dấu cho thấy Đảng Cộng sản muốn trở lại chuyện muốn kiểm soát hoàn toàn ngành tư pháp hay không?
Luật sư Lê Công Định: Chúng ta phải thấy là việc chấp nhận định chế luật sư, cho phép các luật sư hành nghề, là ở tình thế bắt buộc mà đảng cầm quyền không có sự lựa chọn mặc dầu họ không muốn.
Nếu chúng ta đi ngược lịch sử đến năm 1945, khi ông Hồ lên cầm quyền thì ông có một sắc luật liên quan đến việc tổ chức nghề luật sư trở lại. Nhưng cái việc tổ chức đó chỉ kéo dài trong một thời gian ngắn, rồi ngay sau đó định chế luật sư bị lãng quên, và người ta xét thấy rằng là việc cai trị bằng luật pháp là không cần thiết mà bằng chỉ thị nghị quyết của đảng mà thôi. Cho nên là vai trò của tòa án còn bị coi nhẹ huống hồ gì là luật sư.
Người ta xét thấy rằng là việc cai trị bằng luật pháp là không cần thiết mà bằng chỉ thị nghị quyết của đảng mà thôi.
-Luật sư Lê Công Định.
Mãi đến khi Việt Nam cải cách kinh tế, mở cửa kêu gọi đầu tư nước ngoài vào năm 1986, thì họ thấy cần thiết phải có định chế luật sư, tạo bộ mặt dân chủ cho chính quyền, đồng thời giúp nâng niềm tin của những nhà đầu tư nước ngoài, nên nghề luật sư được chấp nhận trở lại. Chúng ta thấy là dù họ không muốn, nhưng phải đánh giá đó là bước tiến triển của ngành tư pháp Việt Nam. Từ khi có pháp lệnh về luật sư từ năm 1987 đến giờ thì quả là một giai đoạn phát triển vượt bậc của nghề luật sư tại Việt Nam.
Nhưng khi những đòi hỏi dân chủ ngày càng phát sinh nhiều, và nhà cầm quyền không thể kiểm soát sự phát triển của những luật sư độc lập, không chấp nhận sự chỉ đạo, chỉ thị của đảng cầm quyền nữa, ngay lập tức họ quay ngược trở lại là muốn siết chặt việc kiểm soát các luật sư. Chúng ta thấy rằng đầu tiên là việc sửa đổi bộ luật hình sự với điều 19, khoản 3, liên quan đến việc tố giác thân chủ của mình của các luật sư, nó cho chúng ta chỉ dấu rằng nhà cầm quyền ngày càng muốn giới hạn phạm vi hoạt động của các luật sư, và họ tìm mọi cách để các luật sư phải cúi đầu chấp nhận sự chỉ đạo và kiểm soát của nhà cầm quyền. Bước thứ hai rất tệ hại là xóa tên luật sư Võ An Đôn ra khỏi đoàn luật sư Phú Yên. Điều đó cho thấy luật sư bây giờ nếu ngoan ngoãn nghe lời, chỉ biết kiếm tiền mà thôi thì sẽ được để yên để làm việc đó. Còn nếu họ có những phát ngôn mà nhà cầm quyền cảm thấy không hài lòng thì ngay lập tức họ sẽ có vấn đề.
Chúng ta thấy rằng nổ lực cải cách tư pháp của nhà cầm quyền Việt Nam từ xưa đến giờ chưa bao giờ đặt ra sự độc lập của hệ thống tòa án, sự độc lập của định chế luật sư.
-Luật sư Lê Công Định.
Kính Hòa: Vậy trong tình hình hiện nay, những nổ lực cải cách nền tư pháp Việt Nam theo hướng độc lập, thỏa mãn những gì cần có cho một công dân trước công lý, thì phải làm như thế nào?
Luật sư Lê Công Định: Chúng ta thấy rằng nổ lực cải cách tư pháp của nhà cầm quyền Việt Nam từ xưa đến giờ chưa bao giờ đặt ra sự độc lập của hệ thống tòa án, sự độc lập của định chế luật sư, mặc dù trong luật nói là các tòa án xét xử độc lập, tuy nhiên đó chỉ là những lời nói trên giấy, ở trong luật mà thôi. Trên thực tế tòa án Việt Nam chưa bao giờ xét xử độc lập, Định chế luật sư cũng vậy. Trong chương trình cải cách tư pháp của họ, họ chỉ tạo ra cái vẻ bề ngoài là có dân chủ ở tòa bằng cách khuyến khích sự tranh luận công khai trong các phiên tòa, cả về hình sự lẫn dân sự thương mại. Tuy nhiên trong thực tế chúng ta biết rằng trong thực tế hoạt động của các phiên tòa là hoàn toàn phản dân chủ.
Chỉ trong những vụ kiện hoàn toàn không liên quan đến chính trị mà chỉ là tiền bạc giữa các công dân với nhau thôi thì may ra tòa còn lắng nghe luật sư tranh luận. Nhưng thực ra mà nói việc quyết định một bản án trong những vụ kiện dân sự như vậy nó cũng không phản ánh nhiều lắm sự tranh luật giữa các luật sư tại tòa mà đa phần là dựa trên sự phán đoán nhận xét riêng của thẩm phán, mà chúng ta cũng biết sự tham nhũng cũng len lỏi trong những quyết định đó như thế nào.
Trở lại vấn đề cải cách tư pháp. Cải cách tư pháp ở Việt Nam đã được nói đến từ năm 1987 đến nay. 30 năm nhìn lại chúng ta thấy có sự tiến triển nào chưa? Tôi cho là hoàn toàn không có. Thậm chí với điều 19.3 của bộ luật hình sự lẫn dự thảo nghị định về việc kiểm soát sự phát ngôn của luật sư trên mạng xã hội, nơi công cộng, cho thấy là có sự phát triển thụt lùi chứ không phải là đi tới của ngành tư pháp Việt Nam.
Kính Hòa: Xin cám ơn luật sư Lê Công Định.

Đề nghị cải tiến chữ viết "Tiếq Việt": Nhìn từ một góc khác

PGS. TS. Bùi Hiền
PGS. TS. Bùi Hiền
Courtesy vietnamnet.vn
J.B Nguyễn Hữu Vinh 
Theo RFA-2017-12-01
Mấy hôm nay, trên mạng xã hội và báo chí một trận cuồng phong quét dữ dội lên một đề án cải tiến chữ viết Tiếng Việt của PGS-TS Bùi Hiền, nguyên Phó Hiệu trưởng Trường ĐHSP Ngoại Ngữ.
Đề xuất của bị PGS này về một bản chữ cái Tiếng Việt được cải tiến để kết quả là "Luật Giáo dục" trở thành “Luật záo zụk”. “Tiếng Việt” thành “Tiếq Việt”, “ngôn ngữ” thành “Qôn qữ”...
Nhìn số lượng "đá" được ném vào đề xuất này, người ta thấy điều gì?

Chỉ là một đề xuất

Trước hết, cần nói luôn và ngay rằng ở đây không bàn đến việc đúng, sai, tốt, xấu của đề án cải tiến của ông Bùi Hiền. Bởi điều này sẽ được chứng minh trong thực tế. Điều gì đúng, tốt sẽ tồn tại, cái sai, cái bất tiện sẽ dần dần bị loại bỏ và không được hưởng ứng.
Cũng không phải vì cái danh hiệu Phó Giáo sư, tiến sĩ của ông Bùi Hiền, Phó Hiệu trưởng Trường ĐHSP Ngoại ngữ mà người viết bài này phải quá lụy vào danh tiếng đó để tin tưởng. Bởi nạn "ngáo đá" ở Việt Nam, người ta thấy rõ nhất lại là từ các quan chức cộng sản có bằng cấp đầy mình, danh hiệu kín danh thiếp, chức vụ nghe đã hoảng. Vì thế việc xưng danh là Giáo sư, tiến sĩ hoặc bất cứ điều gì ở Việt Nam đều đã không còn là giá trị mặc định cho những điều họ nói ra sẽ xứng đáng với danh hiệu. Điển hình là ông Tiến sĩ Xây dựng đảng Nguyễn Phú Trọng.
Ở Việt Nam, 24.000 tiến sĩ mà nói theo  ngôn ngữ dân gian là "nhiều hơn cả lợn con" mà những phát minh đơn giản nhất về cái máy cấy, máy gặt, máy thu hoạch nông sản... đều từ những bà con nông dân ít chữ mà ra, còn đám Giáo sư, tiến sĩ nhung nhúc kia thì chỉ suốt ngày ngồi để... đào tạo tiến sĩ.
Thế nhưng, chúng ta nhìn thấy gì qua mạng xã hội cũng như báo chí và những người dân Việt Nam qua sự kiện này?
Đây là một đề xuất cải cách rất nhạy cảm, bởi nó tác động vào thói quen, văn hóa và một sự mặc định bấy lâu nay được xã hội chấp nhận là Chữ quốc ngữ Tiếng Việt. Trong mỗi con người và cộng đồng, việc thay đổi một thói quen là điều hết sức khó khăn.
Nếu đây là một đề xuất tốt và hợp lý, thì thực tế sẽ chứng minh nó có tác dụng như thế nào và giá trị ra sao, được đánh giá bởi thực tiễn xã hội. Và hẳn nhiên qua đó, nó sẽ được xã hội chấp nhận và khi đó thì dù không được Bộ giáo dục hay cả Bộ Chính trị đồng ý, thậm chí là cấm đoán và tiêu diệt, thì nó vẫn đi vào đời sống xã hội Việt Nam không thể cưỡng lại, dù có thể là rất chậm chạp.
Đã bao nhiêu chục năm nay, tín ngưỡng và tôn giáo là điều mà đảng Cộng sản, hết bộ nọ, bộ kia và hàng hàng lớp lớp chính phủ, cơ quan... bằng mọi phương pháp, bằng mọi cách tận diệt trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội, nhất là qua cuộc "Cách mạng tư tưởng và văn hóa" dai dẳng, khốc liệt và bất nhân nhưng đã không thể tiêu diệt được niềm tin của người dân.
Cũng từ khi người cộng sản cướp được chính quyền ở Việt Nam, chế độ tư hữu, tư nhân đã bị tìm mọi cách triệt tiêu từ trong tư tưởng cho đến hành động, thành các phong trào cách mạng", bằng những cuộc cướp bóc tập thể không gớm tay, bằng nghị quyết, bằng nhiều biện pháp tàn bạo nhằm xây dựng một xã hội cộng sản "Ngày mai tất cả sẽ là chung. Tất cả sẽ là vui và ánh sáng" - Nhưng vẫn không thể dập tắt được tính tư hữu của con người. Để rồi cuối cùng, chính những người cộng sản lại dẫn đầu trở thành các nhà tư bản đỏ, sau khi cướp được một số lớn tài sản của người dân. Điều này, chính họ đã liếm bãi nước bọt họ nhổ ra trước đó.
Còn nếu như đây là một đề xuất thuộc hàng "tối kiến" nó sẽ nhanh chóng bị xã hội lãng quên. Khi đó, dù là "Cha già dân tộc" có phát động thì vẫn không hề mảy may được xã hội coi trọng và bị vứt vào sọt rác không hề thương tiếc.
Điển hình là chính Hồ Chí Minh đã dẫn đầu cái việc "Ngáo đá" mà ông PGS.TS Bùi Hiền đang làm và bị cả xã hội ném đá. Hãy nhìn một văn bản "Tuyệt đối bí mật" hết sức quan trọng là di chúc, ở đó HCM đã dùng chữ "z" thay cho chữ "d" hoặc thay chữ "ph thành chữ "f", bỏ âm "h" trong từ "nghị" thành "ngị". Trước đó, ông đã dùng rất nhiều trong các văn bản, báo chí khác như "Đường Kách mệnh" cũng như nhiều văn bản viết tay khác. Thậm chí, ông còn yêu cầu các cấp dưới của ông dùng chữ thuần Việt thay chữ gốc Hán như "Ngữ pháp tiếng Việt", Bác nói: "Đã "tiếng Việt" lại còn "ngữ pháp"! Sao không gọi là "Mẹo tiếng Việt?".
Quả thật, đọc những văn bản, bút lục của Hồ Chí Minh do nhà nước công bố, chúng ta phải thấy rằng ông ta là bậc thầy của ông PGS.TS "ngáo đá" Bùi Hiền này.
Thế rồi, cũng có một thời, các địa danh, danh nhân đọc theo phiên âm Hán Việt phổ biến trên báo chí và xã hội, khi đó các địa danh được phiên âm: Washington - Hoa Thịnh Đốn, Roma – La Mã, Paris – Ba Lê, Moskva - Mạc Tư Khoa, Praha - Bố Lạp Cách, New York - Nữu Ước, Los Angeles - Lạc San Cơ, Tokyo – Đông Kinh, Bangkok - Mạn Cốc, Campuchia - Giản Phố Trại, Pakistan – Ba Cơ Tư Thản, hoặc Lê Nin thành Liệt Ninh... thì dần dần xã hội cũng thay đổi và không chấp nhận nó.
Theo thời gian, cùng với sự phát triển của xã hội và tiến bộ khoa học Kỹ thuật, người ta dần dần loại bỏ chúng.

Sự phản ứng dữ dội của nạn bầy đàn

Sau khi đề xuất của ông PGS.Ts Bùi Hiền được đưa ra, báo chí và mạng xã hội trong cũng như ngoài nước đã dồn dập bàn tán, chê bai và thậm chí là chửi rủa.
Điều khá ngạc nhiên, là người ta sẵn sàng ném đá, ném tới tấp vào một đề xuất mà không có nhiều phân tích chí lý việc đúng, sai, hay, dở, thuận tiện hay bất tiện của đề xuất này.
Trái lại, người ta mỉa mai rằng đây là một sự phá hoại, là ngáo đá, là sự ngu muội... thôi thì đủ cả. Người ta nại ra đủ lý do để từ chối, ném đá nó một cách rất... cảm tính. Rằng thì là chữ quốc ngữ đã là máu thịt, là thói quen, là văn hóa và là nhiều thứ.
Thậm chí, điều buồn cười là ông Gs Nguyễn Lân Dũng còn lo sợ rằng nếu cải tiến chữ viết Tiếng Việt thì 94 triệu người Việt Nam phải đi học lại mẫu giáo. Thực ra, nếu nó có tác dụng tốt thật sự có ích cho xã hội, thì việc đi học lại mẫu giáo cũng đâu có sao. Chẳng phải là Hồ Chí Minh đã từng thề "đốt cả dãy Trường Sơn cũng giành cho được độc lập" đó sao? Chẳng phải là đảng Cộng sản Việt Nam đã tìm mọi cách để "Xây dựng con người mới XHCN" và "Nền văn hóa mới XHCN" đó sao.
Hoặc PGS.TS Nguyễn Hữu Đạt, Khoa Ngôn ngữ học, Trường ĐH KHXH và NVQG, ĐHQG Hà Nội cho rằng đề xuất này không phải “cải tiến” mà là “cải lùi”. "Bởi vì nếu cải tiến như vậy thì tiếng Việt không còn có vẻ đẹp như nó vốn có". Rằng “Chữ quốc ngữ được sáng tạo trên cơ sở lấy hệ chữ cái La tinh để ghi âm tiếng Việt. Trong đó, các bậc tiền bối đã tính toán khá kỹ đến cả đường nét (giá trị thẩm mỹ) của ký tự lẫn giá trị biểu nghĩa (giá trị phân biệt ý nghĩa) của từng con chữ".
Thực ra, ý kiến này cũng hết sức cảm tính. Vẻ đẹp nó vốn có là vẻ đẹp nào? Ngày xưa khi chưa có chữ Quốc Ngữ thì Tiếng Việt có vẻ đẹp vốn có hay không? Và trên hết, ở đây vẫn chỉ là tư duy "học tập và làm theo" mà bỏ đi tính sáng tạo và cải tiến cho hợp lý.
Bởi lẽ, cũng như con người, chữ viết và ngay cả Tiếng Việt cũng chưa phải là hoàn toàn hoàn thiện đến mức không thể cải tiến hoặc sửa đổi.
Cùng với sự phát triển của xã hội và đà tiến của nhân loại, con người càng tiến bộ hơn thì mọi vấn đề của xã hội đều cần được cải tiến và thay đổi cho phù hợp.
Nếu Tiếng Việt ngày xưa không thể có từ Máy tính, Computer, điện thoại, Smart phone, wifi, bluetooth... thì ngày nay vốn ngôn ngữ sẽ bổ sung cho nó phong phú hơn.
Nếu ngày xưa người dân chưa biết một chữ Tiếng Anh, tiếng Pháp thì người ta chấp nhận các phiên âm như từ Hán Việt nêu trên, còn ngày nay người ta không thể chấp nhận cách phiên âm tên Thủ tướng Thái Lan là "Sổm-sặc Kiệt-sụ-ra-nôn" ghi chềnh ễnh trền tờ báo đảng mạo danh Nhân Dân nữa.
Điều đáng nói hơn, là ngay không chỉ những người mang danh, mang hàm GS.TS hoặc những người hiểu biết phê phán, mà cả những người viết chưa rành câu chính tả, dấu hỏi, dấu ngã trong Tiếng Việt cũng chưa biết sử dụng vẫn cứ vào chửi như thật.
Đó là thói bầy đàn nguy hiểm.
Bởi vì, ngay trên các văn bản của nhà nước, của các Bộ hẳn hoi, viết câu Tiếng Việt còn chưa thông, chính tả còn chưa sạch thì làm sao có thể đòi hỏi sự phê phán đúng sai.
Ngay ngày hôm nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã phải "rút kinh nghiệm về diễn đạt ghi tên trong sổ đỏ". Cũng ngay ngày hôm nay, Cục Hàng không đã phải đính chính về một thông tư mới ban hành được báo chí nhắc đến ngày hôm qua do "lỗi đánh máy" về việc những giấy tờ được dùng khi làm thủ tục lên máy bay và Bộ GTVT đã thừa nhận có sai sót. Cần phải nói rõ: Ở đây là sự tắc trách, coi thường người dân hay do trình độ sử dụng ngôn ngữ?
Đó là ở cơ quan Bộ, còn chưa nói ở cấp Tỉnh, Thành phố và cấp dưới nữa, việc sử dụng Tiếng Việt cứ như một trò hài hước.
Hãy nhìn cái "vẻ đẹp như nó vốn có" của Tiếng Việt mà Bộ Công An đang sử dụng. Trong các "Giấy mời" của mình gửi công dân, được bắt đầu bằng "Kính mời ông, bà" và kết thúc bằng "Yêu cầu ông, bà... có mặt đúng thời gian và địa điểm trên" thì đủ hiểu rằng việc sử dụng Tiếng Việt trong chế độ Cộng sản là một thảm họa. Bởi ở đó, ngôn ngữ đã bị bóp méo và đánh tráo về ý nghĩa và khái niệm. Và cũng bởi ở đó, nạn bằng giả, học giả, nạn con ông cháu cha đã lan tràn đến mức bất chấp tất cả mọi quy chuẩn cần thiết của một người  làm công việc nhà nước.
Có sao đâu, đám đầy tớ nhân dân chỉ có thế.
Thế nhưng, như trên đã nói, lẽ ra cần xem đây là một đề xuất, đơn thuần là như vậy để xem xét đúng sai, lợi hại... và đưa ra nhận xét. Thì trái lại nạn bầy đàn được thể hiện rất rõ bằng những màn ném đá.
Cần phải nói rằng: Một đề xuất, một ý tưởng có thể đúng hoặc sai. Nhưng việc đưa ra ý tưởng là cần thiết và việc truyền bá ý tưởng của mình là quyền tự do của mỗi người.
Nếu không có việc đưa ra những ý tưởng, dù là cái mà người đời cho là "ngáo đá", là "Cải lùi", thì mãi mãi cả dân tộc tự nhấn chìm mình trong cái gọi là "Học tập và làm theo" ngay cả những điều ngu dốt nhất, không bao giờ có thể tiến bộ được.
Khi Edison đưa ra ý tưởng khi phát minh ra bóng đèn điện đầu tiên trong lịch sử nhân loại nhiều người cũng cho là "ngáo đá". Thậm chí năm 1878, Ủy ban Nghị viện Anh đã nhận xét rằng phát minh của Edison "cũng khá tốt đối với những người bạn phía bên kia đại dương, nhưng lại chưa đủ để gây sự chú ý của những người có đầu óc thực tế hay giới khoa học". Còn kỹ sư trưởng Tổng cục Bưu điện Anh cho rằng ánh sáng tỏa ra từ đèn điện chính là những đốm sáng lập lòe giữa bãi tha ma. Nếu khi đó ý tưởng của Edison bị dập tắt bằng những cuộc ném đá, thì ngày nay, nhân loại vẫn chìm trong sự tăm tối của ánh sáng đèn dầu hỏa?
Nếu như Nguyễn Trường Tộ về thuật lại cho vua Tự Đức về "cây đèn treo ngược" và những đề nghị canh tân đất nước nhưng Tự Đức đã không chịu nghe, thì ngày nay, những bóng điện vẫn treo ngược và sáng bừng cả đất nước.
Nếu người ta có thể ném đá một ý tưởng "ngáo đá" về cải tiến chữ Quốc ngữ cách hăng say, miệt mài theo đám đông mà không ngần ngại, thì người ta đã câm như hến trước không chỉ là ý tưởng và việc làm của Hồ Chí Minh. Chính HCM đã đi trước về sự "ngáo đá" này. Ngay từ rất lâu ông đã dùng những từ ngữ "Đường kách mệnh”, “ngiên kứu”, “zữ vững”, “fục tùng” "Chính fủ", "zân chủ", "hữu ngị"... Thậm chí ông được đảng và nhà nước tự phong là "Danh nhân văn hóa thế giới" và theo "GS" Hoàng Chí Bảo thì ông "thành thạo 29 ngoại ngữ"... nhưng điều đáng tiếc là chữ và Tiếng Việt của ông không thạo. Bằng chứng là người xứ Nghệ, nhưng dấu hỏi ông cứ dùng sai chính tả thành dấu ngã như thường.
Vậy nhưng không hề có một tờ báo, rất ít người dám phê phán một câu. Trái lại luôn tung hô tận trời xanh và đua nhau "Học tập và làm theo miệt mài".
Đó là biểu hiện của thói bầy đàn nguy hiểm.

Tạm kết

Như đầu bài viết đã nói, chúng tôi không đánh giá ý tưởng cải tiến chữ viết Tiếng Việt của ông Bùi Hiển là đúng hay sai, tốt hay xấu. Những điều này dành cho các nhà ngôn ngữ học chân chính và có hiểu biết, có khả năng.
Nhưng chúng tôi tán thành việc có ý tưởng cải tiến của ông. Điều này cũng thể hiện được một điều là sự tâm huyết và trăn trở đối với Tiếng Việt. Tốt hay xấu, xã hội và thực tế sẽ đánh giá và kiểm nghiệm.
Chúng tôi cũng tán thành việc truyền bá ý tưởng và những đề xuất của ông, bởi đó là sự tự do vốn minh nhiên được công nhận là quyền của mỗi người.
Bởi trong lịch sử chữ Quốc ngữ, ngay từ khi ra đời đã không hề được xuôi chèo mát mái, đã gặp biết bao gian nan. Thoạt đầu các nhà nho Việt Nam rất phản đối thứ chữ của “bọn mắt xanh mũi lõ” này, nhưng rồi sau chính họ nhận thức được vai trò của chữ quốc ngữ trong nâng cao dân trí và canh tân đất nước. Chính vì vậy, chữ Quốc ngữ đã được dùng trong xã hội, đất nước Việt Nam cho đến ngày nay đem lại một nét riêng cho văn hóa dân tộc này với biết bao nhiêu tác dụng trong đời sống xã hội.
Cùng ngày xưa, khi các giáo sĩ và linh mục Alexandre de Rhodes lập nên chữ Quốc Ngữ đầu tiên, hẳn các vị cũng không bao giờ cho rằng đó là "trí tuệ, là văn minh, đạo đức" duy nhất hoặc tuyệt đối hoàn hảo. Mọi sự cải tiến cho phù hợp với thực tiễn cuộc sống là rất cần thiết.
Và hẳn là khi những người cộng sản trên đất nước này muốn thể hiện sự vong ân bội nghĩa đối với người bạn lớn của nền văn hóa Việt Nam bằng cách xóa bỏ mọi di sản, dấu tích về các vị ấy, hẳn các vị cũng chẳng lấy làm phiền lòng.
Bởi cuộc sống, xã hội luôn cần phát triển đi lên mà không nhất thiết phải sợ đụng cái trần đạo đức hoặc trí tuệ như đảng cộng sản đang cố gắng dựng lên trong cái gọi là "Học tập và làm theo tấm gương Hồ Chí Minh" hiện nay.
Bởi như một nữ nhà văn người Anh đã nói: "Tôi không đồng ý với những gì anh nói, nhưng tôi sẽ bảo vệ cho đến chết quyền của anh được nói ra điều đó" - Evelyn Beatrice Hall bút danh Stephen G. Tallentyre.
* Bài viết không thể hiện quan điểm của Đài Á Châu Tự Do