Monday, November 16, 2020

Tây Nguyên đã bị bức tử như thế nào?

 


Ảnh vệ tinh khu vực Ngã Ba Đông Dương cho thấy rừng thuộc phần đất Việt Nam (bên phải) bị tàn phá nặng nề so với Lào và Campuchia. Ảnh: Internet

Tân Phong – Việt Tân

(Xin gửi đến Đại Biểu Quốc Hội Ksor H’Bơ Khắp với lời cảm ơn trân trọng!)

Suốt dải đất miền Trung từ Hà Tĩnh, Nghệ An cho đến Quảng Nam, Phú Yên, Bình Thuận… oằn mình hứng chịu liên tiếp “lũ chồng lũ, bão chồng bão.” Chưa có một con số thống kê đầy đủ đã có bao nhiêu người chết và mất tích vì mưa lũ, sạt lở đất ở miền Trung cho đến thời điểm hiện nay. Bản tin cuối cùng cập nhật con số bi thảm này trên báo chí “lề đảng” vào ngày 19 tháng Mười, 2020, ghi nhận 102 người chết và 26 người mất tích.

Đã gần 1 tháng trôi qua, liên tiếp vẫn xảy ra sạt đất ở nhiều nơi khu vực Tây Nguyên, Trung và Nam Trung Bộ gây thêm nhiều thương vong về người, hủy hoại hạ tầng, tài sản xã hội. Hình ảnh những quả đồi trơ trụi đã sạt lở chôn vùi nhiều làng mạc, doanh trại quân đội, đường xá, cướp đi hàng trăm sinh mạng khiến cho nhân tâm đau đớn. Nhưng khi những cảm xúc qua đi thì người ta không thể không hỏi rằng “Rừng đâu hết cả rồi? Sao toàn đồi trọc thế kia, làm sao không sạt lở, không lũ lụt?” Rồi người ta được biết trên thượng nguồn những dòng sông nhỏ ở Tây Nguyên, những cánh rừng đại ngàn đã bị chặt phá để làm hàng trăm thủy điện nhỏ. Thủy điện làm thì ít, mà thực ra phá rừng bán gỗ là chính!

Bức xúc xã hội được các đại biểu quốc hội đưa vào nội dung chất vấn những bộ trưởng và các cơ quan ban ngành có trách nhiệm liên quan tới việc bảo vệ rừng, qui hoạch và vận hành thủy điện, điện mặt trời trong những ngày qua đang tạo những đợt sóng mạnh trong dư luận.

Câu hỏi rành mạch, dứt khoát, trực diện của Đại Biểu Ksor H’Bơ Khắp khiến cho những bộ trưởng “bò một nắng” như Trần Hồng Hà, Nguyễn Xuân Cường, Trần Tuấn Anh càng thể hiện sự dốt nát về chuyên môn, tư duy thấp kém, cũng như thói quen lưu manh cố hữu khi cố gắng đánh tráo khái niệm, đổ trách nhiệm cho “con người” mà không phải là trách nhiệm cụ thể của cơ quan quản lý và thực thi luật pháp.

Chúng trơ trẽn khi hứa rằng sẽ loại bỏ những công trình thủy điện dù chỉ phá một mét vuông rừng, rằng sẽ nhanh chóng rà soát và trồng lại rừng nguyên sinh bla bla… Thế rồi, ông Thủ Tướng Phúc ngay lập tức đã ra chỉ đạo trồng 1 tỷ cây xanh. Quả thực, những quyết định, hứa hẹn của giới chức CS ngoài tác dụng lừa mị, có Trời mới biết được tính khả thi của nó ra sao?

Những ngụy biện trắng trợn của đám bộ trưởng “bò một nắng” khi nói rằng thủy điện nhỏ không là nguyên nhân gây lũ lụt, không phá rừng và rừng Việt Nam vẫn phát triển tốt quả thực là một luận điệu không thể khốn nạn và phi nhân hơn.

Nó cũng giống như những lời biện hộ của đám viên chức EVN khi nói “dân chết không phải vì thủy điện xả lũ, mà vì dân không …biết bơi” khi thủy điện sông Đà và hơn 30 thủy điện lớn nhỏ đột ngột “xả lũ đúng qui trình” vào ban đêm mà không hề báo trước khiến hơn 100 người chết vào tháng Mười năm 2017. Giờ đây, những luận điệu này lại được lặp lại bởi những kẻ mặt trơ trán bóng, lương tâm đã bị chó ăn mất từ lâu, như một sự thách thức, chà đạp lương tri Con Người.

Để nói cho rõ rằng không chỉ hàng triệu hecta rừng Tây Nguyên đại ngàn nguyên sinh đã bị chặt phá tàn bạo trong suốt 4 thập kỷ sau 1975, mà phải nói cho đúng là Tây Nguyên với tất cả những giá trị bản sắc của nó, bao gồm văn hóa gắn liền các chủng tộc bản địa, tài nguyên, môi trường, con người… đều đang bị bức tử, phá hủy với mức độ hủy diệt bằng nhiều cách khác nhau. Trong đó, gồm cả những chính sách phát triển kinh tế một cách thiển cận, tham lam, cũng như sự yếu kém trong công tác quản lý xã hội, tài nguyên và công khai ủng hộ việc phá hoại một cách hệ thống.

Tây Nguyên trước 1975

Trước 1975, Tây Nguyên là một vùng đất còn hoang sơ, rừng nguyên sinh bạt ngàn. Cho đến tận 1946 vùng đất mênh mông trên những cao nguyên bao gồm 5 tỉnh hiện nay theo hệ thống phân định địa giới hành chính của nhà cầm quyền CSVN là Đắk Lắk, Đắk Nông, Gia Lai, Kon Tum, Lâm Đồng vẫn còn là một vùng tự trị được biết tới với tên gọi chung là Hoàng Triều Cương Thổ, theo cách gọi của triều Nguyễn. Xưa kia là vương quốc Thủy Xá, Hỏa Xá của những tộc người Jrai, Ede, Ba Na, Cơ Ho, Mạ, Xơ Đăng, Mơ Nông…

Hệ thống quyền lực hành chính và những hạ tầng xã hội văn minh được người Pháp bắt đầu đặt nền móng cơ bản từ những năm 1891, với việc phát hiện ra cao nguyên Lang Biang bởi nhà khoa học lừng danh Yersin. Theo đề nghị của Yersin, Toàn Quyền Đông Dương Paul Doumer đã cho xây dựng thành phố Đà Lạt và trực tiếp can thiệp vào vùng đất Tây Nguyên kể từ 1900.

Trong suốt quá trình người Pháp can thiệp vào Tây Nguyên, việc nhập cư được kiểm soát khá chặt chẽ. Người Pháp duy trì chế độ tự trị của vùng đất này và hạn chế người Kinh nhập cư, ngoại trừ những công ty trồng café, cao su được quyền tuyển người và đưa người Kinh vào làm việc tại các đồn điền. Người Pháp cũng tránh can thiệp và tôn trọng các văn hóa tập tục bản địa. Nhiều công trình nghiên cứu văn hóa, chủng tộc, tài nguyên của người Pháp trên vùng đất hoang sơ Tây Nguyên cách đây hơn 100 năm phải khiến cho giới trí thức Việt sau hơn một thế kỷ mới được tiếp cận phải sửng sốt, thán phục. Một ví dụ tiêu biểu là bản trường ca Đam Săn của dân tộc Ede đã được chuyển ngữ từ tiếng Rhade sang tiếng Pháp bởi Léopold Sabatier từ 1929. Rất lâu sau đó, những nhà “văn hóa Việt Nam” mới được biết tới kiệt tác này qua bản dịch của ông ta.

Người Pháp nghiên cứu cặn kẽ thổ nhưỡng, tài nguyên khoáng sản, khí hậu Tây Nguyên và đã di thực những cây công nghiệp thích hợp nhất mang tính đột phá về kinh tế là cây cao su và café về trồng. Việc xây dựng các đồn điền, phố thị, hạ tầng xã hội đảm bảo các lợi ích chung cho cộng đồng bản địa và không gây ra những xung đột. Những công trình mà người Pháp để lại đều trở thành di sản vô giá về kiến trúc, khoa học, qui hoạch và có tác động tích cực to lớn tới phát triển kinh tế vùng. Mối quan hệ giữa người Kinh nhập cư, cũng như người Pháp với các sắc tộc Tây Nguyên có thể nói là hữu hảo. Công bằng mà nói, người Việt hãy nên biết ơn với những gì mà đám “thực dân, đế quốc” đã làm cho vùng đất này.

Cuộc di cư lớn đầu tiên của người Kinh vào cao nguyên Trung phần (Tây Nguyên) dưới thời VNCH được ghi nhận vào giai đoạn 1954 khi gần 1 triệu người Bắc di cư vào Nam. Trong số đó, 54.551 người đã được sắp xếp định cư ở Đà Lạt và Lâm Đồng. Với chính sách điền địa mới của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, các di dân được được phân đất ở, canh tác lâu dài, được hướng dẫn đào tạo về kiến thức lâm nông nghiệp và hỗ trợ bởi các cán bộ xây dựng nông thôn đã sớm có được cuộc sống ấm no.

Cho đến 1975, toàn bộ dân số khu vực Tây Nguyên ước chừng khoảng 1,2 triệu dân với đa phần là dân bản địa chiếm khoảng 70%. Chính sách của VNCH sau khi sát nhập Hoàng Triều Cương Thổ vào Trung phần, gọi là Cao nguyên trung phần (Tây Nguyên) chú trọng xây dựng hạ tầng kinh tế xã hội, gia tăng quyền lực hành chính. Song đối với các dân tộc bản địa, chính quyền VNCH hết sức tôn trọng văn hóa, tập tục, hỗ trợ kinh tế, hướng dẫn nghề nghiệp, kỹ thuật lâm nghiệp để họ có đời sống tốt hơn.

Tây Nguyên sau 1975

 Nhập cư ồ ạt

Sau 1975, nhà cầm quyền cộng sản thực hiện chính sách di dân cưỡng bức một lượng lớn dân cư thành phố là những gia đình sỹ quan, viên chức làm việc trong chính quyền cũ tập trung vào các “vùng kinh tế mới” mà thực chất là những nơi rừng thiêng nước độc, không có hạ tầng để khai hoang và dọn dẹp bom mìn sau chiến tranh. Một lượng lớn dân nghèo nông thôn từ miền Bắc cũng được khuyến khích vào làm việc trong các lâm trường quốc doanh theo chương trình phát triển kinh tế mới, nhằm giảm sức ép dân số ở miền Bắc và tăng nguồn lao động cho Tây Nguyên.

Theo thống kê, Tây Nguyên là vùng có tốc độ tăng dân số cao nhất cả nước. Việc tăng dân số chủ yếu là tăng dân số cơ học bởi nhập cư trong đó có hai nguồn là nhập cư theo kế hoạch và nhập cư tự do. Chỉ riêng tỉnh Đắk  Lắk, từ 1976 đến 2005, đã có 56.490 hộ nhập cư theo diện tự do với 289.688 nhân khẩu. Trong ba năm đầu tiên sau 1975, dân số Tây Nguyên tăng trung bình 7,22%. Giữa các kỳ tổng điều tra dân số 1979 -1989, dân số Tây Nguyên tăng trung bình 5,7% – cao gấp ba lần so với toàn quốc, giai đoạn 1989 -1999 tăng trung bình 4,97% và giai đoạn 1999 -2009 tăng 2,36%.

Dân số Tây Nguyên tính đến 2012 đã đạt khoảng 5,379 triệu dân, gấp 4,5 lần so với 1976. Tỷ lệ nhập cư tự do của toàn vùng trong 4 thập kỷ sau chiến tranh giao động 54% – 60% mức tăng dân số và xu hướng này ngày một cao hơn.

Việc nhập cư ồ ạt và không kiểm soát, thiếu chính sách phát triển kinh tế xã hội một cách khoa học, căn cơ đã gây ra vô vàn các hệ lụy trong đó sự xói mòn văn hóa bản địa, hủy hoại môi trường bởi khai thác rừng tự nhiên tràn lan, cũng như các hạ tầng kinh tế xây dựng thiếu qui hoạch và chắp vá. Những phồn hoa bề ngoài của thành phố Đà Lạt chỉ cần một trận mưa to cũng lột hết lớp phấn son khi tất cả ngập chìm trong biển nước lũ mênh mông. Đó có thể coi là một minh chứng rõ nét cho những “thành tựu phát triển” XHCN!

Năm 2004, một khảo sát về dân số và xã hội cho thấy tỷ lệ người dân tộc bản địa chỉ còn khoảng 25% dân số Tây Nguyên (so với tỷ lệ 70% trước 1975) và là những đối tượng rất dễ bị tổn thương bởi chính sách đất đai của nhà cầm quyền CSVN. Từ vị trí là chủ nhân của Tây Nguyên, những dân tộc bản địa này bị tước đoạt quyền sở hữu đối với những cánh rừng đại ngàn, nương rẫy mà ông cha họ để lại, bị gạt ra lề xã hội và đàn áp không thương tiếc. Vấn nạn kém phát triển, đói nghèo và hủy diệt môi trường sống đang là vấn nạn nhức nhối và thường xuyên dẫn đến xung đột xã hội mà những vụ án như Đặng Văn Hiến chỉ là một trong hàng trăm ngàn những bi kịch đang diễn ra ở vùng đất từng tràn đầy tài nguyên này.

Phá rừng nguyên sinh làm kinh tế

Sau 1975, do nhu cầu thiếu lương thực trầm trọng và nhu cầu khôi phục kinh tế sau chiến tranh, Tây Nguyên trở thành vùng diễn ra tình trạng khai thác gỗ với qui mô lớn và khai phá đất rừng để canh tác nông nghiệp. Giai đoạn 1990 – 2000, diện tích café đã tăng gấp 5 lần (từ 85.600 ha lên tới 427.200 ha) và gấp 2,8 lần so với qui hoạch năm 2000. Tổng diện tích cây công nghiệp lâu năm năm 2011 đạt 1.130.500 ha tăng gấp 1,33 lần so với năm 2005 và tăng gấp 1,73 lần so với năm 2000.

Tới năm 2010, diện tích riêng cây café đã tăng gấp 1,15 lần so với năm 2000, và gấp 2,73 lần so với qui hoạch theo quyết định 184/QĐ—TTg (chỉ có 180.000 ha). Diện tích các cây trồng khác như sắn phát triển ồ ạt theo phong trào cũng góp phần tàn phá các cánh rừng tự nhiên và làm bạc màu đất nhanh chóng. Diện tích trồng sắn từ 38.000 ha năm 2000 đã tăng thêm tới 158.700 ha (gấp 4,17 lần).

Diện tích trồng cây cao su vốn trước kia người Pháp trồng với diện tích nhỏ (cây cao su chủ yếu được trồng ở vùng Đông Nam Bộ, còn ở Tây Nguyên bị hạn chế hơn cây café) đã tăng nhanh chóng vì đem lại lợi nhuận lớn cho các nông trường quốc doanh của giới chức cộng sản. Trong vòng 12 năm, từ 2000 – 2012 diện tích cao su đã tăng gấp 2,5 lần từ 96.460 ha lên tới 243.000 ha… Hãy cộng tất cả những con số tăng trưởng về diện tích đất nông, lâm nghiệp này lại để biết được đã có bao nhiêu ha rừng nguyên sinh phải ngã xuống.

Việc gia tăng diện tích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp chủ yếu là từ việc chuyển đổi đất rừng tự nhiên. Từ 1979 – 2000, có khoảng 136.000 ha đất rừng tự nhiên chuyển thành đất nông nghiệp. Theo như con số thống kê chính thức của nhà cầm quyền, từ 2005 – 2010, tổng diện tích rừng bị mất là 366.731 ha, trong đó chuyển sang đất nông nghiệp gần 217.000 ha, trở thành đất trống đồi trọc và mục đích khác gần 127.000 ha… Sự gia tăng nhanh diện tích cây công nghiệp vượt mức qui hoạch như cây café, cao su, sắn…và chuyển đổi đất rừng không kiểm soát được đã xâm hại nghiêm trọng đến tài nguyên và môi trường sinh thái, gây hậu quả lâu dài trong việc duy trì nguồn nước ở Tây Nguyên.  Điều này có thể thấy rõ trong những năm gần đây, Tây Nguyên ngày càng khô hạn.

Với đặc điểm là cao nguyên, là thượng nguồn của những con sông của vùng Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ, Tây Nguyên không tiếp nhận bất cứ nguồn nước nào từ bên ngoài mà hoàn toàn phụ thuộc vào vũ lượng hàng năm và khả năng hấp thụ nước mưa của thảm thực vật ở đây. Khi thảm thực vật mất đi, Tây Nguyên sẽ nhanh chóng trở thành hoang mạc.

Tính đến ngày 31 tháng Mười Hai, 2012, theo công bố hiện trạng rừng của Bộ Nông Nghiệp – Phát Triển Nông Thôn tại quyết định 1739/QĐBNN-TCLN, tổng diện tích có rừng ở Tây Nguyên (bao gồm cả tự nhiên vào rừng trồng) khoảng 2.594.000 ha với độ che phủ khoảng 50,7%. Tuy vậy, theo báo cáo tại Hội nghị Bảo vệ và phát triển rừng Tây Nguyên ngày 14 tháng Ba, 2012 ở Buôn Mê Thuột, Đắk Lắk, kết quả giải đoán ảnh viễn thám của Bộ Tài Nguyên và Môi Trường năm 2012 cho biết, diện tích rừng có trữ lượng ở Tây Nguyên chỉ còn 1,8 triệu ha, với độ che phủ thấp chỉ khoảng 32,4%.

Chỉ cần so sánh hai kết quả báo cáo và khảo sát giữa hai bộ ngành của nhà cầm quyền cũng cho ta thấy sự sai lệch giữa thực tế và các báo cáo thành tích là cả một vực thẳm – 36% (1,8 triệu ha/2,847 triệu ha). Nếu như lấy con số giải đoán viễn thám làm chuẩn, diện tích rừng đã mất so với năm 1976 là 62% (1,8 triệu ha/ 3,7 triệu ha năm 1976). Và không chỉ giảm tới 62% diện tích rừng mà là mức độ che phủ từ 87% năm 1976 đã chỉ còn 32,4% vào năm 2012.

Những con số thống kê trên đây được trích dẫn từ các báo cáo kiểm kê đất đai Tây Nguyên năm 2005 – 2010 và báo cáo môi trường quốc gia 2010. Từ thời điểm đó cho tới năm 2020, mỗi năm có thêm ít nhất khoảng 27.000 ha rừng tự nhiên tiếp tục bị đốn hạ dưới nhiều lý do khác nhau. Vậy mà, ông bộ trưởng “một nắng” Nguyễn Xuân Cường có thể trắng trợn nói rằng rừng tự nhiên ở Việt Nam phát triển tốt và phải ghi công cho Bộ Nông Nghiệp – Phát Triển Nông Thôn của ông ta. Thật là một kẻ đốn mạt, láo toét.

Phát triển thủy điện điên cuồng, chặt phá rừng bằng mọi cách

Thảm họa sạt lở đất ở thủy điện Rào Trăng 3, xã Phong Điền, Huế khiến 16 công nhân thiệt mạng và 13 người trong đoàn cứu hộ cũng bị vùi lấp tử thương khi trên đường tiếp cận hiện trường trong ngày 12 tháng Mười, 2020 đã gióng lên hồi chuông báo động hiểm họa to lớn mà việc phát triển thủy điện nhỏ kéo theo hệ lụy tàn phá rừng tự nhiên trên thượng nguồn các con sông. Đây chỉ là một dự án thủy điện nhỏ trong số 13 dự án thủy điện được cấp phép của tỉnh Thừa Thiên – Huế. Trên một đoạn sông Rào Trăng dài chỉ 26 km có tới 4 dự án thủy điện bậc thang là Alin B1, Alin B2, Rào Trăng 3, Rào Trăng 4 và những dự án thủy điện này đều nằm trong vùng lõi khu bảo tồn thiên nhiên Phong Điền.

Khó có thể biết có bao nhiêu thủy điện lớn nhỏ hiện nay đã và đang được xây dựng ở Tây Nguyên. Trong vòng 30 năm qua, Tây Nguyên là đại công trường xây dựng thủy điện, đặc biệt là thủy điện nhỏ. Tính đến năm 2012, trên các hệ thống sông chính của Tây Nguyên như sông Ba, Sê San, Serepok, Đồng Nai có đến 287 dự án thủy điện đã và đang xây dựng với tổng công suất 6.991,8 MW. Trong đó có 43 dự án thuộc qui hoạch bậc thang thủy điện lớn trên dòng chính và 244 dự án thuộc qui hoạch thủy điện nhỏ trên sông, suối, phụ lưu… Chưa kể đến 153 dự án thủy điện nhỏ khác đang “chờ nghiên cứu” và làm thủ tục xin giấy phép đầu tư.

Theo các đánh giá khoa học thì cứ 1 MW thủy điện người ta phải hy sinh từ 10 – 30 ha rừng trên vùng thượng nguồn để làm hồ chứa. Chỉ cần làm một phép tính nhân đơn giản cũng có thể cho ta thấy một diện tích rừng khổng lồ sẽ bị đốn hạ dưới danh nghĩa “tận thu lâm sản vùng lòng hồ thủy điện.” Chưa kể vấn nạn làm đường vào các dự án thủy điện kéo theo tình trạng lâm tặc với qui mô nhà nước, được bảo kê bởi giới chức cộng sản. Cách đây không lâu, trên mạng xã hội không khỏi kinh ngạc trước dinh thự mênh mông toàn bằng gỗ quí đáng giá hàng trăm tỷ đồng của cô con gái tướng Trần Kỳ Rơi ở Đắk Lắk. Đó chỉ là một ví dụ nho nhỏ của nguyên nhân gây ra thảm trạng tàn phá môi trường và rừng ở Tây Nguyên.

Có thể điểm mặt một số các dự án thủy điện đã được xây dựng trên các dòng chính như sau:

  • Trên dòng Sê San đã xây dựng 6 bậc thang thủy điện: Yaly, Sê San 3, Sê San 3A, Pleikroong, Sê San 4, Thượng Kon Tum;
  • Trên dòng Serepok đã xây dựng 6 nhà máy thủy điện với tổng công suất 621 MW là Dray Hlinh, Buôn Kuop, Buôn Tua, Srah, Serepok 3, Serepok 4, Đak Xuyên…;
  • Trên sông Ba, các công trình thủy điện lớn như An Kê – Ka nak, Krong Hnang, sông Hinh, và Ba Hạ, Ba Thượng, Ayun Thượng, Hchan, Hmun… và khoảng 329 công trình thủy lợi.

Không phủ nhận một thực tế rằng nhu cầu điện cho phát triển kinh tế ở Việt Nam là cấp bách và thiết yếu.  Song vấn đề ở đây là tình trạng lạm dụng các chính sách phát triển thủy điện để chặt phá rừng, chiếm dụng diện tích rừng của giới chức cộng sản Việt Nam ở mọi cấp từ địa phương tới trung ương. Theo một nghiên cứu của Viện Tư Vấn và Phát Triển CODE đã dẫn ra những số liệu diện tích chiếm dụng đất rừng và nạn chặt phá rừng tàn bạo của các công ty thuộc EVN do Bộ Công Thương quản lý trực tiếp.

Tên công trìnhCông suất lắp máy(MW)Đất chiếm dụng (ha)Số dân bị 
ảnh hưởng (người)
1.    Yaly7206.45024.610
2.    Sê San 43606.403
3.    Pleikrong1105.3286.000
4.    Thượng Kon tum220725382
5.    Đồng Nai 2801.920
6.    Đồng Nai 31805.600
7.    Đồng Nai 4340850
8.    Đak Ring981.0992.665

Báo cáo của viện CODE cũng cho biết kết quả khảo sát 163 trong số 287 công trình thủy điện vừa và lớn ở Tây Nguyên đến năm 2012 đã chiếm dụng 65.239 ha đất các loại, trong đó có 16.600 ha rừng tự nhiên. Rừng ở tất cả các lưu vực bậc thang thủy điện như Sê San, Yaly, Pleikrong …đều đã bị lâm tặc và giới chức địa phương cùng doanh nghiệp thủy điện cạo trọc, xâm hại nghiêm trọng.

Với thống kê và chứng cứ như trên, vậy mà Bộ Trưởng Trần Tuấn Anh có thể trắng trợn tuyên bố sẽ loại bỏ bất kể dự án thủy điện nào dù chỉ chặt phá một m² rừng tự nhiên? Thực sự là kẻ vô sỉ, lưu manh.

Khai thác khoáng sản Bauxite

Do những lo ngại về môi trường và địa bàn đặc biệt nhạy cảm về chính trị và quân sự ở Tây Nguyên, nên trước năm 2000, các dự án khai thác khoáng sản vẫn bị giới chức CSVN cân nhắc thận trọng. Đặc biệt là đối với bauxite, dù được đánh giá có trữ lượng và tiềm năng kinh tế lớn. Các lãnh đạo CSVN ở các thời kỳ trước như Lê Duẫn, Đỗ Mười, Nguyễn Văn Linh, Phan Văn Khải đều thống nhất đánh giá rằng tài nguyên Bauxite ở Tây Nguyên mới ở điều kiện cần mà chưa đủ để phát triển ngành công nghiệp luyện nhôm ở Việt Nam khi hạ tầng kỹ thuật, trình độ điện khí hóa, hóa chất, luyện kim chưa đạt. Ngoài ra, đặc thù các mỏ Bauxite ở Tây Nguyên dàn trải trên diện tích lớn đất lâm nghiệp, vỉa quặng không dày và nằm trên đầu nguồn các dòng sông. Việc khai thác sẽ ảnh hưởng và gây ra rủi ro môi trường… Ở một chừng mực nào đó, những đánh giá khoa học, khách quan của giới trí thức đã được những lãnh đạo CS ở thời kỳ trước lắng nghe.

Tuy vậy, điều này đã bị thay đổi khi Nông Đức Mạnh làm tổng bí thư và Nguyễn Tấn Dũng phụ trách kinh tế. Dù gặp phải sự phản biện gay gắt của giới khoa học trong nước cũng như công luận, khi nguồn tiền vay dồi dào của người bạn vàng 4 Tốt Trung Quốc đã bơm đầy vào tài khoản cá nhân của các chóp bu cộng sản, dự án khai thác bauxite-alumin Tân Rai – Nhân Cơ với công suất 600.000 tấn/năm do TKV làm chủ đầu tư và nhà thầu là công ty Chalieco, Trung Quốc thực hiện tất cả các công đoạn từ thiết kế – mua thiết bị – xây dựng – đào tạo (EPC) đã được chính phủ CSVN cho phép triển khai vào năm 2007. Sau 10 năm, đánh giá hiệu quả kinh tế dự án này, Bộ Tài Chính Việt Nam đã công bố con số lỗ 3.696 tỷ đồng, đồng thời qua 4 lần điều chỉnh, tổng mức vốn đầu tư cho dự án đã tăng từ 7.800 tỷ lên 15.400 tỷ.

Dù hiện nay chưa có những đánh giá tác động về môi trường đầy đủ và khách quan đối với dự án bauxite – alumin Tân Rai – Nhân Cơ, song với qui mô và rủi ro tiềm ẩn quá lớn, những hiểm họa từ các hồ chứa bùn đỏ đang sắp đầy ứ và chất lượng vận hành phập phù của nhà máy này thực sự là một quả bom chết chóc treo trên đầu 12 triệu dân dưới hạ lưu lưu vực sông Đồng Nai. Chỉ cần bất cứ sự cố nào ngoài tầm kiểm soát, sẽ có một thảm họa môi trường vô phương cứu chữa. Đó sẽ là dấu chấm hết bi thảm cho Tây Nguyên và cả vùng Đông Nam Bộ.

Trong khuôn khổ một bài viết, tác giả không thể phân tích đánh giá đầy đủ các tác động môi trường, kinh tế, xã hội mà các chính sách thiển cận cũng như tệ nạn trong quản lý nhà nước của giới chức CSVN đã gây ra với Tây Nguyên. Song trên những số liệu của chính các cơ quan thống kê nhà nước CSVN, các nghiên cứu của những viện nghiên cứu, bộ ngành chức năng liên quan trong lĩnh vực, người viết xin đưa ra những luận cứ phản biện các phát biểu ngụy biện, dối trá của các bộ trưởng CSVN khi trả lời câu hỏi của đại biểu Ksor H’Bơ Khắp trong thời gian qua.

Tân Phong

Quan ăn của rừng, dân rưng rưng nước mắt



Phía sau vụ án hủy hoại rừng, xét xử nữ bị cáo người dân tộc thiểu số là câu chuyện buồn đến nao lòng. Bị cáo Hồ Thị Thêm buồn bã bên căn nhà sàn xiêu vẹo sau phiên tòa. Ảnh: VĨNH KỲ
Cánh Cò

Năm 2020 có lẽ là năm mà người dân các tỉnh miền Trung chịu thiệt hại nặng nề do lũ lụt tạo ra nhất. Chưa ai có thể thống kê chính xác tài sản và con người của miền trung thiệt hại bao nhiêu nhưng có điều chắc chắn hơn cả là người dân đã thấm đòn, một loại đòn thù do thiên nhiên trả lại cho con người khi nó phá hoại hệ sinh thái mà thiên nhiên đã ban tặng: Phá rừng.

Nói đến phá rừng có lẽ Việt Nam là nước duy nhất trên thế giới cho phép phá rừng ở phạm vi rộng nhưng lại rất khắt khe với người dân phá rừng trong phạm vi nhỏ hẹp vì nghèo túng hay không biết sự nghiêm trọng của phá rừng là gì. Điển hình là câu chuyện của Hồ Thị Thêm, dân tộc M’Nông bị xét xử về tội “hủy hoại rừng”

Theo hồ sơ tố tụng, tháng 2-2018, chị Thêm đang đi hái rau rừng thì phát hiện khu rừng tự nhiên tại khu vực Khe Nước Lá thuộc thôn 6, xã Phước Trà, huyện Hiệp Đức. Có đất sản xuất luôn là ao ước bấy lâu nên chị có ý định phát dọn rừng để lấy đất trỉa lúa, trồng keo. Thêm thuê Hồ Thị Này, Hồ Văn Xưng, Hồ Thị Đào, Hồ Văn Thống, Hồ Văn Xét đi phát dọn rừng và trả công bằng hình thức trao đổi ngày công lao động.

Cơ quan chức năng xác định diện tích rừng tự nhiên bị chặt phá trái phép lên tới 12.224 m2 tức 1 mẫu 2 rừng nghèo. Tổng giá trị thiệt hại gần 230 triệu đồng, trong đó thiệt hại về môi trường hơn 170 triệu đồng. Thêm bị TAND huyện Hiệp Đức tuyên phạt 12 tháng tù về tội hủy hoại rừng.

Đối với dân nghèo thì xử phạt nghiêm khắc như thế, còn đối với nạn phá rừng tràn lan trên diện rộng của các tập đoàn, công ty lòn tay dưới gầm bàn thì có tòa án nào thụ lý hay chưa?

Cho tới nay chưa có một vụ án nào xử các hồ thủy điện vừa và nhỏ mặc dù chúng luôn là nguồn cơn gây lũ lụt hàng năm. Báo chí có những phóng sự thuyết phục, dẫn chứng từ các chuyên gia thủy lợi cho thấy sự tàn phá rừng để lập các hồ thủy điện nhỏ và vừa trên toàn bộ Tây nguyên và các tình miền Trung đã dẫn đến những tai nạn thảm khốc cho người dân khi có lũ lụt xảy ra.

Tàn phá rừng đầu nguồn, kể cả vườn quốc gia để lập thủy điện cộng với lâm tặc có bảo kê từ kiểm lâm là tác nhân gây nên các hiện tượng lũ quét, lũ ống, sạt lở núi đồi. Nhiều bằng chứng cho thấy mất rừng, lũ lụt xảy ra ở ngay thượng nguồn chứ không phải hạ lưu. Vì mất rừng mà những cơn lũ đổ thẳng từ thượng lưu xuống hạ lưu mà không có gì ngăn cản được.

Báo chí vạch ra cánh rừng phòng hộ huyện Đức Cơ đang từ gần 15.000 ha, chỉ chưa đến chục năm (từ 2011- 2019) đã chỉ còn một nửa. Không chỉ riêng ở Đức Cơ mà hàng chục ngàn ha rừng trên địa bàn tỉnh Gia Lai và cả Tây Nguyên đã biến mất bởi nạn phá rừng, bởi những dự án thuỷ điện…

Thủy điện An Khê – Ka Nak là điển hình cho sự tính toán sai lầm của các quan ký giấy cho nó được phép phá rừng để thành lập. Khi đi vào hoạt động nó đã gây thiếu hụt nguồn nước nghiêm trọng đối với hạ lưu sông Ba, khiến trên 6.500 hộ dân thiếu nước sinh hoạt; gần 7.000 ha cây trồng bị hạn.

Những bạt ngàn cao su, cà phê, hồ tiêu từng mọc lên trên khắp các nông trường của tập đoàn, công ty này nọ cũng là nguyên nhân chính khiến cho việc phá rừng được hợp thức hóa. Các đơn vị chủ quản như Bộ Tài nguyên- Môi trường không hề thấy rằng các mảng xanh của cà phê, cao su, hay hồ tiêu không thể thay thế cho rừng phòng hộ chứ chưa nói đến rừng nguyên sinh. Các loại cây công nghiệp không có bộ rễ đủ dày để ngăn lũ chưa nói việc thải khí của chúng không thể là môi trường cho các loại động vật khác sinh sống dưới táng lá của chúng.

Năm 2017 người dân ở các tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Lai Châu, Sơn La… liên tiếp bị lũ ống, lũ quét, sạt lở đất. Hay các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình… trong năm nay phải oằn mình hứng chịu sự tàn phá của gió bão đều do phá rừng đầu nguồn gây ra.

Đại biểu Ksor H’Bơ Khăp có lẽ là bông hoa duy nhất tại Quốc hội dám thẳng thắn chất vấn Bộ trưởng Tài nguyên- Môi trường Trần Hồng Hà về các dự án thủy điện vừa và nhỏ. Câu trả lời mà bà nhận được hoàn toàn thiếu vắng một trách nhiệm dù nhỏ nhất của người đứng đầu bảo vệ thiên nhiên. Ông Hà khẳng định, ông không nói thủy điện là nguyên nhân hay không phải là nguyên nhân gây ra bão lũ, sạt lở miền Trung những ngày vừa qua mà muốn nói con người là nguyên nhân khi quyết định công trình thủy điện thân thiện với môi trường hay không.

Câu trả lời huề vốn và đổ tội cho…nhân dân của ông Hà chưa làm cho người ta cười cợt ông bằng câu: “Sắp tới, đối với rừng phòng hộ đặc dụng, những nơi nào không còn rừng nhưng chức năng của nó là phòng hộ và bảo vệ con người thì chúng ta phải thu hồi lại rừng. Và phải phục hồi rừng nguyên sinh đúng với bản chất tự nhiên”.

Học sinh lớp Năm cũng đã hiểu rừng nguyên sinh là loại rừng gì, chúng có thể phục hồi hay không nhưng một Bộ trưởng của Bộ tài nguyên Môi trường lại không hiểu chữ “nguyên sinh” thì làm sao ông ta hiểu sự nguy hiểm của nạn phá rừng để làm thủy điện?

Và vì vậy làm sao tòa án có thể đem những cái đầu phá hoại này ra xét xử như đã xét xử người dân hiền lành ngu dốt như chị Hồ Thị Thêm chỉ một héc ta rừng đã chịu cảnh ngồi tù 12 tháng?

Những hồ thủy điện vừa và nhỏ khiến nhóm lợi ích ngày càng mập mạnh, trong khi người dân miền Trung thì rưng rưng nước mắt hiện nay có gì dính líu tới nhau hay không?

Dân hỏi, không ai chịu giả nhời

 


Nguyễn Thông|

Thời thập niên 60 thế kỷ trước, nhà thơ Huy Cận thăm chùa Tây Phương, ngắm các vị la hán rồi suy nghĩ “Một câu hỏi lớn không lời đáp/Cho đến bây giờ mặt vẫn chau”. Ôi giời, trách gì các vị tượng gỗ mít ấy, bây giờ nhan nhản người thật, có ông đít ngồi hai, ba ghế mà ra cái trò gì. Hỏi cũng không thèm trả lời.

– Cả bộ máy, quan chức các cấp lẫn truyền thông, cứ vài ba bữa lại ríu rít sung sướng tự khen mình, nào là tăng trưởng, giữ ổn định, hoàn thành mục tiêu kép, dọn tổ đón đại bàng, đứng vào top này top nọ trong khu vực, trên thế giới… nhưng chỉ có mỗi việc trong tầm tay là kéo hạ giá thịt lợn (heo) xuống mà suốt 1 năm trời không làm được. Giá thịt lợn tăng (trưởng) vọt chóng mặt từ trước tết Canh Tý tới giờ, có nhẽ tết Tân Sửu này dân vẫn phải nhịn thịt, chết thèm chết nhạt.

Dạo chưa có cuộc cách mạng ngược về thịt lợn, giá đội khung chưa tới trăm nghìn một ký, bình thường chỉ bảy, tám chục; còn nay nó vẫn ngạo nghễ ngự ở ngôi gần hai trăm (hôm qua tôi thèm thịt quá, cắn răng mua, dững trăm tám). Chỉ dân chúng nói “không” với thịt thôi, chứ các ông bà ấy hằng ngày xơi nem công chả phượng, cần gì lợn với liếc.

– Cái sổ hộ khẩu tai ách cũng vậy. Đã xác định nó là rác, là cùm, làm xong nhiệm vụ lịch sử trói buộc dân, chỉ có bỏ mà cũng bàn tới bàn lui, hẹn lần hẹn lữa. Là rác, thì vứt mẹ nó vào sọt rác, lại còn vẽ ra quy trình, bước này bước nọ. Từ khi nắm chính phủ năm 2016, ông Phúc đã đặt vấn đề bỏ sổ hộ khẩu và đóng cửa rừng. Nay thì rừng đã phá xong, núi đồi sạt lở ầm ầm, chả cần đóng nữa. Còn sổ hộ khẩu, nhiệm kỳ 5 năm của ông Phúc sắp hết, nó vẫn trơ tuế nguyệt. Có mấy ông bà rao, hứa cuối năm 2022 sẽ bỏ. Nghe hẹn hoài. Hay thôi, đừng bỏ nữa, mà làm thêm sổ vợ chồng, sổ gia đình, đã hành dân thì nhân tiện hành luôn thể.

– Phải thực lòng mà nói, rất chán các ông bà nghị, còn gọi là đại biểu quốc hội. Xuân thu nhị kỳ, chỉ có diện quần áo đẹp đi họp. Cái cần bàn không bàn, cứ lững thững, lửng thửng vẩn vơ, chả khác gì người nhàn nhã vô lo vô nghĩ. Lại thêm bà chủ trò, ê a như trẻ con ê a trong xóm vắng. Rồi cũng thành công tốt đẹp như đại hội đảng thôi. Hay là các ông bà nghỉ họp đi, ít nhất cũng tiết kiệm được tiền cho ngân sách, làm được điều có lợi cụ thể cho dân. Ê a hoài, mệt./.

Lợi đảng hại dân thì làm

 


Có điện để dùng nhưng phải có người chết vì hệ quả môi trường của nhà máy nhiệt điện thì người quản trị quốc gia cần phải biết. Nhà máy nhiệt điện mang lại lợi nhuận cho chủ đầu tư, mang lại lợi nhuận cho nhà thầu độc quyền mua bán điện EVN, nhưng cái giá của nó thì người dân gánh. Nhiệt điện gây ô nhiễm không khí tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư, thủy điện thì tàn phá rừng tăng nguy cơ tai họa do bão lũ. Những thiệt hại đó chủ đầu tư các nhà máy điện và EVN có gánh không?

Ngày 12/11/2020 trên tờ Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn có bài “Việt Nam vẫn ‘mê’ nhiệt điện than?” có nói rằng, trong khi các nguồn điện sạch như điện gió và điện mặt trời lên ngôi trên thế giới thì Việt Nam vẫn chuộng nhiệt điện than và thủy điện. Trong đó chất thải của nhiệt điện than thì làm ô nhiễm môi trường bằng chất thải độc hại còn thủy điện thì phá rừng làm mất cân bằng sinh thái. Tờ báo nói về chiến lược phát triển ngành điện Việt Nam là “được điện, mất môi trường”. Đúng! Nhưng đó chỉ là cách nói nhẹ đi mà thôi, cần phải chỉ đích danh những thiệt hại ẩn đằng sau đó là gì kìa? Đó là tiền đầy túi lợi ích nhóm ngành điện và EVN, còn sinh mạng, tài sản, mùa màng và bệnh tật thì dân gánh.

Nhìn vào cái lợi và cái hại do nhiệt điện và thủy điện gây ra thì rõ ràng, chính quyền này đang vì quyền lợi đảng chứ chẳng phải vì dân. Những chủ đầu tư nhà máy nhiệt điện và thủy điện đều có dính dáng đến nhóm lợi ích, còn EVN khỏi phải nói, nó là đứa con cưng của chính phủ. Nhiệt điện than chính là công nghệ rác nhập về từ Trung Cộng. Trung cộng là một quốc gia đang gánh hậu quả rất nặng nề từ thứ công nghệ lạc hậu này, họ muốn xuất sang Việt Nam để tống khứ đống rác ấy đi thì Việt Nam lại nhập về. Tàu xuất công nghệ rác tất nhiên giá bèo, ở Việt Nam người ta nhập thứ rác thải đó vào và được xác định là thứ “công nghệ mới”. Giá xuất là giá rác, giá nhập là giá của một loại công nghệ mới thì tất nhiên sự chênh lệch giá rất lớn. Khoản chênh lệch đó sẽ vỗ béo các nhóm lợi ích trong ĐCS. Còn hậu quả? Dân phải xuất tiền túi để chữa bệnh ung thư của mình. Đó là cái giá mà dân phải gánh.

Còn thủy điện thì chắc không phải nói nhiều. Trong suốt tháng 10 và những ngày đầu tháng 11 vừa qua miền trung đã gánh quá nhiều thiệt hại do thiên tai mà trong đó có nguyên nhân phá rừng làm thủy điện đóng một phần không nhỏ trong thảm họa. Nếu nói nhiệt điện than dân phải chi tiền chữa bệnh ung thư, thì thủy điện làm cho dân phải mất mạng mà không gì có thể cứu họ được.



Ngày 13/11/2020 trên Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn, bài viết “Samsung, Toshiba dừng đầu tư các dự án nhiệt điện than” có cho biết rằng tại Hàn Quốc, Samsung vấp phải làn sóng phản đối mạnh mẽ từ xã hội buộc Samsung cam kết dừng đầu tư vào các dự án nhà máy nhiệt điện. Không những thế, tổng thống Moon Jae-in còn phải cam kết với dân Hàn rằng, năm 2050 Hàn Quốc sẽ đạt mục tiêu zero ròng về khí thải carbon và sẽ chi tiêu 8.000 tỉ won (7,2 tỉ đô la Mỹ) cho tăng trưởng xanh. Tại Nhật Bản công ty Toshiba cũng gặp cảnh tương tự như Samsung và họ cũng cam kết tương tự. Thêm vào đó, chính phủ Nhật Bản cũng cam kết với người dân nước họ là phải giảm khí thải về khí thải carbon về zero vào năm 2050.

Ngày 13/12/2018 trên báo Vietnamnet, bài viết “Nếu ngàn người chết vì nhiệt điện than: Việt Nam phải cảnh báo ngay cho Mỹ” có cho biết rằng “Đại học Havard (Mỹ) thì mỗi năm Việt Nam có 4.300 người chết yểu do nhiệt điện than, tới 2030, khi nhiệt điện than đạt 300 tỉ kWh thì số người chết yểu sẽ là 17.500 người”. Và tất nhiên, phía Việt Nam phủ nhận nghiên cứu này. Uy tín của trường Havard sẽ bảo chứng cho con số, không ai lại tin quan chức CS mà bác bỏ con số nghiên cứu của một trường đại học hàng đầu thế giới. Không phải ngẫu nhiên mà Nhật, Hàn đều có động thái xóa bỏ dần dự án nhiệt điện than đâu. Nó rất nguy hại, nguy hại hơn chúng ta tưởng. Chỉ có ĐCS Việt Nam vốn xem nhẹ sinh mạng dân mới nhắm mắt làm càn vì tiền thôi chứ Nhật và Hàn họ không thể./.

-Đỗ Ngà-

Tham khảo:

https://vietnamnet.vn/…/ngan-nguoi-chet-vi-nhiet-dien…

Bất bình, phẫn nộ cũng… tăng!

Theo VOA/Trân Văn/14/11/2020

Một lớp học tại Núi Thành, Đà Nẵng, 2020. Hình minh họa.

Bộ Giáo dục – Đào tạo (GDĐT) Việt Nam tiếp tục khuấy động dư luận khi giới thiệu Dự thảo Nghị định về Cơ chế thu, quản lý học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập, giá dịch vụ trong lĩnh vực GDĐT.

Dự thảo vừa kể nhằm thay thế một nghị định cùng loại đã được chính phủ Việt Nam ban hành cách nay năm năm (Nghị định 86/2015/NĐ-CP) và điểm đáng chú ý nhất của dự thảo là… tăng học phí của tất cả các bậc học. Học phí của các bậc từ mầm non đến phổ thông sẽ tăng 7,5% mỗi… năm và học phí đại học sẽ tăng 12.5% mỗi… năm (1).

***

Tuy hệ thống truyền thông chính thức chỉ giới thiệu ý tưởng này và không bình luận gì thêm nhưng độc giả không ngần ngại bày tỏ sự bất bình trên các diễn đàn điện tử do hệ thống truyền thông chính thức kiểm soát. Chẳng hạn trên trang facebook của VTC (VTC Now), Kim Lan Nguyen Van nhận định, nỗ lực soạn thảo nghị định mới nhằm thay thế nghị định cũ là một kiểu… vắt óc để tận thu! Sican Nguyen thì thắc mắc: Tại sao các quốc gia khác nỗ lực giảm học phí, chi phí y tế còn Việt Nam thì làm ngược lại? Khánh Ngọc Trần than: Phổ cập (miễn học phí) kiểu gì mà chưa hoàn thiện đã hết hiệu lựcĐủ các loại thuế, phí rồi lại lấy đà tăng học phí!

Pham Sinh nhận xét: Vậy là con nhà nghèo không còn cơ hội học hành! Thoa Phan xem dự thảo nghị định vừa đề cập là con đường đồng hóa nhà nghèo với mù chữ. Tuyen Nguyen khuyên hệ thống chính trị, hệ thống công quyền: Nghĩ cái gì bổ ích cho dân chúng tôi đỡ khổ đi mấy bác (2)!..

Trung tâm Tin tức VTV24 cũng giới thiệu dự thảo nghị định về học phí trên trang facebook của cơ quan truyền thông này. Theo ghi nhận của facebook, có tới 41.000 bình luận, 2.000 facebooker chia sẻ tin của Trung tâm Tin tức VTV24 nhưng thiên hạ chỉ đọc được… sáu ý kiến. Người ta thấy Nguyễn Thảo than: Rất nhiều sinh viên đã bỏ dở việc học hành, giờ lại tăng chắc phải nghỉ học thật ạ! Thanhngoc Nguyen cũng than: Lại tăng, tăng thuế , tăng phí, tăng..., chỉ có dân lao động nghèo là khổ! Nguyễn Văn Đình dùng icon chắp tay vái ba lần tình trạng… chất lượng giáo dục đi xuống mà học phí lại… đi lên. Thiệu Kim Vân lắc đầu: Cái gì cũng tăng, chỉ tăng lương là chẳng ai bàn (3)!

***

So với phản ứng của độc giả trên những trang facebook thuộc hệ thống truyền thông chính thức, phản ứng của người dùng mạng xã hội trên các trang facebook của cá nhân, hoặc của các nhóm không phải tuân thủ những quy định ngặt nghèo của Ban Tuyên giáo thuộc BCH TƯ đảng, dữ dội hơn.

Chẳng hạn trên trang Tuổi học trò, Thế Minh mỉa mai: Thời buổi khó khăn, đủ kiểu dịch bệnh, bão lũ, không tăng học phí thì… làm gì? Giống như Thế Minh, Thành Tài bình: Dịch bệnh, bão lũ liên miên, tăng học phí là… quá hợp lý! Đức Minh khen, dự tính tăng học phí là nỗ lực nhân đôi nghèo khổ! Trước những thắc mắc tại sao chính phủ lại có ý tưởng bất cận nhân tình như thế, Lieu Trung Nghĩa phỏng đoán: Có thể các ‘bố’ thấy dân đóng góp cho hoạt động từ thiện nhiều quá nên… thèm! Quan sát phản ứng giận dữ và sự thất vọng của công chúng về dự tính tăng học phí, Bao Bui khen dự tính ấy là… một nỗ lực… tốt vì giúp… giảm ngu dốt (4)!..

Giống như nhiều facebooker khác, Khanh Nguyen cũng thắc mắc, trong bối cảnh như hiện nay, tại sao Bộ GDĐT không đả động gì đến việc miễn, giảm học phí cho học sinh, sinh viên các khu vực bị thiên tai mà chỉ chuyên chú vào phương án tăng học phí? Đó cũng là lý do Khanh Nguyen nhắn hỏi Bộ trưởng GDĐT rằng, ông có còn nhân tính không? Trần Quang Thái – một thân hữu của Khanh Nguyen – “chỉnh” Khanh Nguyen: Bộ trưởng GDĐT… thừa thú tính nhé (5)! Giống như Khanh Nguyen, Đặng Huỳnh Lộc xem việc Bộ GDĐT dự tính tăng học phí các cấp ngay sau khi lương dân vật lộn với đại dịch, thiên tai là… sự nhẫn tâm đối với cả dân tộc, do vậy… hãy cút đi (6)!

Tham gia bình luận về dự tính tăng học phí các cấp trên trang facebook Bds Phu CuChi, Thinh Le Phuoc so sánh, mức phạt vi phạm giao thông tăng năm lần, chi phí dịch vụ y tế tăng gấp đôi như thế là giàu… không đồng đều. Không tăng học phí để xảy ra tình trạng… giàu không đồng đều sẽ gây… mất đoàn kết, chia rẽ thì nguy to. Sống Đời bỡn cợt: Tăng gấp đôi luôn. Phải chết thì cho chết luôn chứ tăng học phí ít như vậy sẽ… cắn xé nhau. Còn dân? Sống chết mặc bay (7)... Phuc Dinh Kim cũng nghĩ như vậy nên lý giải nguyên nhân dẫn đến nỗ lực tăng học phí hết sức ngắn gọn: Tại sao học phí phải tăng? Vì tham nhũng tăng (8)!

***

Trong khi rất nhiều người nguyền rủa Bộ trưởng GDĐT, Vinh Râu lưu ý: Cứ nhìn giá điện, giá xăng, mức tăng các khoản phạt, kể cả khoản phạt không mang khẩu trang nơi công cộng của Bộ Y tế, rồi Luật Giao thông đường bộ bị ngắt làm đôi cho hai bộ cai quản giống như nâng “suất ăn” lên gấp đôi,… ắt sẽ thấy, toàn bộ chính phủ cùng nỗ lực “kiến tạo” cách lấy tiền dân sao cho nhiều chứ chẳng riêng gì Bộ GDĐT. Dịch bệnh, thiên tai không làm chùn tay những kẻ bóc lột có môn bài đâu bà con ạ! Nếu không có chính phủ bật đèn xanh dưới gầm bàn, đố ông Bộ trưởng GDĐT dám đơn phương tăng học phí. Chỉ chửi một mình ông ta xem ra không công bằng lắm đâu!

Vinh Râu cảnh báo: Đừng nhìn cái mặt như hề của ông Bảy Thủ mà không… đề phòng móc túi. Lầm chết luôn đó! Câu ca dao này của ông bà: Bộ Binh, Bộ Hộ, Bộ Hình. Ba Bộ đồng tình…- chưa lỗi thời đâu nhé! Một số thân hữu của Vinh Râu như Nguyễn Thúy Hà bỡn cợt: Chính phủ “kiến tạo” đang đưa chúng ta đến… đỉnh của cuộc sống thiên đường mà! An Tran giả vờ hoang mang: Thiên đường này bị ngược ngược thế nào ấy! Vinh Râu nói lại cho rõ: Đó là địa ngục nói ngược thôi! Thang Le buột miệng: Ngày xưa họ tuyên truyền chế độ phong kiến, thực dân là sưu cao thuế nặng. Bây giờ, mẹ kiếp, gấp vạn lần (9)!..

Chú thích

(1) https://tintucvietnam.vn/bo-gddt-de-xuat-tang-hoc-phi-muc-tang-tung-cap-the-nao-d251577.html

(2) https://www.facebook.com/vtcnow/posts/2744463332438242

(3) https://www.facebook.com/tintucvtv24/posts/1733831386804642

(4) https://www.facebook.com/tuoihoctro.net/posts/2884454758439738

(6) https://www.facebook.com/huynhlocpl/posts/4120653387951592

(7) https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=172160941201974&id=100052242080472

(8) https://www.facebook.com/phuc.dinhkim.7/posts/2821886334697664

(9) https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=183137789966149&id=100048097861219

Xin hỏi đồng bào hải ngoại, năm nay bà con đã mở ví từ thiện bao nhiêu rồi?

 Hình minh hoạ. Một cậu bé nhận tiền từ người tình nguyện tại vùng bị lụt ở Quảng Bình hôm 23/10/2020

Hình minh hoạ. Một cậu bé nhận tiền từ người tình nguyện tại vùng bị lụt ở Quảng Bình hôm 23/10/2020-Reuters



Xin hỏi một câu, những ông bà anh chị em cô bác người Việt ở nước ngoài, năm nay ông bà cô bác anh chị em đã gửi bao nhiêu tiền về để từ thiện tại Việt Nam rồi?

Ông bà cô bác có biết đồng tiền của mình đã tới tay người được tặng và người đó sử dụng ra sao chưa?

Đã nhiều lần tôi muốn khuyên ông bà anh chị em nên giữ chặt cái ví. Làm việc ở nước ngoài không phải là đào tiền trong mỏ, mọi người cũng rất vất vả, có người dành dụm cả năm đưa gia đình về thăm quê một chuyến là sạch nhẵn không còn đồng nào. Ấy vậy nhưng rất nhiều người rất sẵn lòng mở ví với rất nhiều cuộc quyên góp ở quê nhà, dưới danh nghĩa từ thiện.

Từ thiện-theo cách hiểu và cách làm của đại đa số người Việt Nam trong nước, thường diễn ra khi có thiên tai. Đó là mỗi người góp ít tiền, rồi tự mình hoặc cùng bạn bè người thân, mua thực phẩm và đi đến tận nơi gửi cho những người gặp nghịch cảnh. Hoặc góp cho người quen, chùa, nhà thờ, tổ chức tôn giáo của mình, hoặc những năm gần đây là góp cho các ngôi sao giải trí nổi tiếng mà mình yêu thích để họ thay mình đi đến tận nơi.

Miền Trung Việt Nam hứng chịu thiên tai nặng nề đã cả trăm năm nay, cứ vài năm lại một trận lụt lịch sử hay bão kỷ lục thế giới. Năm nào tiền từ thiện cũng chảy về ồ ạt, nhưng có khi nào ông bà cô bác nhìn lại xem đồng tiền mồ hôi nước mắt của mình có thực sự giúp được những nạn dân một cách hữu ích nhất chưa?

Tôi dám thề chẳng ai bỏ công ra làm chuyện này.
Hầu hết đều sẽ chấm dứt sự quan tâm tới những đồng bào thiếu may mắn khi lệnh gửi tiền đã hoàn tất. Hoặc khi thùng mì gói đã được trao cho gia đình nào đó.

Họ ăn hết thùng mì đó, rồi làm gì để sống tiếp qua cơn hoạn nạn? Chẳng ai quan tâm nữa đâu.

Năm nay lụt, sang năm lụt, họ sẽ làm gì để sống tiếp với thiên tai định kỳ như vậy? Cũng chẳng ai quan tâm nữa đâu.

Lòng tốt của đại đa số người Việt chúng ta cũng giống y nước lũ miền Trung, đổ xuống nhanh thất thần, rút cũng tốc hành không kém.

Đương nhiên từ thiện hoàn toàn tốt, để cấp thời bổ sung những nhu cầu cấp thiết của người gặp nạn. Nhưng việc trao quà, tặng tiền mặt chỉ nên đến đó là dừng. Còn khi bão tố qua đi, nước lũ đã rút, không nên lại vô số đoàn từ thiện vẫn ùn ùn đến miền Trung để tặng tiền, tặng thực phẩm, tặng quần áo… tận tay từng hộ dân nữa.

Hình minh hoạ. Người dân ở Nghệ An gói bánh chưng để trợ giúp người dân vùng bị lụt hôm 20/10/2020
Hình minh hoạ. Người dân ở Nghệ An gói bánh chưng để trợ giúp người dân vùng bị lụt hôm 20/10/2020 Reuters

Ông bà cô bác đọc báo mạng đều biết sau thiên tai, tái thiết cuộc sống mới là khó khăn hơn. Ví dụ nhà cửa sau bão bị bay tôn, vỡ ngói, nhưng các tiệm buôn bán ngay tại địa phương đều tăng giá tôn ngói lên gấp nhiều lần, có thể đến mười lần, như tại nhiều tỉnh miền Trung sau cơn bão số 12 vừa rồi. Đoàn nọ đoàn kia đi phát tiền, tối đa cũng được đến 10 triệu/hộ dân là cao lắm rồi. Nhưng chỉ tính ở các đoàn nhóm từ thiện tư nhân tự phát, tổng số tiền cho đi cũng hàng vài trăm tỷ đồng. Chưa kể mỗi đoàn từ thiện ra miền Trung còn tốn rất nhiều tiền ăn ở, đi lại, chi phí thuê xe, thuê xuồng ghe chở vào vùng lũ...

Số tiền rất lớn đó nếu được điều hành và phân bố cẩn trọng, thì đã tạo được sự thay đổi lớn lao hơn cho miền Trung. Ví dụ các nhà hảo tâm có thể gom lại để mua tôn ngói giá sỉ từ các nhà máy, chở ra miền Trung phát cho các hộ dân cần sửa chữa nhà. Tiền mua mì gói (nhiều đến nỗi trên mạng có người kể đã nhận được 35 thùng mì trong tuần đầu của trận lũ-họ sẽ đem bán lại) có thể trích ra rất nhiều để mua hạt giống, sửa chữa nông cụ, làm sạch nguồn nước, dọn dẹp môi trường.

Vài trăm tỉ đồng chỉ trong một vài tuần. Nếu dùng nó để đối ứng với người dân, xây những căn nhà kiên cố có tầng cao để chống lũ, hoặc những ngôi nhà phao có thể nổi như ở Quảng Bình, thì tự nhiên lũ lụt bão tố năm sau sẽ bớt rất nhiều những cảnh đau thương.
Những ngôi nhà chống lũ hộ gia đình khá đơn giản. Một dạng thông thường là nhà xây có móng vững, tường cao vài mét đủ để làm một cái gác phía trên. Giá thành hoàn thiện từng căn nhà không cố định, trong khoảng từ 80 - 180 triệu đồng. Trong đó, dự án Nhà Chống Lũ hỗ trợ trung bình 45 triệu đồng/hộ. Phần còn lại các hộ dân tự lo, hoặc tìm kiếm thêm các nguồn tài chính khác, hoặc đối ứng phần nhân công và tận dụng các nguồn vật liệu của nhà cũ còn sử dụng được. Ông bà cô bác tự tính giùm, vài trăm tỉ đồng sẽ làm được bao nhiêu ngôi nhà tránh lũ?

Hình minh hoạ. Người xếp hàng chờ nhận mì ăn liền ở Hải Lăng, Quảng Trị hôm 16/10/2020
Hình minh hoạ. Người xếp hàng chờ nhận mì ăn liền ở Hải Lăng, Quảng Trị hôm 16/10/2020 AFP

Chắc ông bà cô bác sẽ hỏi: coi trên mạng bà con người ta còn ở trong cái nhà như cái lều lụp sụp, bữa ăn còn chạy sấp ngửa, tiền đâu vài chục triệu để họ đối ứng?

Thực tế như vầy: ở đâu cũng có những gia đình chưa cần lũ lụt bão tố cũng đã chạy ăn từng bữa. Có thể do neo đơn, sức lao động hạn chế, già yếu, bệnh tật. Hoặc đơn giản chỉ là lười biếng, ăn nhiều hơn làm, hoặc thậm chí cờ bạc lô đề, nhậu nhẹt, nên quanh năm suốt tháng thiếu thốn.

Bỏ ra những gia đình neo đơn hoặc hoàn cảnh đặc biệt. Nếu là ngày thường, sẽ chẳng ai quan tâm nhiều đến những gia đình cờ bạc lười biếng chơi bời. Nhưng khi thiên tai xảy ra, các đoàn cứu trợ tự phát đến địa phương, lập tức sẽ động lòng với những gia đình này trước hết, vì nhà cửa, hoàn cảnh sinh hoạt của họ đều tồi tệ hơn người khác. Sau bão lũ thì trở thành bi thảm. Vậy là rưng rưng móc ví ra, cũng bất chấp như nước lũ.

Việc được giúp đỡ quá dễ dàng, chỉ căn cứ vào tiêu chí “nhìn thấy tội nghiệp” sẽ kích thích lòng tham và sự ỷ lại. Ngay ở Sài Gòn, mấy năm trước dân tình đã vạch mặt “người cha tội nghiệp có 2 con bị bại não, vợ bỏ đi, hàng ngày chở theo con trong “chuồng” trên xe, bán bánh nuôi con.

Những đường dây nuôi trẻ ăn xin chưa bao giờ chấm dứt cũng dựa trên thói thương cảm hời hợt này.

Vậy thì ông bà cô bác ở hải ngoại nên làm gì? Rõ ràng không thể cầm lòng trước sự khổ sở của đồng bào mình, nhưng đồng tiền của mình đều đổ mồ hôi mới có, vậy nên sử dụng nó thế nào?
Xin có lời khuyên: Ông bà cô bác không tin nhà nước, điều đó không việc gì. Có hàng ngàn tổ chức xã hội, phi chính phủ, quỹ từ thiện nhân đạo, doanh nghiệp xã hội… đang hoạt động trên mảnh đất Việt Nam. Có tổ chức cứu trợ khẩn cấp, có tổ chức bảo trợ học hành, chữa bệnh, dạy nghề. Có tổ chức trồng rừng, khôi phục thiên nhiên. Có tổ chức chống nghiện ngập, cai ma túy, cai rượu…

Họ hoạt động chuyên nghiệp, có kiểm soát, đầu năm có dự án, cuối năm đều phải báo cáo thu chi, hiệu quả cho người tài trợ. Ngoài ra, còn có luật pháp và các tổ chức ràng buộc khác kiểm soát chéo họ.

Ông bà hãy chọn lấy một hoặc vài tổ chức đó, nhìn xem lịch sử họ đã làm gì, có phù hợp với mong muốn của mình không, rồi quyên góp cho họ. Ít nhất so với việc cô ca sĩ Thủy Tiên ôm một cục tiền của vô số nhà hảo tâm đi phát một cách tùy hứng và còn cẩn thận dặn hờ trước là việc sao kê minh bạch rất khó, có gì sơ suất xin thông cảm, thì rõ ràng các tổ chức chuyên nghiệp đáng tin hơn nhiều.

Xin dặn lại, đồng tiền của chúng ta kiếm ra không dễ dàng. Nên dùng nó một cách khôn ngoan có tính toán. Việc giúp đỡ đồng bào của mình nên là việc làm thành thật và giúp họ tự đứng vững trên đôi chân của bản thân. Đừng dễ dãi quăng đồng tiền ra chỉ để xoa dịu mong muốn làm việc tốt của chính mình, nhưng trong thâm tâm thì coi đồng bào của mình như những kẻ đáng thương hại cần được bố thí vậy.

* Bài viết không thể hiện quan điểm của Đài Á Châu Tự Do



Đảng Cộng sản Việt Nam thật sư lắng nghe dân để có “văn bia muôn đời sau”?

Theo RFA-2020-11-16

 Ảnh minh họa. Người dân Việt Nam biểu tình phản đối hai dự Luật An ninh mạng và Luật Đặc khu. Hình chụp ngày 10/6/18 tại Sài Gòn.

Ảnh minh họa. Người dân Việt Nam biểu tình phản đối hai dự Luật An ninh mạng và Luật Đặc khu. Hình chụp ngày 10/6/18 tại Sài Gòn.-AFP

Đảng luôn lắng nghe dân?

Trong bài viết “Đảng luôn lắng nghe dân để có ‘văn bia muôn đời sau’”, tác giả Nguyễn Tấn Tuân giải thích rằng việc lấy ý kiến góp ý của nhân dân vào các dự thảo văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng được tiến hành nhằm để tập hợp, phát huy trí tuệ, quyền làm chủ của người dân trong tham gia hoạch định đường lối, chủ trương lãnh đạo, quyết sách quan trọng của Đảng đối với đất nước và sự nghiệp cách mạng; góp phần nâng cao chất lượng dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng.

Tác giả Nguyễn Tấn Tuân còn nhấn mạnh mặc dù thời gian lấy ý kiến của người dân chỉ diễn ra trong 20 ngày (từ ngày 20/10 đến ngày 10/11), nhưng toàn xã hội cùng tham gia. Đồng thời khẳng định rằng trên cơ sở định hướng và sự thật tâm cầu thị của Trung ương, nhân dân trên mọi miền Tổ quốc đã chủ động nghiên cứu, tự giác nêu chính kiến, quan điểm, chia sẻ kinh nghiệm, đề xuất giải pháp, đóng góp cho Đảng thông qua các kênh tiếp nhận khác nhau. Người dân làm việc đó một cách tự giác, chứ không gò ép, hay bị bắt buộc.

Bài viết được kết luận với sự quả quyết rằng việc lấy ý kiến nhân dân đóng góp vào các dự thảo văn kiện trình Đại hội XIII cho thấy Đảng CSVN lãnh đạo luôn cầu thị, tiếp thu cao nhất trách nhiệm, trí tuệ của nhân dân, quyết tâm xây dựng các văn kiện của Đảng trở thành "văn bia để lại muôn đời sau".

Người dân nói gì?

Chúng tôi nghĩ rằng là mình phải nói tiếng nói đúng đắn, đàng hoàng và có lập luận, có suy nghĩ tử tế và có lợi cho công việc chung của dân, của nước. Dó đó, cũng phải lên tiếng. Tuy nhiên, chủ yếu là nói cho dân nghe. Nhưng mặt khác, chúng tôi nghĩ rằng họ buộc phải lắng nghe bởi vì đây là tiếng nói chính khí mà nó phản ảnh khuynh hướng tiến bộ, nhân văn, vì dân-vì nước thật lòng. Chúng tôi hy vọng trong Đảng có những người mà chúng tôi gọi là ‘cơ hội cấp tiến’ thì họ sẽ tìm cách lợi dụng để đưa những ý kiến đóng góp ấy vào những chính sách và giải pháp. Vì thế, có thể nói là hy vọng, chứ không hoàn toàn tuyệt vọng
-Ông Nguyễn Khắc Mai

Truyền thông Nhà nước Việt Nam, hồi đầu tháng 10, loan báo trang tin điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam-Đại hội XIII vừa ra đời với mục đích được nói nhằm giới thiệu nội dung văn kiện Đại hội XIII của Đảng giúp người dân hiểu đúng hơn đường lối, quan điểm xây dựng và bảo vệ tổ quốc, phát triển đất nước. Trang tin này cũng là nơi trao đổi, tiếp nhận và phản hồi ý kiến của các tổ chức chính trị-xã hội, các cán bộ lão thành, các nhà khoa học, văn nghệ sĩ, kiều bào, các tầng lớp nhân dân đóng góp vào dự thảo văn kiện Đại hội XIII của Đảng.

Vào thời điểm đó, nhà báo độc lập Nguyễn Ngọc Già lên tiếng với RFA rằng trang web này “chỉ là một thủ đoạn mị dân”. Cựu tù nhân nhân quyền Nguyễn Ngọc Già giải thích rằng người dân có góp ý thì Đảng CSVN cũng không nghe vì họ không bao giờ lắng nghe dân; bởi do bất cứ nhà nước cộng sản nào cũng là một nhà nước tiếm quyền dân và luôn nhìn người dân ở góc độ xấu cũng như coi đó là sự đối đầu.

Ông Nguyễn Khắc Mai, nguyên Vụ trưởng Vụ Nghiên cứu, Ban Dân vận Trung ương, vào tối hôm 16/11, nói với RFA về ghi nhận liên quan của ông:

“Thật ra đây là một lối cũng là mị dân thôi. Trước đó, đã có một bài dài của truyền hình Việt Nam mà nó định hướng, mạ lị và phê phán những ý kiến đóng góp và đã quy chụp đấy là những tư tưởng phản động. Đó là quan điểm chính thống của Đảng rồi. Họ bưng tai, bịt mắt, không nghe đâu. Nhưng, họ buộc phải lên tiếng để nói rằng như là họ thật lòng lắng nghe tiếng nói của dân. Đấy là sự bịp bợm. Theo tôi đánh giá thì không đúng và nó trở thành lố bịch, dối trá, không ai tin được.”

Ảnh minh họa.
Ảnh minh họa. AFP
Đồng quan điểm với nhà báo Nguyễn Ngọc Già và ông Nguyễn Khắc Mai, nhà báo Võ Văn Tạo chia sẻ rằng ông từng rất nhiệt huyết trong việc đóng góp ý kiến trước thời gian Đại hội Đảng X diễn ra.

Nhà báo Võ Văn Tạo kể lại một bài viết của ông đăng trên báo chính thống Nhà nước vào khi đó:

“Ví dụ, khi tôi thấy bắt đầu có chủ trương thành lập ‘Ban Phòng chống tham nhũng’, ở Trung ương thì gọi là ‘Ủy ban Phòng chống tham nhũng toàn quốc’, giao cho Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng làm trưởng ban và ở tỉnh thì các chủ tịch tỉnh là trưởng ban và giám đốc các doanh nghiệp Nhà nước làm trưởng ban, tôi đã viết một bài đăng trên Tuổi Trẻ Cuối Tuần và tôi bày tỏ sự không tán thành chủ trương như thế. Tôi trình bày rằng các chức vụ được giao đương nhiên làm trưởng ban, mà bình thường họ đã có quyền lực rất lớn trong việc phát triển kinh tế-xã hội và có dấu hiệu tham nhũng rơi vào những người có chức có quyền bên phía chính quyền và còn nhiều hơn cả phía Đảng. Thông thường thì ‘tay phải’ các ông ấy ký những dự án mà có khả năng tiêu cực và các ông kiêm luôn trưởng Ban Phòng chống tham nhũng thì ‘tay trái’ các ông ký kết luận là vị nào đó tố cáo không đúng vì làm gì mà xảy ra tham nhũng…Do đó, rất nguy hiểm và rất tai hại.”

Nhà báo Võ Văn Tạo cho biết thêm rằng ông còn viết nhiều bài báo khác để đóng góp ý kiến cho Đại hội Đảng X, và được đánh giá là những ý kiến mang tính xây dựng. Thế nhưng, Đảng đã không lắng nghe.

Trả lời câu hỏi của RFA về ghi nhận cá nhân đối với những ý kiến đóng góp của dân chúng tại Việt Nam cho Đại hội Đảng XIII như thế nào, nhà báo Võ Văn Tạo khẳng định cũng chỉ là hình thức mà thôi.

khi tôi thấy bắt đầu có chủ trương thành lập ‘Ban Phòng chống tham nhũng’, ở Trung ương thì gọi là ‘Ủy ban Phòng chống tham nhũng toàn quốc’, giao cho Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng làm trưởng ban và ở tỉnh thì các chủ tịch tỉnh là trưởng ban và giám đốc các doanh nghiệp Nhà nước làm trưởng ban, tôi đã viết một bài đăng trên Tuổi Trẻ Cuối Tuần và tôi bày tỏ sự không tán thành chủ trương như thế. Tôi trình bày rằng các chức vụ được giao đương nhiên làm trưởng ban, mà bình thường họ đã có quyền lực rất lớn trong việc phát triển kinh tế-xã hội và có dấu hiệu tham nhũng rơi vào những người có chức có quyền bên phía chính quyền và còn nhiều hơn cả phía Đảng. Thông thường thì ‘tay phải’ các ông ấy ký những dự án mà có khả năng tiêu cực và các ông kiêm luôn trưởng Ban Phòng chống tham nhũng thì ‘tay trái’ các ông ký kết luận là vị nào đó tố cáo không đúng vì làm gì mà xảy ra tham nhũng…Do đó, rất nguy hiểm và rất tai hại
-Nhà báo Võ Văn Tạo

“Ý kiến đóng góp cho những việc gì nho nhỏ thì họ có thể nghe. Nhưng những việc lớn thì họ cho rằng vi phạm nguyên tắc xã hội chủ nghĩa và ý thức hệ. Hồi năm kia thì phải, ông Võ Văn Thưởng từng tuyên bố là Đảng không sợ đối thoại và rất nhiều người trong xã hội dân sự và những trí thức có tên tuổi tỏ ra rất huy vọng trước tuyên bố đó. Nhưng mà cho đến nay đâu có đối thoại gì đâu. Cho nên, việc họ đánh trống khua chiêng thì các trí thức hầu như lãng quên và không quan tâm đến chuyện ấy nữa.”

Đài RFA ghi nhận một số cá nhân và tổ chức công khai phổ biến các ý kiến đóng góp cho Đại hội Đảng XIII, không qua trang web điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam-Đại hội XIII, mà qua các mạng xã hội tại Việt Nam. Chẳng hạn như Giáo sư Nguyễn Đình Cống đăng tải một số ý kiến của ông trên trang Facebook cá nhân, hay Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng đăng tải thông tin “Góp ý cho Đại hội Đảng XIII: Về phiên tòa vụ Đồng Tâm và một số vấn đề cải cách chính trị”.

Ông Nguyễn Khắc Mai cho rằng việc đóng góp ý kiến của những người như ông với mong cầu rằng người dân sẽ lắng nghe.

“Chúng tôi nghĩ rằng là mình phải nói tiếng nói đúng đắn, đàng hoàng và có lập luận, có suy nghĩ tử tế và có lợi cho công việc chung của dân, của nước. Dó đó, cũng phải lên tiếng. Tuy nhiên, chủ yếu là nói cho dân nghe. Nhưng mặt khác, chúng tôi nghĩ rằng họ buộc phải lắng nghe bởi vì đây là tiếng nói chính khí mà nó phản ảnh khuynh hướng tiến bộ, nhân văn, vì dân-vì nước thật lòng. Chúng tôi hy vọng trong Đảng có những người mà chúng tôi gọi là ‘cơ hội cấp tiến’ thì họ sẽ tìm cách lợi dụng để đưa những ý kiến đóng góp ấy vào những chính sách và giải pháp. Vì thế, có thể nói là hy vọng, chứ không hoàn toàn tuyệt vọng.”

Ông Tổng Bí thư kiêm Chủ tịch nước Việt Nam Nguyễn Phú Trọng, vào trung tuần tháng 2, đã đăng đàn kêu gọi Văn kiện Đại hội Đảng XIII phải là “văn bia”. Lời kêu gọi này vấp phải sự mỉa mai của công luận vì đa số người dân Việt Nam không hài lòng với sự lãnh đạo của Đảng qua những chính sách không hợp lòng dân. Lời kêu gọi của ông Nguyễn Phú Trọng được dư luận hiểu theo ý nghĩa rằng “trăm năm bia đá cũng mòn, ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ”!