Bảo Giang (Danlambao) - Những cơn sóng biển không bao giờ ngừng lại. Nay chúng có thể tạo ra một trận cuồng phong ở bờ đông. Mai lại có khả năng làm nên một cuộc sóng thần bên bờ tây với những hủy diệt kinh người. Tuy thế, cuộc biến động tại Biển Đông trong những ngày qua, khó có khả năng tạo ra một biến động lớn trên bình diện quốc tế. Nhưng xem ra là nó có đầy đủ những yếu tố cần thiết đưa Việt Nam vào khúc rẽ của lịch sử. Khúc rẽ ấy có thể là:
- Việt Nam sẽ hoàn toàn thay đổi, rũ bỏ cái áo khoác cộng sản, trở thành một nước Cộng Hòa theo thể chế Tự Do. Góp sức vào việc bảo vệ nền hòa bình và tiến bộ của thế giới.
- Quanh co dối trá tiếp nối gian dối, CSVN đẩy dân tộc vào vòng nô lệ thuần phục Trung cộng. Đất nước hoàn toàn tan hoang tê liệt. Khi đó, cuộc chiến cứu nước lại sẽ bắt đầu. Bởi vì:
1. Từ phía tây phương và khối Đông Nam Á
Chuyện Trung cộng lấn chiếm biển đông đang là một đề tài nóng ở trong vùng. Diễn đàn quốc tế, nhiều lãnh đạo trên thế giới tỏ ra bực bội và bất bình về cảnh lấy thịt đè người của Trung cộng. Sự lên tiếng này rồi sẽ ra sao? Theo tôi, nếu không có một động thái thay đổi hoàn toàn, tích cực từ phía Việt Nam, câu chuyện Biển Đông cũng sẽ dừng lại ở vị trí, thế giới tây phương và các nước thuộc vùng Đông Nam Á theo thông lệ ngoại giao mà tuyên bố dăm ba câu nẩy lửa cho qua chuyện, không một nước nào nhảy vào đổ vỏ ốc. Bởi lẽ, họ cũng không mất phần lợi nhuận nếu Trung cộng nuốt chửng biển, đất của Việt Nam! Cách riêng với Hoa kỳ, sẽ chẳng bao giờ có được một sự can thiệp cần thiết bằng quân sự. Hoa kỳ có luật pháp của họ, chẳng một ai có thể vượt qua luật pháp của Hoa Kỷ để ký một Hiệp Ước về quân sự, về an ninh với một nước cộng sản không tôn trọng Nhân quyến và luật pháp quốc tế như tập đoàn CSVN. Theo tinh thần này, Hoa Kỳ sẽ đưa ra những lý luận cứng rắn của họ nhưng với cái nhìn của họ. Nó hoàn toàn khác với cái nhìn và ước mơ của tập đoàn cộng sản tại VN đòi bắt cá hai tay. Nói rõ ràng hơn, Hoa Kỳ dường như đang thúc hối một chương trình hoàn toàn từ bỏ Trung cộng từ phía Việt Nam?
Trong khi đó, vì quyền lợi và an ninh của nước mình, Nhật Bản cũng muốn lôi kéo Việt Nam vào thế liên minh quân sự với họ để chống Trung cộng. Tuy nhiên, thế liên mình này có thể sẽ dừng lại ở vị trí những lời tuyên bố mở ngõ, mời chào. Nó không thể đi đến hành động thực tế. Bởi lẽ, hệ Liên Minh này, nếu có, nó phải được đặt trên một tiền đề Việt Nam phải là một quốc gia Cộng Hòa, không cộng sản. Sẽ không bao giờ có thế liên minh giữa một Nhật Bản, đồng minh quân sự của Hoa Kỳ, ký kết liên minh quân sự với một Việt Nam cộng sản để chống lại một nước cộng sản khác. Chuyến đi Á Châu của TT Obama đã cho thấy thái độ dứt khoát của họ trong cách nhìn về biển đông. Chỉ lên tiếng, không có hành động. Phần các quốc gia khối Asia chỉ là cái trống.
2. Từ phía người dân Việt Nam
Ngày nay không còn một người Việt Nam nào mà không biết tên, không biết mặt cái nguyên nhân đưa đến những hậu quả tai họa cho Việt Nam. Đó là tập đoàn cộng sản Hồ chí Minh. Một tập đoàn đã làm suy thoái tiềm lực quốc gia, một tập đoàn đã làm cho dân ta ra bạc nhược, hèn nhát và ích kỷ trong hơn 70 năm qua. Một tập đoàn không đi chung bước đi với cộng đồng dân tộc, trái lại, chỉ vì quyền lợi của cá nhân và của đảng cộng sản, họ đã tàn sát sinh linh Việt Nam và chỉ biết cúi đầu thờ kẻ thù bắc phương bàng cái búa và cái liềm theo biểu tượng của họ. Búa thì đã đập chết nhiều người rồi, Còn cái liềm thì chưa từng ngơi nghỉ. Nó luôn kề xát vào cổ người dân Việt và không ngừng kéo qua kéo lại cho vết thương ở đó luôn rỉ máu, để người dân ăn không ngon, ngủ không yên và luôn sợ hãi cái liềm sẽ cứa sâu thêm vào cổ họng của mình. Đây chính là một tập đoàn tàn ác mà Bình Ngô đại Cáo đã nhắc đến là:
'Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế
Gây thù kết oán trải mấy mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời' (Bình Ngô Đại Cáo)
Gần đây, dư luận từ trong ra ngoài, xem ra đều có chung một đáp án rõ ràng là. Phải triệt hạ cộng sản trước khi cùng nhau chống ngoại xâm từ phương bắc. Không tận diệt được tập đoàn CS thì không thể nói đến chuyện chống ngoại xâm. Nghĩa là, người dân Việt Nam không bao giò chống xâm lăng từ phương bắc theo cái định chế của HCM và tập đoàn cộng sản nêu ra. Bởi họ đã biết rõ một điều. Sau chiến dịch biên giới 1979, người lình vì quê hương chết không có chỗ chôn thây, nhưng kẻ cướp nước thì được xây đài, đúc tượng trong những nghĩa trang mang tên liệt sỹ Trung Quốc và quan chức nhà nước cúng tế hàng năm! Kế đến là những chuyến bay đưa quan cán thay nhau đi chầu Trung cộng với những bằng khen, với những cái hôn thắm thiết tình hữu nghị và những hàng chữ rẻ tiền, viễn vông. Rồi đằng sau những chuyến đi ấy là nhà tù ở trong nước càng ngày càng có nhiều người lên tiếng bảo vệ Trường Sa, Hoàng Sa là của Việt Nam!
Theo đó, với những ngươi Việt Nam yêu nước tự đáy lòng mình đều biết rằng, cuộc hải chiến của Việt Nam với Trung cộng vào năm 1974 là bước đi truyền thống của dân tộc, là ngọn lửa thiêng không bao giời tắt trong lòng họ. Ước mong của họ là người người từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mâu được sống trong Tự Do. Họ không thách đố, nhưng xem ra, cuộc biến động ở Biển Đông này chính là một cơ hội để giúp họ hoàn thành giấc mơ giải phóng dân tộc ra khỏi gông cùm của cộng sản. Để từ Bắc chí Nam, xóa đi tất cả những hiệp thương hiệp định chia ắt, bị áp đặt, như những cái thòng lòng treo vào cổ dân tộc Việt từ hơn một trăm năm qua. Để từ đây một nhà Việt Nam thống nhất theo thể chế Cộng Hòa, Tự Do, Dân Chủ, Độc Lập, Pháp Quyền được thiết lập. Với thể chế này chắc chắn sẽ là nguồn hồi sinh cho dân tộc Việt Nam sau gần một thế kỷ dưới ách nô lệ của cộng sản.
3. Về phía nhà cầm quyền CS tại Hà Nội
Đến nay, xem ra nhà cầm quyền CS tại Hà Nội vẫn chủ quan cho rằng họ có thể thủ thắng, đứng vững theo đường lối gian dối cố hữu của CS. Họ không hề nhận biết là đã rơi vào tình thế cô đơn, tuyệt vọng. Ngó ra ngoài, không có một đồng minh, chỉ có một đồng chí duy nhất. Khốn thay, đồng chí ấy đang vả vào mặt những kẻ qùy gối trước mặt chúng. Ở trong nước, không có được năm ba người dân, đúng nghĩa là người dân Việt Nam yêu nước ủng hộ. Kết quả, trên dưới đều hoang mang, hốt hoảng. Họ nhìn đâu cũng chỉ thấy kẻ thù. Tất cả đều chống lại đường lối yêu nước là yêu xã hội đạo tặc của nhà nước.
Sở dĩ cộng sàn VN lâm vào thảm cảnh này là vì cộng đồng thế giới đã nhân diện chính xác về bộ mặt của chế độ “ cộng sản là gian dối, và tạo ra gian dối” (thủ tướng Mirkell, Đức). Trong khi đó, bản thân của họ không làm được một điều gì khá hơn để phản chứng. Trái lại, vẫn chỉ quanh co dối trá, Bằng chứng là: Cái công hàm của Phạm văn Đồng là nguyên cớ để TC xâm lấn biển đông, không một người Việt Nam nào không biết. Riêng tập đoàn CSVN lại không dám nhận lấy cái sai lầm nghiêm trọng của bản văn này. Lúc trước (1974) thì họ vỗ tay reo khi TC chiếm Trường Sa từ tay của Việt Nam Cộng Hòa. Tưởng rằng vì tình hữu nghị, vì mối tình thắm thiết xã hội chủ nghĩa, TC chiếm và giữ hộ cho mình, sau khi lấy được miền nam thì họ sẽ trao trả cho miền bắc theo mật ước. Cho đến năm 1988, trận chiến Gạc Ma, mất nốt những gì chưa mất, họ cũng không mở được mắt ra. Nay đến cái giàn khoan TC kéo vào trong lòng biền VN thì họ lại loanh quanh, tráo trở đưa ra lời giải thích hết sức nông cạn và trẻ con theo kiểu của Trần Duy Hải, phó chủ nhiệm Ủy Ban Biên Giới Quốc Gia, lập luận để chạy tội là: Công hàm của Phạm văn Đồng "Hoàn toàn không đề cập đến vấn đề lãnh thổ và chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa".
Quả thật, khó tìm ra một lời giái thích trẻ con và ấu trĩ như thế. Bởi vì, trước khi viết cái công hàm khoảng hai tuần lễ, vào ngày 4 tháng 9 1958 Chu ân Lai, thủ tướng TC đã tự công bố cái gọi là chủ quyền trên biển và trên đảo (Declaration on China’s Territorial Sea) của họ như sau: “Bề rộng của lãnh hải Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa sẽ là 12 hải lý và áp dụng tương tự đối với Đài Loan và các đảo chung quanh quần đảo Bành Hổ, quần đảo Trung Sa (Tungsha), Quần đảo Tây Sa (Hsisha), quần đảo Chungsha, quần đảo Nam Sa (Nansha) và các đảo thuộc Trung Quốc”. Trong lúc chẳng có một nước nào ngó ngàng đến lời công bố này thì Phạm văn Đồng nhân danh thủ tướng của nhà nước VNDCCH, gởi công hàm cho Chu ân Lai trong đó có đoạn chính là “ ghi nhận và tán thành bản tuyên bố” (của Chu ân Lai). Bản văn này tuy không có đề cập đến hai chữ Hoàng Sa và Trương Sa, nhưng “Ghi nhân và tán thành” bản văn có ghi rõ chữ Hoàng Sa và Trường Sa do Chu ân Lai viết thì có phải là công nhận Trường Sa, Nam Sa, Hoàng Sa là của Trung cộng hay không? Một đứa trẻ học chưa hết tiểu học, đọc xong hai đoạn văn cũng hiểu rõ ràng như thế, nhưng tiếc rằng, phó chủ nhiệm biên giới của nhà nước Việt cộng thì lại học chưa tới.
Ấy là chưa kể đến điểm thứ hai của lời giải thích này là chính họ đã xác nhận Trường Sa và Hoàng Sa thuộc Việt Nam Cộng Hòa theo hiệp định 1954. Như thế, chỉ có Việt Nam Cộng Hòa mới có đủ thẩm quyền, tư cách để giải quyết vấn đề Trường Sa, Hoàng Sa. Từ đó cho thấy, bản văn của Phạm văn Đồng là một thứ văn tự bán lén đất của nhà người khác cho kẻ trộm đạo. Nên việc họ bắt giam, kết án những Việt Khang, Điếu Cày, Tạ phong Tần và nhiều người yêu nước khác công khai bảo vệ đất đảo Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam chỉ là hành động của kẻ bán nước, không có đạo lý. Rõ rảng, họ càng giải thích thì cái thòng lọng càng xiết chặt vào cổ họng của họ. Muốn lạy Tây cũng không được, mà quay về chầu phương bắc thì lại phải chấp nhận thêm nhiều điều kiện khó khăn hơn. CSVN xem ra không còn lối thoát, ngoại trừ một cách là tự giải tán để cứu lấy mình.
4. Về phía trung cộng.
Một câu hỏi có nhiều người hỏi là: Liệu Trung cộng có mở chiến dịch quân sự vào VN hay không? Vời những sự kiện có sẵn như hôm nay, tôi cho rằng chuyên này không có nhiều khả năng xảy ra. Bởi vì, từ nhiều năm trờ lại đây, tất cả các cấp tướng của QD nhân dân và Công An CS đã lần lượt được gởi sang Trung cộng để học tập. Họ học gì, tập gì không ai biết, nhưng có điều gần như chắc chắn nó phải có điều kiện đi kèm khi họ được cấp pháp bằng tốt nghiệp và hẳn nhiên, TC không dạy họ cách tách ra khỏi vòng tay TC. Theo đó, với một danh sách dài, gồm hầu hết tên tuổi, chức vụ, đơn vị của các tướng lãnh quân đội cũng như bên công an của Việt cộng nằm trong tay. Cộng thêm danh sách bên hành chánh, bên đảng luôn cúi đầu tận hông như TTSang, Np Trọng, NT Dũng, thì Trung Cộng mở cuộc chiến quân sự làm gì cho nó gây thêm phiền toái. Trước đã chẳng có lợi ích gì, còn chính thức gây thù oán với nhân dân Việt Nam, giúp họ có cơ hội tiêu diệt tập đoàn cộng sản mà TC đã cố công gầy dựng mấy chục năm qua. Theo đó, khả năng một cuộc chiến lớn là không thể xảy ra, Tuy nhiên không loại trừ khả nằng có những trận kiểu đuổi gà, đập vịt ở biên giới. Hai bên tập trung quân làm như một sống một chết. Nhưng kết quả chỉ là pháo vào rừng hoang, hoặc có cảnh lạc đạn gây thương vong. Rồi cuối chuyện đuổi gà, đập vịt này là tính toán cho một hội nghị song phương được mở ra.
Ngày mở ra hội nghị cũng là ngày kết thúc những thắng lợi hoàn toàn về phía Trung cộng. Đất, biển được khoanh vùng. Việt Nam mất bao nhiêu đất, bao nhiêu biển không ai hay, chỉ có một thông báo chung chung cho cái tình hữu nghị đới đời viễn vông do TC khua chiêng đánh trống với thế giời. Phần cái lưỡi bò ở trên Biển Đông thì đã được Nguyễn tấn Dũng chấp hành, treo ở trong văn phòng của chính phủ từ lâu rồi, cứ thế mà thi hành. Nếu cần, làm thêm một cái công ty ma để cho cái giàn khoan kia là đơn vị trúng thầu là hết chuyện. Phần nhân sự, những kẻ lãnh đạo sẽ lần lượt được Trung cộng phát cho sợi dây như vòng hoa đeo vào cổ. Từ đây, nối nghiệp nhau làm thái thú. Riêng những tên gọi như Hoàng Sa, Trường sa thì sẽ được nhà nước CS giải quyết theo sách lược đã được viên tiến sỹ tên Nguyễn Quang Ngọc, Viện Trưởng Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển, Đại Học Quốc Gia Hà Nội, trong một buổi hội thảo về Vấn đề chủ quyền của VN ở Hoàng Sa và Trường Sa, Y đã phát như sau: “Không nên đưa vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa ra Tòa án Quốc Tế, hay Liên Hiệp Quốc…. Còn việc đòi lại và bảo vệ chủ quyền như thế nào thì không nên nôn nóng, để đến trăm năm hoặc nghìn năm sau con cháu chúng ta đòi lại vẫn được!” Quả là không hổ danh những tiến sỹ giấy của thời đại chuột!
5. Việt Nam về đâu?
Điều người ta lo sợ nhất là cục diện biển đông, vụ cái giàn khoan bằng cách này hay cách khác từ từ chìm lắng xuống. Trong nước không còn những cuộc biểu tình của dân chúng phản đối Trung cộng xâm lược biển đông. Rồi sau cái bề mặt trong lặng lẽ, CSVN ồ ạt cấp giấy nhập cảnh cho từng đoàn từng lũ công nhân cũng như thường dân Trung cộng xâm nhập vào nội địa Việt Nam. Thành phần này dần đần chiếm hết công ăn việc làm của người trong nước. Những kẻ thân TC, biết nói tiếng Hoa dần dần nắm hết những chức vụ, cũng như những cơ sở trọng yếu của đất nước. Trước là làm ruồng, rỗng hết mọi phần trên đất nước, sau là làm tê liệt đời sống kinh tế của quốc dân để triệt tiêu Việt Nam. Theo đó, chúng ta có thể nhìn thấy hai hướng đi và đến cho câu hỏi trên là:
Thứ nhất. Nếu tập thể cộng sản còn nắm quyền và dối trá như hiện nay, vẫn coi người dân chống Trung cộng, chống độc tài tàn bạo CS như những kẻ thù thì câu chuyện của Crimea hay Tân Cương sẽ lập lại trên phần đất Việt Nam không có gì lạ. Gặp trường hợp này, dù không muốn, người Việt Nam đành phải chấp nhận thế cờ. Để cho nó mất rồi sẽ được.?
Thứ hai. Thay đổi, hoàn toàn thay đổi. Việt Nam thành lập nền Cộng Hòa, Cũng cố lại sức mạnh Dân Tộc. Dốc toàn lực để bảo vệ non sông.
Muốn cũng cố lại sức mạnh dân tộc, trước hết, phải nhận định rằng: Cuộc kháng chiến chống pháp mà cộng sản rêu rao là cuộc chiên thần thành do cộng sản lãnh đạo là một chuyện không đúng với sự thật. Bởi vì, từ trăm năm trước người Việt nam đã lên đường chống Pháp. Họ đi từ núi vụ Quang, Ngàn Trưới đến Ba Đình, Yên Thế, xuôi về tiền giang hậu giang không một nơi nào không có phong trào kháng pháp nổi lên. Theo đó, người Việt Nam đi kháng pháp là vì truyền thống chống xâm lăng của dân tộc, không phải vì tập đoàn Việt Minh cộng sản. Có chăng là do sự lầm lẫn lúc ban đấu. Lầm lẫn bởi vì, vào ngày 2-9-1945, giữa lúc phong trào kháng Pháp nổ ra ở giữa lòng Hà Nội thì người ta thấy xuất hiện một tên tuổi rất lạ tai. Lúc đầu có người cho rằng đó là một danh hề mới nổi, lại có người ngỡ ngàng, tưởng rằng đó là một cây đại thụ che chở cho nhà nam. Kết quả, qua xét nghiệm cho thấy đích thị đó là thân của một cây chuối. Tuy là thân chuối, nhưng trong lúc đương độ nó củng có những tằu lá xanh. Hơn thế, nó lại được sơn phết thêm nhiều tầng nhiều lớp che phủ bên ngoài bằng những hình bóng tưởng tượng, giả trá nên đã làm cho dân ta hoa mắt, lầm lẫn. Nhưng chẳng bao lâu sau, lá vàng, bẹ rữa, thân chuối hoàn thân chuối.
Như thế, căn bản của tập thể CS là những thân chuối trong rừng chuối mục nát, nên không ai đặt niềm tin vào những người cộng sản. Nói cách khác, người cộng sản không bao giờ tạo được niềm tin nơi công chúng. Theo đó, nếu muốn tái tạo niềm tin trong lòng người để củng cố sức mạnh của dân tộc, ngõ hầu bảo vệ và xây dựng đất nước, điều kiện tiên quyết là phải xóa bỏ hoàn toàn cơ cấu của chế độ CS. Phải phá bỏ nó bằng một trong ba phương thức sau:
a. Thứ nhất, phương cách tự giải trừ.
Phía cộng sản phải nhận thức được rằng: Tư tưởng CS không tạo được niềm tin và thành tín với dân tộc. Không đủ khả năng đứng chung với dân tộc, nên họ phải dựa vào chủ nhân Tàu để mà sống còn. Đây không phải là một đánh giá mới mẻ về CS. Tuy nhiên, nhiều người tự ái vì bị tiêm nhiễm bởi cái lối tuyên truyền nhồi sọ của CS, cho rằng người viết, không viết đúng sự thật, nên dễ bất bình chống đối, bất phục. Nhưng không ai trách họ. Bởi vì đường của dân tộc, lịch sử của đất nước là câu chuyện không phải là mười năm, 50 năm mà là nghìn năm. Chế độ cộng sản không thể tồn tại mãi, CS có cạo sửa lịch sử, thì lịch sử chân chính vẫn tồn tại với non sông và đất nước. Anh hùng và kẻ bán nước hại dân cũng đều tồn tại trong lịch sử, nhưng ở trong hai khung hình khác nhau. Một bên được tôn thờ với khói nhang. Một bên bị nguyền rủa, tru di. Gobachev còn mà Lênin cũng còn! Đó là lẽ thường mà cũng là công đạo của trời đất vậy.
Nếu trong bối cảnh hôm nay, sau những vấp váp, những sai lầm. Họ đứng dậy, quay về với dân tộc, tựa vào sức mạnh của toàn dân, để tự trút bỏ sự sợ hãi bắc phương và cùng toàn dân viết lại trang sử mới bằng cách:
- Nhân danh đảng CS và nhà nước CHXHCNVN, chính thức gởi công hàm đồng cấp đến nhà nước TC, thông báo việc hủy bỏ công hàm của Phạm văn Đồng ký vào ngày 14-9-1958 là vì sai lầm trong nhận thức và sai lầm chính trị.
- Tuyên bố thành lập nền Cộng Hòa. Giải tán mọi cơ chế của đảng cộng sản, kể cả quốc hội và những trường sở liên hệ của nó từ trung ương đến địa phương.
- Để đảm bảo cho đời sống an ninh, giữ gìn tính mạng của nhân dân và sinh hoạt đối nội, đối ngoại không bị rơi vào khủng họảng, giữ lại toàn bộ hệ thống chính quyền hiện tại cho đến khi có thể có tổng tuyển cử bầu nguyên thủ quốc gia. Tuy nhiên, khi thành hình một chính phủ Cộng Hòa, họ phải mời được những nhân sự thích hợp như KHG Dương Nguyệt Ánh, Đ/t Việt, Đ/h Hùng, TS Đinh Việt. TC Cù huy Hà Vũ, Ls Nguyễn văn Đài, LS Lê thị Công Nhân, Ls Trương công Định, LS Lê quốc Quân… tham chính. Đưa họ vào nắm giữ những trọng nhiệm trong Ngoại Giao, Tư Pháp, Quân đội, Nội Vụ và Thông tin, Giáo Dục để tạo niềm tin cho dân chúng và cho thế giới.
- Xóa bỏ toàn bộ những văn bản và những hình thức kìm chế, bóp nghẹt tôn giáo, Đồng thời trả lại các cơ sở giáo dục thuộc các tôn giáo mà nhà nước CS đã chiếm đoạt trước đây. Xin nhớ, những cơ sở này chính là nguồn phục hưng lại đời sống luân lý, và đạo đức của xã hội đã bị băng hoại trong hơn 70 năm qua. Đặc biệt, nên vận động mọi cách để đưa một nhân vật nổi danh trên đường đi tìm Công Lý, Sự Thật và cũng là người đối kháng rất mạnh mẽ cái gian dối của chế độc CS là TGM Kiệt trở lại Hà Nội, sau khi vị TGM hiện nay về hưu. Sự hiện diện của Ông trong vị thế này có thể được coi là sự triển nở của nền Công Lý trên đất Việt. Chấm dứt ngay lập tức tất ả những dự án gọi là quy hoạch giải phóng mặt bằng để gây ra thêm thảm họa cho người dân…
Lợi thế của phương cách này nhanh gọn, êm thắm, ít đỗ vỡ, ít sáo trộn. Bản thân của các cấp trong guồng máy cũ được bảo đảm. Khả năng cung cố tiềm lực quốc gia vào guồng nhanh nhất. Có khả năng thu kết được sự ủng hộ lớn tứ người dân và tạo được niềm tin với các quốc gia trên thế giới.
Bất lợi: Rất khó tìm được sự cộng tác chặt chẽ với những thành phần nhân sự kể ra ở trên. Đã thế, rất dễ xảy ra tình trạng xâu xé phe cánh trong thượng tầng của đảng CS. Phe nắm hành chánh không muốn thua thiệt phe nắm đảng và ngược lại, phe nắm đảng không muốn trắng tay! Phương án này xem ra là đơn giản. Nói thì dễ, chuyện thực hành khó khả thi.
b. Thứ hai. Môt cuộc Chỉnh Lý.
- Lực lượng có thể chỉ là một tập hợp nhỏ trong quân đội, công an, và một số viên chức hành chánh. Họ đủ can đảm nhập cuộc, đứng lên làm cuộc chỉnh lý, nắm quyền và mau chóng thực hiện những điểm nêu lên ở trong phương thức trên.
Lợi và bất lợi. Khởi đầu của phương án này sẽ là rất khó khăn, vì ít có ai trong những người đang có ít nhiều thế lực dám mạo hiểm. Tuy nhiên khi tiến hành nó sẽ nhanh như chớp ngang đầu, bởi hàng hàng lớp lớp dân chúng cuồn cuộn nổi dậy cùng với họ giật sập chế độ cộng sản. Bước dầu có nhiều nguy hiểm, tuy nhiên cuộc kháng cự của CS sẽ là không quá mạnh. Một phần lo chạy lấy thân, một phần vì không còn thiết tha gì với chế độ. Một phần ẩn thân chờ thời để ít nhất có thể bảo đảm được quyền lợi của bản thân và gia đình. Đặc biệt, trong phương án này có nhiều thuận lợi để kết hợp với những thành phần trong phương thức một trong việc điều hành đất nước. Bước đi chuyển biến dễ dàng hơn và cuộc tái lập đem lại sự ổn định cũng mau hơn.
c. Thứ ba, làm cuộc tổng nổi dậy.
Với tình thế của VN hôm, từ thủ trong cho đến giặc ngoại, buộc chúng ta phải dự trù cho một cuộc tổng nổi dậy để cứu nguy đất nước. Phương thức này có thể song hành với phương thức thứ hai. Đây là một phương án nghiêm chỉnh cần phải được đặt ra để thực hiện hơn là câu chuyện xuông. Tuy nhiên, vấn đề quan yếu nhất chính là vấn đề nhân sự có khả năng thu hút sức mạnh quần chúng để làm cuộc nổi dậy.
Hiện nay các tổ chức dân sự, đảng phái chính trị ở trong nước và ở hải ngoại không có một tổ chức nào khả dĩ áp ứng được yêu tố nhân sự đầu não. Tuy nhiên có những nhân sự, không thuộc đảng phái nào, nhưng với cái nhìn chung của rất rất nhiều người am tường về thời cuộc thì đều nhìn nhận rằng, những nhân sự này khả dĩ đáp ứng được nhu cầu nhân sự lãnh đạo, không phải chỉ làm động lực cho một cuộc chuyển dời. Nhưng còn tạo được một thế đứng vững vàng đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi của dân chúng và sự ủng hộ của thế giới. Đó chính là những người tôi nhắc đến ở phương thức một. Đây là một tập hợp có thể được gọi là ưu tú của thế hệ hôm nay. Bởi vì, người xa quê thì luôn khao khát được phục vụ cho hạnh phúc của dân tộc mình. Người ở bên trong thì đạp trên sợ hãi, chấp nhận hy sinh bản thân để vào ngục cứu quốc. Tất cả là những điểm son đáng quý. Nếu họ thành một tập hợp, một ủy ban, hay một Chính Phủ Lưu Vong để đáp ứng với tình thế và mưu cầu hạnh phúc cho người dân thì đây là một giải pháp ưu tiên, cần phải có để:.
- Tiếp nối truyền thống dân tộc theo tình thần của Việt Nam Cộng Hòa. Cương quyết giải thể chế độ cộng sản trên toàn cõi Việt nam.
- Phủ nhận hoàn toàn tư cách và bản văn của PVĐ liên quan đến những phần đất và biển đảo ở dưới vĩ tuyến 17 theo hiệp định genève 1954. Phản đối TC đã mưu đồ quân sự để chiếm đoạt HS Trường Sa của Việt Nam. Cương quyết đòi buộc TC phải rút khỏi Hoảng Sa và Trường Sa bằng những luật lệ, pháp lý quốc tế.
- Ủng hộ những cuộc biểu tình ôn hòa dòi Tư Do, Công Lý, tôn trọng Nhân Quyền và quyền tư hữu tại Việt Nam. Sẵn sàng liên kết với những người cộng sản biết quay về với dân tộc để cùng chung xây dựng lại đất nước…
Lợi thế. Đây chính là một điều mà người dân Việt và rất nhiều đoàn đảng viên CS tại Việt nam đang trông chờ. Một mặt, CPLV là điểm tựa, là cầu nối và cũng là sự bảo đảm hữu hiệu cho các cuộc biểu tình liên tục và kéo dài ở trong nước có cơ hội phát triển và bùng nổ. Là điểm tựa, là cầu nối thúc đẩy những nhóm quân sự ở Việt Nam mạnh dạn hơn trong việc tiến hành cuộc chỉnh lý thay đổi toàn bộ cơ cấu hiện tại. Và đây có lẽ cũng chính là những điều mà giới lãnh đạo tây phương đang nhắm đến trong những lời tuyên bố mạnh mẽ của họ. Chắc chắn một CPLV với phần nhân sự như trên dễ đáp ứng được cho nhu cầu đối nội và đối ngoại.
Thời gian. Đây là lúc thuận tiện nhất để một CPLV ra đời. Bởi vì khi những biến động lắng xuống, sự ra đời của họ mất hẳn yếu tố thời gian. Không gây được tiếng vang và dễ chết lần mòn theo thời gian sau đó. Kế đến, tập thể cộng sản ngày nay như là vườn chuối đang tự hủy rữa mục. Khi có một chính Phủ Lưu Vong đầy triển vọng và hữu hiệu ra đời, triệt buộc cộng sản Việt Nam phải đi vào thế cờ tự xâu xé nhau và đi đến hủy diệt, tan rã. Lý do, không ai cầu chết. Tất cả đều cầu sống, cầu lợi, cầu quyền và cơ hội!
Bất lợi. Sự ngại ngùng, lưỡng lự không dám dứt khoát của những nhân vật này để có sự bắt đầu cũng là một trở ngại lớn. Nếu họ tự thắng trong cuộc kết hợp thì đó chính là dấu chỉ của sự thành công mai sau. Trường hợp lẻ loi chỉ có một phía, một vài người thì sức mạnh không phải tụt giảm đi một nửa mà là không thể tạo ra được tiếng nói cần thiết để tạo thành sức mạnh. Chiếc đũa lẻ loi ấy chắc chắn sẽ bị bẻ gãy! Đã thế, còn tạo cơ hội cho những kẻ cơ hội chủ nghĩa trương cờ đánh trống làm lỡ một cơ hội tạo nên lịch sử mới cho quê hương. Đây là phương án quyết liệt, tối ưu. Có thể có hao tổn sinh lực. Nó đòi hỏi nỗ lực và lòng can đảm của tất cả mọi người, là giải pháp không thể chờ đợi.
Tóm lại, muốn củng cố sức mạnh dân tộc và dồn toàn lực để cứu quốc, buộc chúng ta phải thực hiện được một trong ba phương thức trên càng sớm càng tốt. Đây là một giải pháp duy nhất đem đến ổn định cho Việt Nam và biển đông trong tương lai.
Tuy nhiên, nếu chúng ta và thế giới tự do mong chờ giải pháp này để đem đến ổn định cho Biển Đông, thì TC sẽ là quốc gia duy nhất không muốn có sự thay đổi như thế ở Việt Nam. Trái lại, họ chỉ muốn bảo vệ chế độ CS và áp đặt mọi phe phái trong chế độ này ngồi vào bàn hội nghị song phương với họ trong cuộc biển động. Theo đó, họ sẽ gia tăng tối đa việc trấn áp các phe phái mang tinh thần Việt Nam trong chủ trương thoát ách Tàu. Nhưng nếu những đột biến này xảy ra, khả năng Trung cộng đổ quân vào Việt Nam để cứu nguy cho CS là khó xảy ra. Bởi vì khi đó thay vì giúp CSVN, TC lại tạo cho toàn dân Việt Nam khí thế chông xâm lăng. Với khí thế ấy, TC không thể nào hưởng được cái lợi trên phần đất ấy trái lại sẽ là thảm họa cho Trung cộng. Bởi vì chính trong lòng nội địa của TC cũng đang chờ thời cơ để tự phá vỡ gọng kìm của cộng sản. Mỗi thế lực của một tình bang đều có nhiều khả năng phân chia thành một nước riêng biệt như Hàn, Sở. Triệu, Ngô, Tề, Tần, Tấn xưa kia. Với cách nhìn này, tôi cho là TC không liều mình dấn thân vào tranh chấp với cuộc thay đổi ờ VN. Nhưng sẽ tím cách ảnh hưởng lên nó. Theo đó, nếu cuộc thay đổi đã thành hình, thì TC không thể tham dự vào tranh chấp và việc Việt Nam bảo vệ trọn vẹn bờ cõi, bao gồm cả Trường Sa và Hoàng Sa càng có nhiều cơ hội để thực hiện.
5-6-2014
No comments:
Post a Comment