Sunday, January 5, 2014

Người đàn bà chiếm đoạt 4.000 tỷ ra tòa

Ngày 6/1, Huỳnh Thị Huyền Như cùng 22 bị cáo trong vụ chiếm đoạt số tiền được cho là lớn nhất từ trước đến nay bị đưa ra xét xử trong phiên tòa kéo dài 20 ngày.

Theo nội dung vụ án, năm 2007, Như vay trên 200 tỷ đồng của nhiều ngân hàng, tổ chức cá nhân với lãi suất cao để đầu tư kinh doanh bất động sản ở nhiều tỉnh thành. Từ năm 2010, do việc kinh doanh thua lỗ, mất khả năng trả nợ, Như đã lợi dụng quyền trưởng phòng giao dịch Điện Biên Phủ giả danh Vietinbank chi nhánh Nhà Bè và chi nhánh TP HCM huy động tiền của các ngân hàng, nhiều công ty và cá nhân rồi chiếm đoạt 4.000 tỷ đồng.
huyen-nhu-infographic.jpg
 
Giúp sức đắc lực cho Như trong vụ án, Võ Anh Tuấn - nguyên phó giám đốc Vietinbank chi nhánh Nhà Bè bị cho là đã nhận lót tay lên đến hàng chục tỷ đồng. Ngoài ra, sai phạm của một loạt cán bộ ngân hàng cũng góp phần giúp Như chiếm đoạt số tiền khủng này.
Với vai trò là người cầm đầu, Như bị truy tố 2 tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức với mức án tối đa là chung thân. Võ Anh Tuấn cùng 21 bị cáo khác bị xét xử về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, Cho vay lãi nặng; Vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ; Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng.
Phiên tòa dự kiến kéo dài từ ngày 6/1 đến 25/1. 
Hải Duyên
Đồ họa: Đình Trung

Xác một phụ nữ bị trói tay trên sông Sài Gòn

Thi thể một phụ nữ khoảng 30 tuổi, hai tay bị cột bằng một sợi dây dù nổi trên sông Sài Gòn, đoạn cầu Bình Lợi mới, được người dân phát hiện chiều 5/1.

Thi thể phụ nữ (khoanh tròn đỏ) bị trói tay được phát hiện ở gần cầu Bình Lợi. Ảnh: An Nhơn
Thi thể phụ nữ bị trói tay được phát hiện ở gần cầu Bình Lợi. Ảnh: An Nhơn.
15h30, ông Ba Chúc, người chuyên cứu người và vớt xác ở khu vực cầu Bình Lợi, phát hiện thi thể một phụ nữ nổi trên sông Sài Gòn, quận Bình Thạnh, TP HCM. Ông Chúc kéo thi thể trên vào bờ và báo cho cơ quan chức năng.
Nạn nhân nữ khoảng 30 tuổi mặc quần đen, áo bị kéo ngược lên trên, hai tay bị trói bằng dây dù.
Đến 19h cùng ngày, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an TP HCM vẫn đang tiến hành khám nghiệm hiện trường. Do trong người nạn nhân không có giấy tờ tùy thân nên vẫn chưa xác định được danh tính.
An Nhơn

Cháu nội tù nhân thế kỷ Nguyễn Hữu Cầu gửi thư kêu cứu cho ông



An Minh Bắc, ngày 30 tháng 12 năm 2013

Tâm thư cầu xin cứu giúp cho ông nội cháu. Ông Nguyễn Hữu Cầu - người đã phải chịu cảnh tù đày 38 năm.

Kính gửi: 

- Các Tổ Chức Nhân Quyền Thế Giới;  
- Các quý Ông/Bà cộng đồng người việt ở trong nước và ở nước ngoài.

Cháu tên là: Trần Phan Yến Nhi; sinh năm 1999; Cháu đang học lớp 9 Hiện cháu đang ở ấp An Hòa – xã An Minh Bắc – huyện U Minh Thượng – tỉnh Kiên Giang. Cháu là cháu nội của Ông: Nguyễn Hữu Cầu; sinh năm 1947 hiện đang bị giam ở khu giam riêng K2 - trại giam Z30 Xuân Lộc – Đồng Nai.

Ông Nội của cháu: Ông Nguyễn Hữu Cầu.

Cha cháu tên là Trần Ngọc Bích; Cha cháu mang họ Cha dượng vì thế cháu phải mang họ Cha nhưng đích thực cháu là họ Nguyễn.

Kính thưa Các quý Tổ Chức Nhân Quyền Thế Giới cùng các Quý Ông/Bà người Việt đang sinh sống ở trong nước và ở nước ngoài. Năm cháu được 6 tuổi cháu có hỏi Cha cháu là Ông Nội đâu? Cha cháu bảo là Ông Nội con đang bị ở tù, lúc đó cháu thật sự không biết ở tù là gì hết. 8 năm sau cháu khôn lớn và nghe Cha cháu giải thích cháu mới được tường tận được việc Ông của Cháu bị ở tù là như thế nào? Từ lúc cháu được sinh ra tới năm cháu 14 tuổi cháu mới biết được mặt Ông nội cháu, cháu cảm nhận được ở Ông cháu một ánh mắt hiền từ trong ảnh, một gương mặt luôn suy nghĩ như muốn nói một điều gì mà Ông cháu không nói được. Cháu thầm nghĩ Ông cháu là một người tốt như vậy nhưng tại sao Ông cháu lại phải bị ở tù suốt gần 38 năm, cháu không biết ra sao nhưng đối với Ông cháu những năm tháng ở tù đối với của Ông cháu thật là tàn nhẫn và vô nhân đạo.

Trần Phan Yến Nhi, cháu nội tù nhân thế kỷ Nguyễn Hữu Cầu

Cháu nói về việc tàn nhẫn: Là chính tai cháu nghe Ông cháu kể khi cháu được đi thăm Ông lần đầu tiên vào ngày 04/6/2013, Ông nói luôn bị giam riêng không được tiếp xúc với bất cứ ai, bệnh tình rất nhiều, răng còn một chiếc ăn uống rất khó khăn, đau dạ dày hành hạ suốt, thường là ăn cháo, mắt mù một bên, bên còn lại phải nhờ vào cái kính 20 độ mới thấy được mờ mờ, máu không lên được não thường xỉu lên xỉu xuống, nằm nhiều hơn ngồi. Ông mới gửi thư về cho gia đình cháu, giờ Ông lại mang thêm bệnh gút đau đớn hành hạ Ông suốt nhưng chẳng được đi khám và chữa bệnh. Còn Ông nói nếu cho đi khám chỉ là khám giả và tất cả là khám giả cho có khám mà thôi vv..

Cháu nói về việc vô nhân đạo: Cháu nghe Ông cháu kể Ông mang rất nhiều bệnh tật như thế nhưng họ không cho Ông cháu được đi khám và chữa bệnh. Cô và cha cháu thấy sót nên làm đơn xin cho Ông cháu ra chữa bệnh nhưng lần nào đơn Cô và Cha cháu gửi đi cũng đều vào sọt rác!!!

Gia đình cháu đã làm đơn kêu oan cho Ông từ đời Cụ Cố đến đời Cô và cha rồi lại đến đời cháu, đơn đã gửi đi khắp nơi nhưng vẫn một đi không bao giờ có hồi âm. Trong số kêu oan cho Ông cháu có người đã ra đi mãi mãi, còn người ở lại thì mỏi mòn chờ đợi trong tuyệt vọng.

Năm nào cũng vậy, cháu nghe cha cháu nói những ngày lễ, ngày tết là Ông cháu được thả, cháu hết trông ngày 2/9 – 30/4 – rồi lại tết nguyên đán với hy vọng là Ông cháu sẽ được tự do nhưng rồi cứ thế kéo dài, kéo dài mãi từ đời Cha cho đến đời cháu đã lên đến 38 năm = 13870 ngày, tức hơn 1/3 thế kỉ… thật là kinh khủng.

Hôm nay nhân ngày sinh nhật lần thứ 66 của Ông cháu 30/12/1947 – 30/12/2013 còn 1 ngày nữa là Ông cháu bước sang 67 tuổi rồi mà cả đời Ông gần như ở chốn lao tù. Hôm nay nhân ngày sinh nhật của Ông và cũng là lần sinh nhật đầu tiên. Cháu không có quà gì để tặng cho Ông cháu, nên cháu viết tâm thư này kêu gọi xin được cứu giúp Ông cháu để làm quà tặng quà cho Ông. Bức tâm thư này cháu thành kính đến các quý Tổ Chức Nhân Quyền Thế Giới cùng các Quý Ông/Bà Cộng đồng người Việt ở trong và ngoài nước. Cháu cầu xin Các Quý Tổ Chức Nhân Quyền Thế Giới cùng các Ông/Bà ở trong nước và ở nước ngoài lên tiếng để cứu cho Ông của cháu sớm được thoát khỏi cảnh tù đày, sớm thoát được cái cảnh được đối xử tàn nhẫn và vô nhân đạo suốt 38 năm qua như lời Ông cháu kể khi cháu đi thăm Ông. Cháu rất hy vọng và cầu mong cho Ông cháu được về để hoàn lại họ Nguyễn cho cháu và cho gia đình cháu trở về cội nguồn của mình. Nếu không thì Ông cháu không còn hy vọng sống được và về với cháu vì bệnh tật Ông rất nhiều, tuổi đã cao sức đã kiệt Ông cháu sẽ chết ở trong chốn lao tù. 

Cuối tâm thư cháu xin kính chúc quý Ông/Bà ở các Tổ Chức Nhân Quyền Thế Giới cùng các Quý Ông/Bà cộng đồng người Việt trong nước và ở nước ngoài nhân dịp năm mới An Khang – Thịnh Vượng.

Cháu chào Quý Ông/ Bà

Cháu

Trần Phan Yến Nhi




Sẽ kỷ luật cán bộ chi sai tiền quà Chủ tịch nước tặng dân



05/01/2014 07:49 (GMT + 7)
TT - Chiều 4-1, ông Nguyễn Khắc Xuyên, bí thư xã Đại Hưng (huyện Đại Lộc, Quảng Nam), cho biết những người liên quan đến vụ việc sử dụng sai mục đích tiền quà của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang trao tặng cho dân đều sẽ bị xử lý.

Ông Xuyên cho biết xã cũng đã thu hồi toàn bộ số tiền chi sai mục đích để trả lại đúng những hộ dân có tên trong danh sách được nhận.
Trước đó ngày 15-12-2013, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã về thăm và trao tặng người dân xã Đại Hưng mười con bò (mỗi con trị giá 10 triệu đồng) và 100 suất quà (mỗi suất quà trị giá 900.000 đồng). Tuy nhiên theo nhiều người dân phản ảnh, sau khi nhận quà về, các trưởng thôn đã quyết định giữ lại phần quà của Chủ tịch nước để làm quỹ dùng cho việc chi trả tiền điện thắp sáng công cộng và ngày hội đại đoàn kết của địa phương. Ngoài ra, một số phần quà bằng hiện vật cũng bị thôn mang ra bán.
Ông Xuyên cho hay số quà với 100 suất chia cho nhiều thôn trong xã, nhưng trong đó chỉ có hai thôn vi phạm là thôn An Điềm (13 suất) và thôn Đại Mỹ (4 suất). “Các trưởng thôn báo cáo với tôi rằng những người dân trước đó cũng nhận quà bão lụt nhưng chỉ với 200.000 đồng/suất. Thấy số tiền quà của Chủ tịch nước lớn nên thôn thuyết phục người dân tự nguyện nộp phần dư dôi để làm quỹ. Tôi đã chỉ đạo trả lại toàn bộ số tiền này cho người dân. Ông nào không trả tôi nói chính quyền trừ lương hằng tháng” - ông Xuyên nói. Riêng về mười con bò, ông Xuyên cho biết với số tiền 10 triệu đồng/con thì mua được bò rất nhỏ nên xã đề xuất huyện hỗ trợ thêm để người dân có thể mua được con bò lớn hơn để nuôi. Hiện số tiền mua bò vẫn chưa về đến tay người dân vì đang chờ hỗ trợ thêm.
TẤN VŨ

"Trung úy dỏm" Bộ Công an kiểm tra CSGT



05/01/2014 21:32 (GMT + 7)
TTO - Mạo danh cán bộ cấp trên xuống địa bàn kiểm tra CSGT, khi bị phát hiện, "trung úy dỏm" này đã gọi điện cho người thân đang làm việc cho một tờ báo nhờ "giải vây".



Kết quả, anh ta bị truy tố, còn người thân cũng liên lụy.
Ngày 5-1, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Thủ Đức (TP.HCM) xác nhận đã hoàn tất kết luận điều tra và chuyển toàn bộ hồ sơ sang Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp đề nghị truy tố bị can Lý Văn Lộc (28 tuổi, ngụ xã Lộc Thuận, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước) về hành vi “chống người thi hành công vụ”.
Đồng thời, Công an quận Thủ Đức đã gửi thông báo cho ban biên tập báo Nhà Báo Và Công Luận đề nghị xử lý ông Hồ Minh Sơn, trưởng phòng phóng viên báo Nhà Báo Và Công Luận (tại TP.HCM) vì đã có hành vi liên quan đến vụ việc.
Trước đó lúc 15g ngày 11-9-2013, Lộc mặc cảnh phục lực lượng cảnh sát nhân dân cấp hàm trung úy chạy xe máy đến đoạn quốc lộ 13, khu phố 6, phường Hiệp Bình Phước, quận Thủ Đức thấy tổ CSGT đội Hàng Xanh (thuộc Phòng CSGT đường bộ - đường sắt TP.HCM) đang làm nhiệm vụ. Lộc dừng xe lại và tự xưng là cán bộ làm việc tại C70 (Cơ quan Ủy ban kiểm tra Đảng ủy của Tổng cục Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội), Tổng cục 7, Bộ Công an xuống kiểm tra, gây cản trở việc thi hành nhiệm vụ của tổ công tác.
Do có dấu hiệu nghi vấn nên tổ công tác đã đưa Lộc về trụ sở làm việc.
Ngay khi bị tổ cảnh sát giao thông phát hiện Lộc giả danh lực lượng cảnh sát nhân dân, Lộc đã điện thoại cho ông Hồ Minh Sơn (bác họ của Lộc, 41 tuổi, ngụ tỉnh Đồng Nai) nhờ ông can thiệp để “giải vây” cho Lộc không bị tổ cảnh sát giao thông đưa về trụ sở Công an phường Hiệp Bình Phước làm việc.
Lộc nói với Sơn là phát hiện cảnh sát giao thông làm nhiệm vụ không đeo bảng tên và “mãi lộ”. Ông Sơn đã kêu hai phóng viên H.V.H và N.T.T của báo Nhà Báo Và Công Luậnxuống nơi Lộc bị CSGT giữ để lấy thông tin. H. và T. đến trụ sở Đội CSGT Hàng Xanh để lấy thông tin.
Tại cơ quan điều tra, Lộc khai nhận bộ đồng phục cảnh sát nhân dân Lộc mặc khi phạm tội do ông Sơn xin cho. Tuy nhiên trả lời cơ quan điều tra, ông Sơn không thừa nhận việc cho Lộc đồng phục cảnh sát, chỉ thừa nhận cho Lộc đôi giày và mũ bảo hiểm của ngành công an.
Theo cơ quan điều tra, H. và T. không biết việc Lộc giả mạo cảnh sát nên không đề xuất xử lý. Ngoài ra, cơ quan điều tra xét thấy hành vi của ông Sơn chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự nên đã gửi thông báo cho ban biên tập báo Nhà Báo Và Công Luận xử lý.
ĐỨC THANH

Các bà mẹ đã mang bầu, muốn sinh con trai: Dễ thôi! Chỉ cần 3,5 triệu đồng???



Chủ nhật, 2014-01-05 21:55:01 - Nguồn: Internet
Các bà mẹ đã mang bầu, muốn sinh con trai: Dễ thôi! Chỉ cần 3,5 triệu đồng??? Qua tìm hiểu chúng tôi được biết, gia đình ông Bằng có truyền thống làm nghề y, bố đẻ ông Bằng là cụ Lang Ổn nổi tiếng với những bài thuốc an thai, dưỡng thai. ...Tags: tin mới, tin tức, tin trong ngày, công an, tinh trùng, Pháp luật, tin hot
Do tâm lý khát con trai và thiếu hiểu biết, từ nhiều năm nay, nhiều cặp vợ chồng đã lặn lội từ các tỉnh thành như Thái Nguyên, Thái Bình, Vĩnh Phúc, Hà Nội… tìm đến nhà ông Nguyễn Trọng Bằng, xã Thọ Vinh, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên nhờ ông bốc thuốc, những mong sẽ sinh được một cậu con trai nối dõi tông đường. Chỉ với 6 thang thuốc và một túi đeo giữ vía, người mua phải bỏ ra 3,5 triệu đồng.
Các bà mẹ đã mang bầu, muốn sinh con trai: Dễ thôi! Chỉ cần 3,5 triệu đồng???
Bài thuốc 3,5 – 4 triệu đồng và túi vía bảo vệ thai
Một ngày đầu đông, chúng tôi tìm đến nhà ông Nguyễn Trọng Bằng. Đến đầu xã hỏi ông Bằng ai cũng biết. Ghé vào quán nước đầu làng, hỏi thăm bà bán nước thì được trả lời ngay: Cô đến nhờ ông ấy cắt thuốc sinh con trai phải không? 10 người đến đây thì cả mười người muốn nhờ ông ấy bốc thuốc sinh con trai. Mỗi ngày nhà ông ấy thu mấy chục triệu ấy chứ. Nhưng ông ấy “chảnh” lắm, ai hỏi nhiều ông ấy đuổi về ngay, không bốc thuốc cho đâu. Nếu vào cô cứ vào bảo cháu có hai con gái rồi, giờ đã chậm kinh, muốn nhờ bác bốc thuốc là tự ông ấy hiểu. Đừng nói là muốn sinh con trai là ông ấy đuổi về ngay.
Nhà ông lang Bằng nằm sâu trong một con ngõ nhỏ sát chân đê. Không biết ông có được cấp phép không nhưng tôi thấy có treo biển hiệu đàng hoàng, liệt kê hàng loạt các bệnh mà ông Bằng có khả năng chữa được. Vừa bước vào nhà chúng tôi đã gặp một người đàn ông trên 60 tuổi đang bắt mạch cho một cặp vợ chồng, đoán là ông lang Bằng. Bên ngoài còn có mấy cặp vợ chồng khác cũng đang nóng ruột chờ đến lượt. Nhìn thấy tôi, ông hỏi: Cô đến đây có việc gì. Tôi nói muốn nhờ bác bốc thuốc. Ông bảo ngồi chờ. Sau hơn 1 tiếng ngồi chờ, tôi thấy ông Bằng bắt mạch kê thuốc cho nhiều người. Qua quá trình bốc thuốc dặn dò bệnh nhân tôi hiểu được phương pháp chữa bệnh của ông Bằng là cho những người đã có thai uống thuốc để sinh con theo ý muốn. Theo giải thích của ông lang này thì khi bắt đầu có thai khoảng 10 ngày, que thử báo có thai có nghĩa là lúc đó chỉ báo nội tiết tố để nuôi thai chứ không phải tinh trùng đã gặp trứng vì thế lúc đó giới tính thai chưa được quyết định. Uống thuốc của ông giúp điều chỉnh môi trường tạo môi trường thuận lợi để  sinh con được theo ý muốn. 
Để tăng tính thuyết phục ông lấy quyển sổ cho các bệnh nhân xem. Đó là một cuốn sổ ghi tên những cặp vợ chồng đã uống thuốc và sinh được con trai từ nhiều năm nay, có cả số điện thoại. Trong số đó có khá nhiều người ở khác tỉnh khác đến như Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hải Dương, Hà Nội… Ông cũng giải thích thêm: Khi uống thuốc thai nhi không còn là tạo hóa tự nhiên nữa mà do con người “lái” nên thai yếu, không khỏe như thai bình thường. Nhưng vấn đề đó cũng không có gì phải lo lắng cả vì thai yếu sẽ có cách giữ cho nó khỏe, chỉ cần mỗi người đeo thêm một cái túi bảo vệ thai và giữ vía cho thai là ổn. Cái túi vía này  có tác dụng ngăn sóng vô tuyến, sóng điện thoại, tia cực tím, tia hồng ngoại, tia laser. Túi phải đeo ở cạp quần bên trái, cả lúc thức, ngủ, trừ khi tắm. Nếu không đeo túi này những tia kể trên sẽ xuyên qua thành bụng ảnh hưởng tới thai làm thai nhũn não, đứa trẻ đẻ ra bị khuyết tật, dị dạng, sứt môi, lồi rốn, khoèo chân, khoèo tay, không khôn ngoan, ai ái, đơ đơ! Lúc đó tôi không chịu trách nhiệm. 
Thấy ông còn dặn một bệnh nhân: “Cô chỉ phải uống duy nhất một lần, không phải đến lấy nhiều lần như những người khác. Giá 6 thang thuốc và túi đeo là 3,5 triệu đồng. Cô đồng ý thì tôi cắt cho cô. Nhưng tôi nói trước là nếu cô không tuân thủ đúng theo hướng dẫn của tôi, tôi không chịu trách nhiệm đâu đấy. Thuốc gì cũng có sai số 10-20%, đặc biệt với những người yếu đường tiêu hóa khiến thuốc khó hấp thu… Sau khi sinh con thì cô mang cái túi đeo này trả lại tôi, tôi sẽ cho thuốc cô uống để em bé được khỏe mạnh, bụ bẫm”. 
Cuối cùng thì cũng đến lượt tôi, tôi bảo đang có ý định sinh con muốn sinh con trai xin ông cắt cho vài thang thuốc. Ông bảo, ông chỉ cho những trường hợp đã thụ thai uống thuốc chứ không cắt thuốc cho những người chưa có thai. Khi nào có thai thì đến đây ông bốc cho… Cứ chậm kinh khoảng 10 ngày là được, muộn hơn là không được đâu đấy!
Phản khoa học, có thể gây ra đột biến genee
Mang câu chuyện, thầy lang Bằng có khả năng chuyển đổi giới tính thai nhi sau khi người phụ nữ đã mang thai, TS Lê Vương Văn Vệ, Giám đốc Bệnh viện Nam học và Hiếm muộn Hà Nội khẳng định không có cơ sở khoa học. Bác sĩ nói: Từ muôn đời nay khoa học đã khẳng định trứng người phụ nữ mang nhiễm sắc thể X, tinh trùng của người đàn ông mang nhiễm sắc thể X và Y. Nếu tinh trùng X kết hợp với trứng thì thành con gái và tinh trùng Y kết hợp với trứng sẽ cho con trai. Trứng sau khi rụng sẽ tồn tại được từ 12-24 giờ. Tinh trùng có thể sống trong tử cung đến 7 ngày. Khi tinh trùng gặp trứng sẽ thụ thai. Vậy khi người phụ nữ mất kinh được 10 ngày thì thai đã được 4-5 tuần. Lúc này không thể thay đổi giới tính thai nhi được nữa. Còn nếu có sự tác động sẽ gây ra sự đột biến gene sẽ làm hỏng thai. 
Theo Đông y, điều này cũng không thể xảy ra. Lương y Vũ Quốc Trung cho biết: Theo Tây y, quyết định con trai hay gái là phụ thuộc vào tinh trùng của người chồng. Tinh trùng X sẽ cho con gái, còn tinh trùng Y sẽ cho con trai. Theo Đông Y, có quan niệm âm dương. Nếu vợ chồng ăn uống, sinh hoạt mang tính dương thì sẽ có khả năng sinh con trai. Còn nếu ăn uống mang tính âm thì sẽ có khả năng sinh con gái. Trên thực tế, Trung Quốc đứng đầu về Đông y nhưng cũng không có bài thuốc nào có thể khẳng định là chuyển đổi giới tính thai nhi từ sang con trai. Bằng chứng là nhiều cặp vợ chồng ở Trung Quốc muốn sinh con trai nhưng vẫn chỉ sinh được con gái. 
Thực tế trong những người đến uống thuốc của ông Bằng cũng đã có người sinh được con trai khỏe mạnh theo ý muốn. Và những người sinh được con trai đều đến trả lại túi vía và ghi lại tên số điện thoại vào sổ của ông. Vấn đề nằm ở xác suất. Như vậy thì 1.000 người có tên trong quyển sổ của ông là 1.000 người đã sinh con trai ngẫu nhiên. Còn những người lấy thuốc của ông nhưng sinh con không được như ý thường không bao giờ quay lại cảm ơn và “hậu tạ”. Chị Nguyễn Thu Nga, thành phố Bắc Ninh là một ví dụ. Chị cho biết sau khi đã có 2 con gái, chị nghe người quen mách có ông Bằng ở Hưng Yên có bài thuốc sinh con trai, chị liền tìm đến. Dù đã thực hiện đúng như lời ông căn dặn nhưng kết quả chị vẫn mang bầu con gái. Chị nghĩ con nào cũng là con, mình không có con trai là số Trời định rồi, không thể thay đổi được. “Tôi cũng đã nghĩ đến việc đến bắt đền ông ấy. Nhưng ông ấy đã  nói xác suất chỉ 80-90%. Vậy có thể tôi nằm trong số 10-20% còn lại. Như vậy cũng chả làm gì ông ấy được”.
Các bà mẹ đã mang bầu, muốn sinh con trai: Dễ thôi! Chỉ cần 3,5 triệu đồng???
Qua tìm hiểu chúng tôi được biết, gia đình ông Bằng có truyền thống làm nghề y, bố đẻ ông Bằng là cụ Lang Ổn nổi tiếng với những bài thuốc an thai, dưỡng thai. Ông Bằng là con thứ 3 trong nhà. Sau khi đi bộ đội về, ông Bằng về nhà làm ruộng và theo học nghề thuốc của cha. Những năm gần đây, nhà ông Bằng nườm nượp khách đến nhưng không phải chỉ có an thai dưỡng thai mà là để thuốc sinh con theo ý muốn.
Gặp một số người ở xã Thọ Vinh hỏi chuyện ông Bằng, mọi người cũng cho biết đã từ nhiều năm nay rất nhiều người tìm đến nhà ông Bằng, hầu hết là ở các tỉnh xa. Còn người dân quanh vùng thì lại rất ít người đến cắt thuốc ông Bằng, có thể vì “bụt chủ nhà không thiêng”. Chị Nguyễn Thị Hương, bán hàng ở chợ Thọ Vinh cho biết: Những người ở xa vì thiếu hiểu biết và trong số đó có nhiều người ngẫu nhiên đẻ được con trai nên cứ mê muội cho rằng “thầy” Bằng có biệt tài giúp chị em sinh được con trai theo ý muốn. Mới đây thanh tra Sở Y tế Hưng Yên đã xử phạt và yêu cầu ông Bằng ngừng hoạt động. Nhưng chỉ sau một thời gian, vị lang lừa này vẫn lén lút bán thuốc vì còn không ít người vì muốn có con trai vẫn tìm đến. Mỗi khi bị “đánh động”, ông Bằng lại ngừng cắt thuốc sinh con trai một thời gian, chỉ cắt thuốc an thai, dưỡng thai. Đến khi tình hình im ắng trở lại mới tiếp tục cắt thuốc sinh con theo ý muốn. Tuy nhiên hiện nay, ông bắt đầu “cảnh giác” và “chảnh”. Nếu ai đến nói muốn cắt thuốc sinh con trai là ông đuổi về ngay. Lúc nào ông cũng nói: Tôi làm phúc chứ không cần tiền. 
Nhưng vẫn có rất nhiều người vẫn tìm đến nhà ông Bằng để được uống thuốc sinh con trai và thực tế ông vẫn thu tiền. Trước cửa nhà ông Bằng có treo bảng hiệu, song không biết có được cấp phép hay không? Thời điểm được cấp phép là thời gian nào? Hoặc có được cấp phép nhưng ông Bằng có thực hiện chữa bệnh đúng theo giấy phép hay không? Điều này rất cần cơ quan y tế của tỉnh Hưng Yên sớm vào cuộc.
Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế có hiệu lực từ ngày 31-12-2013 quy định rõ những người bắt mạch, siêu âm,…cho người đang mang thai để xác định giới tính thai nhi, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác sẽ bị phạt 5 – 10 triệu đồng. Bói toán cho người mang thai xác định giới tính thai nhi cũng bị phạt từ 3 – 5 triệu đồng.
Theo ANTD

Vấn đề sở hữu đất tại Việt Nam và cưỡng chiếm đất



118
Trong thời gian qua đã có liên tục nhiều tin tức về việc dân oan mất đất biểu tình ở Hà Nội, ở SàiGòn đòi công lý, đòi ruộng đất (Diễn Đàn Việt Nam 21 đã loan tin trong mục Nhân quyền). Đây là một trong những vấn đề nhức nhối của nước Việt Nam đầu thế kỷ 21, một vấn đề lẽ ra không còn được phép tồn tại, nhưng ai quan tâm đến thời sự luôn bắt gặp hình ảnh những đoàn dân oan kéo nhau đi đòi quyền lợi bị đánh cắp.
Đảng CS độc quyền cai trị bỏ mặc cho nông dân bị cướp đất, đẩy họ ra đường sống chết mặc bây, đất nông dân bị chiếm rồi quy hoạch thành khu kinh tế này, khu du lịch nọ, dự án nhà ở cao cấp kia, và cả những cánh đồng golf để các quan chức đại gia đi đánh golf trước khi đi tắm bùn v.v. …
Theo thời gian Việt Nam càng ngày càng có rất nhiều quan chức và đại gia tỷ phú với dinh thự nguy nga mà người dân liệt họ vào các “nhóm lợi ích” trong khi con số dân oan mất đất nguời cày mất ruộng không giảm mà tăng. Các “phòng tiếp dân” cũng được dựng lên nhan nhản như một sân khấu bi hài kịch, nơi dân oan chỉ được tụ tập kêu gào khiếu nại chốc lát ở ngoài cửa, còn quan chức vẫn tiếp tục bưng mắt! Chính vì thế mà “Tâm lý thù ghét người giàu và giới quan chức cai trị ngày càng ăn sâu vào não trạng của lớp nông dân mất đất, bị nghèo hóa và bị đẩy vào cảnh bần cùng” như nhà bỏ đảng Phạm Chí Dũng nhận định.
Dưới đây, chúng tôi xin giới thiệu bản dịch tiếng Việt bài của Vũ Quốc Ngữ (Hà Nội) trình bày những sự kiện tiêu biểu về tình trạng cưỡng chiếm đất đai ở Việt Nam ngày nay, nguyên bản Anh ngữ là bài tham luận tại Diễn đàn Nhân quyền Thế giới kỳ 5 (*) tại Pháp vào tháng 5/2013. Hình ảnh do DĐVN21 thêm vào mà trong nguyên bản không có.
Diễn Đàn Việt Nam 21
—-
Nhà của tôi cũng là lâu đài của tôi. Tại các nước chấp nhận và tôn trọng nền pháp trị thì bất kể người đó là nhân viên chính quyền hay không, nếu ai làm chủ một bất động sản, người đó có quyền làm chủ và trọn quyền tùy tiện sử dụng mảnh đất đó cho bất cứ một mục đích nào.
Tuy nhiên, ở Việt Nam tình trạng hoàn toàn khác hẳn. Trong một nước cộng sản tất cả đất đai đều thuộc về nhà nước, và người dân chỉ được thuê sử dụng có hạn kỳ để canh tác ở cấp hộ. Khi kế hoạch của một quan chức cho khu đất đó thay đổi thì yêu cầu của người công dân về quyền sử dụng mảnh đất ấy có thể trở thành vô nghĩa trong khoảnh khắc.
Sở hữu đất đai ở Việt Nam
Việt Nam trở thành quốc gia độc lập vào năm 1945 sau khi nhân dân nổi dậy chống lại sự chiếm đóng hai tròng của Pháp-Nhật. Là một quốc gia mới thành lập VN phải lao vào trận chiến chống Pháp để giành độc lập, cuộc chiến kết liễu năm 1954 với sự chia đôi đất nước. Miền Bắc dưới sự cai trị của cộng sản có Trung quốc hậu thuẫn trong khi miền Nam theo chế độ cộng hòa và theo Tây phương.
Ðất nước được thống nhất năm 1975 sau khi cộng sản ở miền Bắc dưới sự hổ trợ kinh tế và quân sự của Liên xô và Trung quốc đánh chiếm Việt Nam Cộng Hòa được Hoa Kỳ và các nước đồng minh viện trợ.
Trở về năm 1946, Việt Nam tổ chức tổng tuyển cử đầu tiên và bầu ra một quốc hội đa đảng. Vài tháng sau đó, quốc hội cho ra đời bản hiến pháp đầu tiên của đất nước mà trong đó không đề cập gì đến vấn đề sở hữu đất đai.
Sau khi nắm quyền ở miền Bắc, người cộng sản dựng lên nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và đưa ra một hiến pháp mới gọi là Hiến Pháp 1960 khẳng định tất cả đất vô chủ đều thuộc về nhà nước.
Từ khi thống nhất năm 1975 Việt Nam đã thay đổi hiến pháp hai lần. Bản Hiến Pháp 1980 và bản Hiến Pháp sửa đổi năm 1992 thay đổi sâu rộng quyền sở hữu ruộng đất – trao tất cả đất đai ở Việt Nam vào tay nhà nước và chỉ cho nhân dân quyền sử dụng đất.
Trong bản dự thảo hiến pháp đang thảo luận và dự kiến thông qua vào cuối năm 2013 chính quyền cộng sản cố giữ nguyên quyền sở hữu đất đai như hiến pháp 1992 đã quy định.
Theo luật đất đai hiện nay chính quyền có thể chiếm thu đất để dùng cho các mục tiêu quốc phòng và an ninh quốc gia cũng như để phát triển kinh tế xã hội. Ðiều này cho phép nhà cầm quyền ở nhiều tỉnh và thành phố đuổi dân ra khỏi đất họ đang canh tác hoặc ở và giao khu đất đươc giải tỏa cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước để thực hiện các dự án gọi là phát triển ở địa phương.
Tịch thu đất ở Việt Nam ngày nay
Chiến dịch cưỡng chiếm đất lớn nhất xảy ra trong những năm 1954-56 sau khi CSVN nắm chính quyền ở Miền Bắc và thành lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
Cộng sản VN thực hiện chính sách cải cách ruộng đất để khuyến khích người nghèo ủng hộ chế độ xã hội chủ nghĩa của họ và chuẩn bị cuộc xâm chiếm miền Nam. Duới sự giám thị của cố vấn Trung quốc CSVN đã mở một chiến dịch đấu tố tàn bạo, tịch thu ruộng đất của địa chủ để phân chia cho dân làng nghèo. Nhiều phú hào bị buộc tội đã bóc lột nông dân trong làng và làm Việt gian cho Pháp. Hằng chục ngàn người bị kết án và xử tử trong khi những người khác bị đánh đập tàn bạo. Tất cả tài sản của họ, kể cả ruộng đất, bị tịch thu và giao cho nông dân qua các vụ xử án dàn dựng bởi cán bộ nhà nước chưa từng đươc đào tạo gì về các cơ cấu pháp luật. Trong các vụ đấu tố, nhiều địa chủ từng làm ăn chăm chỉ đã bị thân nhân họ vu cáo với sự xúi dục của người CS, để được đền bù bằng một vài thưởng vật nhỏ như mấy thửa đất nhỏ hoăc dụng cụ trong nhà.
Sau đó CS Bắc Việt thừa nhận sai lầm và ngưng chính sách cải cách điền địa cũng như có biện pháp sửa sai. Tuy nhiên, nhiều đia chủ Việt Nam đã không tìm được sự công bằng cho cái chết của họ. Chỉ một số ít bị kết án nhẹ.
Trong những năm 1960 và 70 ở miền Bắc Việt Nam và ở cả miền Nam sau khi CS chiếm miền Nam thống nhất đất nước, VN thành lập các hợp tác xã nông nghiệp và buộc tất cả nông dân phải giao ruộng đất của mình cho vào hợp tác xã nhà nước. Nông dân chỉ đươc giữ một phần nhỏ đất của họ (5%) để canh tác riêng , tự trồng lúa và rau cải.
Mô hình canh tác theo hợp tác xã đã chứng tỏ không có hiệu năng, đưa đến tình trang thiếu thực phẩm trầm trọng và phải lệ thuộc vào viện trợ thực phẩm của nhiều nước, nhất là từ các nước trong khối xã hội chủ nghĩa thuộc Liên xô và từ các nước Ðông Âu trước đây.
Ðến những năm giữa thập niên 1980, CSVN nhận thấy mô hình canh tác hợp tác xã không kết quả nên bỏ đi và phân chia đất cho từng nông dân. Nhưng đất đai vẫn thuộc về nhà nước trong khi nông dân chỉ được quyền canh tác trong một thời gian nhất định (tối đa đến 30 năm).
Việc chiếm hữu đất đai bởi cấp dưới của nhà nước địa phương ở các tỉnh và thành phố bắt đầu xảy ra sau năm 1986 khi VN thi hành chính sách gọi là „Ðổi mới“. Trong tiến trình thành thị hóa và kỹ nghệ hóa đã có nhu cầu lớn về đất đai để thực hiện các dự án kỹ nghệ, bất động sản và giải trí ở các địa phương. Kể từ đó, chính quyền địa phương ở khắp nơi đã chiếm lấy nhiều khu đất canh tác lớn của nông dân cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước để thực hiện các dự án.
Việc chiếm đất đã xảy ra từ Nam ra Trung , ngoài Bắc kể cả tại thủ đô Hà Nội.
Ðể chiếm đất chính quyền địa phương bắt ép nông dân phải giao đất cho họ với giá thật thấp so với giá thị trường và giá bán đất (thật ra quyền xử dụng đất) cho những nhà buôn bán bất động sản thì cao hơn rất nhiều. Lẽ dĩ nhiên, phần lớn lợi nhuận chạy vào túi của các quan chức tham nhũng chứ không vào công quỹ ở địa phương.
Trong vài truờng hợp, nông dân bị cưỡng bách bán đất với giá thật rẻ cho đồ án phát triển thật sự. Sau đó họ phải trả giá gấp trăm lần cao hơn cho một căn hộ được xây ngay trên chính đất của họ trước đây.
Khi chính quyền địa phương thấy chuyện chiếm và bán đất của nông dân cho các nhà khai thác là nguồn lợi thì những nông dân này không có cách gì để từ chối, ngay cả trong trường hợp mảnh đất đó đã là nhà ở qua nhiều đời, nơi đó có mồ mả ông cha và là nguồn sống của họ. Bởi vì trong một nhà nước độc đảng, giới lãnh đạo địa phương nắm cả ba quyền – hành pháp, lập pháp và tư pháp.
Chiếm đất của giáo xứ Cồn Dầu ở trung tâm thành phố Ðà Nẳng
Giáo xứ Cồn Dầu thuộc phường Hoà Xuân, quận Cẩm Lệ đã có 135 năm lịch sử, những người dân cư ngụ ở đó là giáo dân Công giáo.
Năm 2010, Ủy ban Nhân dân ở Ðà Nẵng quyết định lấy 440 mẫu đất thuộc giáo xứ Cồn Dầu để làm trung tâm du lịch sinh thái Hòa Xuân. Nhiều ngôi nhà của giáo xứ Cồn Dầu và nghĩa trang địa phương nằm trong khu vực dành cho dự án trung tâm nghỉ mát này.
Bất kể sự phản đối mạnh mẽ của những dân cư trong giáo xứ, chính quyền địa phương bắt phải giải tỏa nghĩa trang đi nơi khác cũng như ra lệnh nhiều ngườì dân ở đó phải dọn ra khỏi khu vực của dự án.
Tiền bồi thường đất bị chiếm chỉ bằng một phần 30 của giá một biệt thự trong khu vực nghỉ mát.
24
Dân chúng Cồn Dầu không muốn giải tán nghĩa trang của họ. Ngày 4 tháng 5 năm 2010 công an cấm không cho dân địa phương an táng bà Maria Ðặng thị Tân tại nghĩa trang của xứ đạo. Một cuộc xô sát giữa nhân viên cảnh sát và dân chúng Cồn Dầu đã xảy ra. Sau sự cố này, cảnh sát đã bắt giữ hằng chục người dân Cồn Dầu, buộc tội họ đã có hành động chống lại chính quyền địa phương. 6 người ở Cồn Dầu bị giam giữ trong khi một số người khác bị tra tấn trong thời gian bị bắt giữ.
Sau đám táng bà Tân một người của ban trợ tang ở Cồn Dầu đã bị đánh đến chết.Trên 70 người dân Cồn Dầu đã chạy sang Thái Lan xin tị nạn, 14 người trong số người này được phép sang định cư ở Hoa Kỳ.
Những người đã dọn đi chỗ khác được chính quyền địa phương bồi thường một số tiền nhỏ không đủ để mua đất và vật dụng cất nhà nơi chỗ mới.
Mới đây, chính quyền thành phố Ðà Nẳng thông báo sẽ cho dời tất cả mồ mả khỏi nghĩa trang Cồn Dầu vào ngày 10 tháng 4.
Một trường hợp chiếm đất khác xảy ra ở Ðà nẳng đã khiến cho một người dân địa phương tự thiêu để phản đối chính quyền của thành phố. Vào ngày 17.02.2011, kỹ sư Phạm Thanh Sơn 31 tuổi tẩm xăng tự thiêu trước một tòa nhà hành chánh địa phương. Không ai can thiệp và ông Sơn đã tử nạn. Ông này đã phải chịu một quyết định bất công của thành phố Ðà Nẳng vì họ đã chiếm đất của ông ấy mà không đền bù tương xứng. Trước khi tự thiêu ông Sơn đã gửi nhiều đơn khiếu nại đến các cơ quan của thành phố, phản đối việc chiếm đất của ông.
Sự cố này bị bỏ quên sau đó vì giới truyền thông tại chỗ bị địa phương kiểm soát chặt chẽ và trình bày vụ tự thiêu như một tai nạn. Các thân nhân của gia đình ông Sơn đã bị canh chừng một thời gian dài sau khi ông Sơn được an táng.
Chiếm đất dân thiểu số ở cao nguyên miền Trung và miền núi phía bắc
Việt Nam có 54 nhóm sắc tộc. Người Kinh hay Việt chiếm trên 95 % của tổng số 90 triệu dân. Phần lớn các dân sắc tộc sống ở các vùng núi miền bắc và trung VN.
Bằng cách làm ăn có lợi kinh tế và xã hội, nhiều người Kinh, đặc biệt là giới cán bộ đã chiếm đất đai của người sắc tộc, lấy mất phương tiện cơ bản để sản xuất thực phẩm của họ. Mất đất sống người sắc tộc còn bị người Kinh hiếp đáp, nhiều dân sắc tộc ở cao nguyên miền Trung (1985) và người Hmong ở phía Tây-Bắc của tỉnh Ðiện Biên (2011) đã phản kháng chính quyền ở địa phương. Tuy nhiên, sự chống đối của ho bị lực lượng cảnh sát đặc biệt đàn áp thô bạo. Họ được võ trang nặng nề, trong một vài truờng hơp có cả chiến xa và phi cơ trực thăng.
Cưỡng chế đất ở phía Bắc cảng Hải Phòng
Tháng giêng năm 2012, sau nhiều lần khiếu kiện và đệ trình lên các cơ quan trọng tài để bảo vệ quyền của mình nhung không thấy có trả lời, nông dân Ðoàn Văn Vươn phối hợp một vụ chống đối bằng võ lực. Ông đặt bom tự chế trên khoảnh đất rộng 40,3 mẫu tây ở quận Tiên Lãng thuộc thành phố Hải Phòng. Ông tiến hành biện pháp này để nhằm đẩy lùi 100 công an và quân đội do chính quyền địa phương gửi tới xâm nhập vào khu đất của ông và đẩy ông và gia đình ông ra khỏi khu đất nói trên.
Tốt nghiệp ngành kỹ sư, khi đến Cống Rọc, ông Vuơn được phép thuê một mảnh đất nhỏ ở nơi đó. Về sau, ông ta mở rộng nông trại của ông và biến một vùng đất bỏ hoang thành các ao nuôi tôm và nuôi cá.
Vươn bắt đầu đấp bờ đê, các hệ thống điều hòa mực nước và ao hồ cần thiết để nuôi cá và tôm. Không ai nghĩ Vươn và gia đình ông sẽ thành công. Nhưng sau nhiều năm nổ lực và thí nghiệm nông trại nuôi cá trở nên có mang lời. Những người đi tiên phong khác cũng bắt chườc ông Vươn. Năm 2004, có chừng 20 gia đình ở Tiên Lãng phát triển ngành làm trại nuôi cá có diện tích chừng 250 mẫu tây đất bỏ hoang vô giá trị trước đây. Vươn còn khai thác thêm 11 mẫu tây mặt biển, nâng cao tổng số diện tích ao hồ thuộc công ty gia đình ông lên 40 mẫu tây tất cả.
Năm 1997, ông được chính quyền quận Tiên Lãng cho phép sử dụng đất trong 14 năm.
Vài năm sau đó, VN có chương trình xây phi trường quốc tế ở Tiên Lãng để thay thế phi trường Nội Bài. Phi trường nầy chiếm một diện tích rộng lớn bao gồm cả nông trại nuôi cá của ông Vươn và các nông dân láng giềng. Chính quyền địa phương muốn thu hồi giấy phép canh tác của ông Vươn cũng như của những người cùng cảnh ngộ để lấy bồi thường cao của nhà nuớc khi bắt đầu thực hiện xây phi trường quốc tế.
Năm 2005, những người nuôi cá nhận hung tin từ chính quyền sở tại, theo đó đất đang thuê sẽ bị thu hồi khi hết hạn. Hơn thế nữa, các tân trang và cải tiến thêm trong thời gian qua sẽ không được đền bù.
Như đã nói ở trên, toàn thể đất đai ở CHXHCNVN thuộc về nhà nước. Tuy nhiên, kể từ 1993 cá nhân và công ty được cho quyền sử dụng đất. Cho đa số nông dân, có nghĩa là họ được phân chia một mảnh đất thuộc đất của hơp tác xã.để canh tác trong 20 năm.
Vì lý do gì cũng chưa rõ, Vươn chỉ được thuê đất 14 năm kể từ năm 1993. Ông được lịnh phải dọn đi vào năm 2007.
Vươn và các nông dân nuôi cá nói rằng theo thói thường ở nhà quê họ vẫn tin là đất họ thuê và canh tác cho tốt hơn sẽ được tự đông gia hạn. Hơn thế nữa, cũng như tất cả nông dân VN đều mong đợi khi chính quyền thu hồi đất để sử dụng cho mục đích công cộng thì nông dân phải được đền bồi thỏa đáng công lao của họ đã làm tốt hơn lên.
Hiểu như vậy nên những nông dân nuôi cá đã chống đối sau khi đòi hỏi của họ không dược giải quyết. Chính quyền quận sở tại vẫn không nhúc nhích. Tòa án quận vẫn giữ nguyên lệnh phải dọn đi. Các nông dân nuôi cá kháng kiện lên tòa án cao hơn của Hải Phòng.
Phán quyết của tòa được đồng ý, chính quyền sở tại và Vươn đã ký kết ngay trong toà án. Theo thỏa thuận này,Vươn rút lại đơn tố cáo và chính quyền sở tại sẽ tiếp tục cho thuê sở đất đang tranh cãi. Ngay sau khi đơn cáo kiện được rút đi, chính quyền địa phương đã tiến hành đuổi Vươn khỏi mảnh đất của mình mà không có bồi thường nào.
31
Ngày 5 tháng giêng 2012 nhà cầm quyền địa phương ở Tiên Lãng đã cho hằng trăm cảnh sát đặc biệt và đơn vị thuộc quân đội tới đuổi Vươn và gia đình ra khỏi đất của Vươn. Các nhân viên gặp sự kháng cự quyết liệt, kết quả là 4 cảnh sát và hai quân nhân bị thương tích phải được điều trị ở bệnh viện.
Vươn và người em bị bắt giam vì tội dùng võ khí chống lại cán bộ nhà nước. Nhà của ông bị chính quyền đập phá vài ngày sau đó, trong khi cá trong ao bị bọn côn đồ vớt đi hết dưới sự đồng tình của nhà nước ở địa phương.
Cách thức nhà nước Hải Phòng xử lý Vươn phản ảnh sự thiếu tôn trọng và khinh thường ra mặt những người nông dân địa phương cũng như tài sản của họ. Nhà cầm quyền CS ở địa phương coi thường sự tranh đấu kiên trì của Vươn để giữ đất của mình mà Vươn đã canh tác thành công như vậy. Thay vì xem cơ sở nuôi cá của Vươn như một tấm gương của sự làm việc chăm chỉ cần cù có thể đem lại cho cộng đồng, nhà cầm quyền VN lại xem nông trại của Vươn là một cách để kiếm nhiều tiền, có triển vọng cho „các dự án phát triển mới“.
Mặc dù thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố lệnh xua đuổi chiếm đất là một hành động bất hợp pháp, Vươn và em ông đã bị giam giữ từ tháng giêng 2012 và bị giam cho đến khi ra tòa ngày 4-5 tháng 4 năm 2013. Mặc dù không làm điều gì trái đạo đức và luật pháp ngoài việc tự vệ cho chính mình, cả hai đã bị kết án 5 năm tù về tội cố sát và chống lại lực lượng thi hành công vụ.
Chiếm đất ở Văn Giang tỉnh Hưng Yên để làm dự án đô thị sinh thái Ecopark
Năm 2004 chính quyền tỉnh Hưng yên phía bắc cấp giấy phép cho một công ty tư để phát triển dự án đô thị sinh thái Ecopark gồm 20000 đơn vị nằm trên 500 mẫu tây ở Xuân Quan, quận Văn Giang, nằm chừng khoảng 30 cây số cách thủ đô Hà Nội.
Ðể lấy chỗ cho dự án Ecopark 3900 gia đình nông dân, cư dân của tất cả 3 làng được thuyết phục nên rời bỏ đất đai mầu mỡ của họ và dọn đi nơi nào khác.
Chỗ đất dành cho dự án bị tịch thu qua 2 đợt năm 2009 và 2012, nhưng chừng 2000 hộ từ chối không chịu nhận tiền bồi thường của chính phủ cho 5,8 mẫu tây, nói rằng số tiền này quá thấp so với giá trị ở thị trường lúc đó.
Nông dân tổ chức các vụ phản kháng nhiều lần ở Hà Nội, đòi bồi thường cao hơn cho đất đai của họ hoặc là bãi bỏ dự án trên.
42
Ngày 24 tháng 4 năm 2012 chính quyền tỉnh Hưng Yên đã cho 3 ngàn cảnh sát có võ trang tới xua đuổi dân làng Xuân Quan khỏi đất của họ. Lực lượng cảnh sát dùng lựu đạn cay tấn công dân làng, đánh đập nhiều người trọng thương và bắt giữ hàng chục người. Trong số những người bị bắt có cả hai phóng viên của đài Tiếng nói VN đến tường thuật việc đuổi đất theo chiều hướng có lợi cho nhà cầm quyền địa phương.
Theo nguồn tin không chính thức, Nguyễn Thanh Phương, con gái của nguyên thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là người có cổ phần trong đồ án Ecopark.
Chiếm đất ở quận Hà Ðông thuộc Hà Nội: xã Dương Nội ở quận Hà Ðông
Năm 2010 thành phố Hà Nội quyết định phát triển vùng thành phố mới Lê Trọng Tấn và thành phố phải đuổi 337 gia đình khỏi miếng đất rộng 21,5 mẫu tây. Có 155 gia đình đồng ý dọn đi, trong khi 182 gia đình khác từ chối bỏ đất vườn của họ, nói rằng giá mà họ nhận được của chủ thầu thấp hơn giá thị trường rất nhiều.
Ðể dọn trống khu đất cho dự án xây dựng, chính quyền quận Hà Ðông đã cho dẹp nghĩa trang, dời mồ mả ra ngoài phạm vi dự trù xây khu phố thị mới. Tức giận trước hành động của nhà nước địa phương dân làng Dương Nội đã gửi nhiều thư phản kháng đến các cơ quan trách nhiệm đòi phải can thiệp và ngưng việc lấy đất.
5
Nhiều người đã túc trực hẳn trên ruộng đất của họ, thay phiên nhau canh gác để ngăn chận chính quyền tịch thu đất đai của họ.
Ngày 17 tháng giêng 2013, chính quyền quận Hà Ðông cho 200 cảnh sát, dân phòng và côn đồ tấn công làng, muốn dùng võ lực đuổi dân làng phải bỏ đất của họ. Tuy nhiên, lực lượng cảnh sát đã gặp sự chống đối mãnh liệt của dân làng và cuối cùng họ buộc phải rút lui. Trường hợp này phải nên chấm dứt.
Chiếm đất ở Ðồng bằng Cửu Long tỉnh Cần Thơ: Bà mẹ và cô con gái cởi áo quần phản đối
Ðể xây cất khu gia cư mới Hưng Phú, chính quyền quận Cái Răng vùng châu thổ sông Cửu Long thuộc thành phố Cần Thơ quyết định lấy đất của dân làng Hưng Phú để bán cho công ty CP đầu tư xây dựng số 8 có tên là CIC 8. Tuy nhiên, công ty CIC8 chỉ chịu trả cho khu đất lấy đi với giá quá thấp, cả 10 lần ít hơn giá của căn hộ nhà sẽ được xây cất.
6
Dưới áp lực của chính quyền nhiều dân cư ở đó đã giao đất cho hãng xây cất, nhưng một số người khác trong đó có bà Pham Thị Lài đã không chịu chuyển nhượng đất của họ với giá rẻ.
Từ năm 2002 gia đình bà Phạm Thị Lài đã gửi đơn kháng kiện đến chính quyền các cấp khác nhau để phản đối quyết định của nhà cầm quyền Cái Răng lấy 3000 thước vuông của gia đình họ với giá rẻ mạt. Tuy nhiên, bà Phạm Thị Lài đã không nhận hồi đáp nào của nhà nước.
Bà Lài và cô con gái đã cởi áo quần phản đối khi phe khai thác gửi nguời đến giải tỏa khu đất. Tuy nhiên, bảo vệ của công ty CP đầu tư xây dựng số 8 đã lôi hai người đàn bà khỏa thân đi khỏi đất của họ.
Sau đó, chính quyền Cái Răng phạt bà Lài và con gái bà về tội khỏa thân nơi công cộng và như thế đã vi phạm thuần phong mỹ tục.
Chiếm tài sản của giáo hội Thiên chúa giáo
Nhiều nhà thờ Công Giáo là nạn nhân bị chiếm tài sản bởi các cơ quan chính quyền và cán bộ. Cùng với sự can thiệp chính trị ảnh hưởng đến các sinh hoạt tôn giáo của người Công Giáo khắp nước, nhà cầm quyền ở nhiều tỉnh và thành phố đã thu tóm tài sản của giáo hội, gây sự bất mãn trong hàng giáo sĩ và giáo dân.
Trong quá khứ, chính quyền địa phương ở nhiều nơi đã mượn bất động sản và cơ sở của giáo hội Thiên chúa giáo và các cơ sở này thành công sở, bệnh viện, trường học, khách sạn hoặc biến thành nơi giải trí cho người không Công giáo.
Tại thủ đô Hà Nội nhà cầm quyền đã lấy 95 cơ sở giáo hội Thiên chúa giáo. Họ đã cho cảnh sát đàn áp các vụ phản kháng của tu sĩ và giáo dân thiên chúa giáo.
Chính quyền ở Hà Nội còn muốn lấy đất của giáo xứ Thái Hà để xây nhà cho nhân viên địa phương. Dưới sự chống đối quyết liệt của các tu sĩ và giáo dân nhà cầm quyền phải chuyển qua lấy mảnh đất đó làm công viên.
Thống kê về tranh chấp đất đai ở Việt Nam
Chỉ riêng Hà Nội đã có trên 1000 vụ kháng kiện liên hệ đến tranh chấp đất đai mỗi năm. Những trường hợp này cho thấy rõ sự bất mãn của người dân về các quyết định lấy đất của dân, vấn đề bồi thường và định cư trở lại khi chính quyền chiếm đất của người dân địa phương.
Trên bình diện quốc gia, con số các vụ kháng kiện liên quan đến vấn đề đất đai chiếm đến 70% các vụ kiện tụng về dân sự. Theo sở thanh tra của chính phủ, có tất cả 851000 vụ kiện cáo về tranh chấp đất đai trong thời gian từ 2003 đến 2010, phần lớn liên quan đến vấn đề lấy đất để phát trển kinh tế.
Trong số 31000 vụ kiện về đất đai tường trình trong năm 2007, một cơ quan chính quyền nói có khoảng 70% đã không có sự bồi thường tương xứng cho đất bị tịch thu.
Trong thời gian từ 2001 đến 2006, khoảng 376000 mẫu tây đất trồng lúa đã bị tịch thu, trên 1 triệu nông dân phải dời đi nơi khác. Các tu chỉnh về luật đất đai năm 2003 nhằm đẩy mạnh „phát triển“ bằng cách tạo dễ dàng cho việc khai khẩn nhiều khu đất rộng lớn cho thấy mức độ xua đuổi nông dân đi nơi khác có vẻ đã gia tăng.
Theo ông Huỳnh Phong Tranh, Tổng Thanh tra Chính phủ, vấn đề kiện cáo đất đai chiếm hết 80% tổng số các vụ tham nhũng nghiêm trọng còn chưa giải quyết.
Ông Lê Ðăng Doanh, một chuyên viên về kinh tế, lập luận rằng nay ban lãnh đạo đã đi lạc hướng và bị trói buột bởi quyền lợi phe nhóm. „Ðảng lấy đất của nông dân với giá rẻ vô lý và bán lại cho các nhà đầu tư với giá cao hơn nhiều, thay vì lấy đất của địa chủ cho nông dân như trước đây“.
Thế giới văn minh có thể làm gì để khuyến cáo chính phủ Việt Nam về vấn đề chiếm đất
Vấn đề chiếm đất đai đã trở thành hệ thống nơi mà Ðảng CSVN nắm độc quyền về quyền lực. Không có quyền sở hữu đất riêng, người dân địa phương thom thóp lo sợ mất quyền sử dụng đất một khi nhân viên chính quyền quyết định rằng, đất họ đang canh tác có thể sử dụng vào mục tiêu phát triển quốc gia hoặc an ninh công cộng.
Lấy chiêu bài „phát triển xã hội cho ích lợi chung“, chính quyền địa phương đã không do dự cưỡng chiếm đất của dân và giao đất đó cho các nhà doanh nghiệp thực hiện các dự án phát triển. Ðiều này có nghĩa là, nhân dân càng chần chờ không chịu giao đất của họ, thì việc sử dụng các lực lượng võ trang xua đuổi dân càng thô bạo hơn. Thật là kỳ quái, nếu một ai hô hào cho quyền sở hữu đất đai có thể bị phạt nghiêm khắc.
Nhiều chuyên viên cho rằng để ngăn ngừa việc chiếm đất, Việt Nam cần thay đổi luật đất đai bằng cách để tạo ra nhiều hình thức sở hữu đất gồm cả sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân.
Việt Nam cần phải cải tổ luật đất đai đầy mâu thuẫn nếu muốn cứu vãn nền kinh tế ốm yếu, theo lời ông Trần Huy Huỳnh, giám đốc phòng luật pháp thuộc Phòng Thương mại và Kỹ nghệ Việt Nam..
Ông nói, „Nếu quyền sở hữu thuộc về nhà nước thì nông dân không cảm thấy yên ổn bởi vì họ không là chủ của mảnh đất đó, họ sẽ không muốn đầu tư và làm việc tận lực“.
Với tình trạng đất đai bấp bênh này nông dân không thể phát triển công việc làm ăn của họ, mở rộng ra hoặc đầu tư vào các kỹ thuật cao cấp và vì thế sản phẩm của họ không có khả năng cạnh tranh“.
Ông James Anderson, một chuyên gia hành chánh của Văn phòng Quỹ tiền tệ quốc tế ở VN cho rằng, tình trạng hiện nay thường đưa đến một kết quả thua-thua cho nông dân và cả nhà đầu tư.
„Thay vì tạo điều kiện cho sự thương lượng tự nguyện, nhà nước có vai trò đặc biệt trong vấn đề định con số bồi thường và có uy quyền dùng luật lệ để phân phối lại đất đó. Lẽ tất nhiên, sự kiện nầy có thể dẫn đến nhiều khó khăn cho cả đôi bên, người mất đất không vui với khoản bồi thường và kẻ đầu tư thì phải đương đầu với những sự chậm trễ vì mất thời gian giải tỏa để có chỗ đất trống“, ông Anderson giải thích như vậy.
Các chuyên viên trong ngành nói, chính phủ và nhà cầm quyền địa phương không nên được có quyền cưỡng chiếm đất để tiến hành các dự án phát triển kinh tế xã hội. Ðể có chỗ cho các dự án phát triển kinh tế xã hội, chính quyền địa phương cần thương lượng với người dân có đất ở trong khu vực dự trù và đi đến thỏa thuận bồi thường theo giá của thị trường.
Việt Nam nên từ bỏ chính sách định giá đất cứng nhắt, cho phép thẩm giá nhà đất tùy theo giá của thị trường. Hiện nay, các chính quyền ở tỉnh định giá đất theo tình hình địa phương của họ, một cách thức không cho phép có sự bồi thường thỏa đáng, phản ảnh đúng giá cả trên thị trường và tất nhiên gây sự lỗ lã lớn cho người dân bị đuổi đất trong khi chỉ làm lợi cho cơ quan chính quyền và công ty thực hiện dự án.
Tuy vậy, tranh chấp đất đai ở VN trên căn bản bắt nguồn từ lý do chính trị hơn là từ nguyên do kinh tế – Sự thực không chối cãi là Ðảng CSVN không có ý định từ bỏ chủ trương kiểm soát toàn diện về mọi mặt trong đời sống kể cả vấn đề làm chủ tất cả đất đai. Tuy nhiên, các vụ tranh chấp đất đai đang nổi lên khắp nơi có thể tạo thành một mối đe dọa nghiêm trọng cho chính ÐCSVN, bởi vì cho đến nay nông dân vẫn là thành phần chính yếu ủng hộ đảng. Vì vậy, để giải quyết rốt ráo vấn đề đất đai ở VN, có thể ÐCSVN phải thực sự nới lỏng gọng kìm chính trị.
Pháp quốc và Việt Nam đã đồng ý hợp tác song phương, nhằm nâng cấp mối quan hệ hỗ tương, tiến đến sự hợp tác chiến lược trong tương lai gần đây. Pháp quốc cũng như các quốc gia trong Liên Minh Âu châu nên khuyến cáo chính quyền CSVN nên tôn trọng nhân quyền và quyền tự do ngôn luận.
Cả hai quốc gia cũng mong muốn đẩy mạnh sự hợp tác song phương về phuơng diện luật và hành pháp. Xuyên qua các chương trình hổ trợ, Pháp quốc nên khuyến cáo chính quyền VN, nhất là ÐCSVN, nên có cải cách về hướng của một nền pháp trị, có tự do thông tin báo chí, và đi đến sự phân quyền rõ rệt. Trong đó lập pháp, hành pháp và tư pháp hoạt động độc lập theo thể thức kiểm soát và cân bằng quyền lực.
Cuộc phản kháng của nhà nông Vươn là một thí dụ tiêu biểu cho ta thấy và cảnh báo điều gì có thể xảy ra trong một nước không có một hệ thống xã hội dân chủ và một nền pháp trị.
Những người dân bị thua thiệt nhận thấy toà án CS ít khi có hữu ích gì cho họ, và sự phản kháng ngoài đường phố đã đưa đến sự hà hiếp người dân, tra tấn hoặc cầm tù bởi nhà cầm quyền.
Theo Freedom House quốc tế, ở VN số luật sư không nhiều, và nhiều người nấy thì không muốn bào chữa cho những vụ liên hệ đến nhân quyền hoặc các vấn đế có tính chính trị nhạy cảm khác vì sợ sẽ bị trù đập, trừng phạt kể cả việc ngang nhiên bị bắt giữ của chính quyền.
Không như toà án tại các nước tiền tiến, ngành tư pháp không mang lại nhiều che chở cho người dân Việt Nam.
Tài liệu trích dẫn:
1. Land grabs rile Vietnam´s farmer- Nguyen Phuong Linh Financial Times Apr 11,2013
2. Reports of Vietnam government´s General Inspectorate
(*) Nguyên bản “Land Ownership in Vietnam and Land Seizure in One-party State”, bài tham luận tại 5e Forum Mondial des Droits de l’Homme, Nante, France 22.- 25 Mai 2013 trong Hội luận „Luật pháp và vấn đề chiếm đất tại các nước đang phát triển“ ngày 23/05/2013, Tiểu đề „Luật pháp và vấn đề chiếm đất tại các nước đang phát triển: thí dụ ở các nước Benin, Mali, Papua New Guinea, Vietnam và Costa Rica“. Bản tiếng Việt https://sites.google.com/site/forumvietnam21/tiengviet/tiengviet-bv/bnq20140103_vuquocngu
THEO DIỄN ĐÀN VIỆT NAM 21

Bất ổn kinh tế và vấn đề xã hội



120302statyra-1
Giao thông Việt Nam là một thảm họa !
2013 là năm thứ năm liên tiếp tăng trưởng kinh tế của Việt Nam rơi vào suy giảm. Mặc dù lạm phát không còn là nỗi ám ảnh thường trực như trong giai đoạn 2007-2008 hay 2011, song nền kinh tế trong năm 2013 không chỉ tăng trưởng chậm (ước đạt 5,4%) mà còn tỏ ra thiếu sức sống, thậm chí suy kiệt, thể hiện qua con số trung bình gần 5.000 doanh nghiệp dân doanh giải thể hay dừng hoạt động mỗi tháng. Cũng trong năm 2013, các chương trình tái cấu trúc được triển khai chậm chạp và thiếu hiệu quả, làm cho hy vọng về sự phục hồi tăng trưởng ngày càng trở nên xa vời. Trong bối cảnh này, có thể thấy trước rằng ưu tiên hàng đầu trong chương trình nghị sự của Chính phủ trong năm 2014 vẫn sẽ là tiếp tục đẩy mạnh tái cơ cấu và phục hồi tăng trưởng kinh tế.
Trong khi bị chi phối bởi vô số các ưu tiên trước mắt, đặc biệt là các vấn đề kinh tế, người ta có thể không đánh giá hết được hệ lụy của nhiều vấn đề xã hội đã đặc biệt trở nên nhức nhối trong mấy năm gần đây. Biểu hiện của các vấn đề này ngày một nhiều, không những thế càng ngày càng trở nên nghiêm trọng. Không cần nhìn đâu xa, chỉ cần nhìn vào những ngành, những lĩnh vực vốn được coi là có trách nhiệm xây dựng và bảo vệ “lương tâm của xã hội” như thầy giáo, thầy thuốc, tôn giáo, tâm linh, tòa án, công an, báo chí thì cũng có thể thấy rõ tình trạng này.
Một số người có thể vội vàng quy kết những vấn nạn xã hội này cho kinh tế thị trường. Thế nhưng nếu suy xét kỹ thì chúng ta sẽ thấy sự quy kết này là thiếu cơ sở. Một nền kinh tế thị trường đích thực sẽ không dễ dàng làm hại rồi ngang nhiên quẳng xác khách hàng xuống sông để phi tang. Rồi những sai trái trong các giao dịch phi thị trường (như tìm hài cốt liệt sĩ hay điều tra thủ phạm giết người) hay ít tính thị trường (như đào tạo ở đại học công lập hay xét nghiệm y tế ở bệnh viện công) hiển nhiên cũng không thể đổ tại kinh tế thị trường mà chỉ có thể bắt nguồn từ lòng tham và sự bất nhân. Mặc dù lòng tham có thể là một tính xấu phổ biến của con người, nhưng sự bất nhân không hề có tính phổ quát, trái lại nó đến từ sự sa đọa của bản thân con người và/hoặc từ niềm tin là một người có thể phạm tội mà không bị phát hiện, và/hoặc nếu bị phát hiện thì cũng không bị trừng phạt một cách tương xứng – tất cả đều không phải là hệ quả tất yếu của kinh tế thị trường.
Một số người cho rằng nhiều vấn nạn xã hội, đặc biệt liên quan đến tội phạm, đơn giản chỉ là “bần cùng sinh đạo tặc”. Tất nhiên là có một phần sự thật trong câu nói được lưu truyền trong dân gian này. Tuy nhiên, cần nhớ rằng theo số liệu của Tổng cục Thống kê, trong giai đoạn 2008-2013, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam vẫn tăng trung bình gần 10%/năm theo giá cố định. Như vậy, nếu quả thực “bần cùng sinh đạo tặc” thì vấn đề không phải là do mức sống chung của xã hội thấp đi, mà là do kết quả kinh tế đã bị phân bổ không công bằng giữa các nhóm dân cư trong xã hội.
Một số người khác lại cho rằng những vấn đề xã hội bắt nguồn từ hệ thống thể chế – mà theo GS. Douglass North, người được giải Nobel Kinh tế năm 1993 – bao gồm hệ thống các quy tắc thành văn (bao gồm hiến pháp, luật và các văn bản dưới luật), các quy tắc bất thành văn (như phong tục, tập quán), và các cơ chế cưỡng chế thi hành các quy tắc này.
Rất tiếc là cho đến nay chúng ta có quá ít các điều tra và nghiên cứu xã hội nghiêm túc để có thể chỉ ra ngọn nguồn của những vấn đề xã hội nổi cộm cùng những hệ lụy của chúng. Tình trạng này càng trở nên trầm trọng khi người ta thường có xu hướng chăm chú nhiều hơn vào các vấn đề kinh tế, đặc biệt là các vấn đề có tính tình thế, kỹ thuật, thậm chí không thực chất.
Lịch sử dạy chúng ta rằng khi kinh tế đi xuống, có thể chỉ cần vài năm để hồi phục, song một khi niềm tin bị mất, lòng người không yên, nhân tâm ly tán thì ngay cả vài thập kỷ cũng không biết có đủ để khôi phục hay không, mà đây chính là những nền tảng để một xã hội có thể phát triển. Như vậy, để giảm thiểu chi phí xã hội trong quá trình phát triển ở Việt Nam, các vấn đề xã hội cần được đặt vào đúng vị trí của chúng trong chương trình nghị sự của Chính phủ, trong chương trình nghiên cứu của các trường và viện nghiên cứu, và trong sự quan tâm của xã hội nói chung.
VŨ THÀNH TỰ ANH/THEO THỜI BÁO KINH TẾ SÀI GÒN