Vừa qua vị GS Carlyle Thayer, chuyên gia về Biển Đông người Úc đã trả lời cuộc phỏng vấn của Tammy Pham trước khi Trung Quốc rút giàn khoan có nội dung đáng chú ý. Tôi xin gửi Ban biên tập bài phỏng vấn này, hy vọng sẽ giúp nhiều người Việt Nam hiểu thêm nhiều vấn đề của đất nước.
TAMMY PHAM: Thưa ông, khi đưa giàn khoan Hải Dương 981 vào vùng biển của Việt Nam, thì Bắc Kinh đã có những toan tính gì?
CARLYLE THAYER:Tôi nghĩ là hiện nay câu trả lời chưa được rõ ràng lắm về mặt chiến thuật lẫn chiến lược. Ngay thời điểm họ đưa giàn khoan vào vùng biển Việt Nam cũng là bất ngờ. Bởi vì tháng 10 năm ngoái Phó thủ tướng Lý Khắc Cường của Trung Quốc sang thăm Việt Nam, thì báo đài Trung Quốc cho là những khó khăn trong quan hệ hai nước đã được tháo gỡ.
Hai bên đã đồng ý lập ra ba ủy ban làm việc, trong đó có một ủy ban liên quan đến các vấn đề biển đảo. Đã có nhiều lời tuyên bố là không có bên nào sẽ có hành động xen vào chuyện của bên kia. Như vậy là quan hệ đang trên đường cải thiện. Thế mà như từ trên trời rơi xuống, không hề có một hành động khiêu khích nào từ phía Việt Nam mà tôi có thể thấy, bỗng nhiên họ đưa cái giàn khoan vào.
Nhưng câu hỏi chiến lược lớn hơn thì khá rõ, đó là, trong óc của người Trung Quốc, con “đường chín đoạn” không phải là một con đường tưởng tượng, mà thuộc vùng ảnh hưởng “chính đáng” của họ. Họ đã cho Hải Nam đưa ra những luật lệ như về đánh cá, để tạo thành một căn bản pháp lý ở địa phương. Như vậy, trong con mắt họ mọi sự đều là hợp pháp và họ muốn làm bá chủ, họ muốn các nước khác công nhận là Trung Quốc có chủ quyền và quyền chủ quyền trên những đảo và vùng biển mà Trung Quốc vẫn cho là thuộc về họ.
Trong trường hợp đó, việc đưa giàn khoan vào chỗ họ đã hạ đặt theo họ chỉ là một chuyện thực thi chủ quyền bình thường của họ. Quả thế, lúc đầu Trung Quốc khá lúng túng khi tìm cách giải thích chuyện ấy. Họ nói nó nằm trong vùng lãnh hải của Trung Quốc. Nhưng cùng lúc họ lại bảo là nó nằm cách đảo Tri tôn 17 hải lý, như vậy là nằm ngoài lãnh hải của họ. Sau đó, họ lại sửa lại là nó nằm trong vùng kế cận, nghĩa là cộng thêm 12 hải lý nữa. Nhưng thêm 12 hải lý thì lại có vấn đề liên hệ đến quan thuế và một vài chi tiết khác. Thành thử Trung Quốc đã không dùng được luật quốc tế để biện minh cho hành động của họ.
Việc hạ đặt giàn khoan liên hệ đến vấn đề chủ quyền và quyền chủ quyền của họ dựa trên dầu hỏa và khí đốt tiềm tàng ở đó. Nhưng rồi họ cũng vẫn sẽ phải giải thích về thời điểm đích xác đặt giàn khoan vì Việt Nam không chấp nhận lệ thuộc Trung Quốc, nhưng Việt Nam cũng không hẳn là đã về hùa với chính sách tái cân bằng lực lượng của Hoa Kỳ ở trong khu vực. Tuy hiện chưa rõ là Việt Nam có muốn xích lại gần Hoa Kỳ hay không, nhưng trong quốc nội, hành động của Trung Quốc chắc chắn đã tỏ ra phản tác dụng.
Cùng lúc tôi cũng vẫn tự hỏi, tôi không nghĩ là thời điểm đích xác cũng như vị trí hạ giàn khoan kia chỉ là một sự ngẫu nhiên hay Công ty dầu khí ngoài khơi của Trung Quốc và một vài thành phần của quân đội Trung Quốc bỗng nhiên quyết định chuyện đó, đặc biệt với số tàu mà họ đã đem ra vì họ không nghĩ là phía Việt Nam sẽ có phản ứng mạnh như thế. Vì thế, việc định thời điểm và nhắm vào Việt Nam là chuyện hãy còn mù mờ. Nhưng mục đích chiến lược lớn của họ thì khá rõ, đó là Trung Quốc cho đây là “vùng biển lịch sử của họ” và họ sẽ làm mọi sự cần thiết để khẳng định quyền của họ.
TAMMY PHAM: Theo ông, Việt Nam cần phải làm gì để đối phó với các hành động của Trung Quốc hiện nay và ngăn ngừa những động thái tương tự trong tương lai?
CARLYLE THAYER: Việt Nam ở vào một thế yếu. Kẻ yếu thì không có bao nhiêu vũ khí trong tay, ngoại trừ việc dựa vào ngoại giao và luật quốc tế. Có điều khá rõ ràng là nếu Việt Nam đáp trả bằng một biện pháp quân sự thì chắc chắn sẽ gặp một phản ứng quân sự áp đảo. Đó là lý do tại sao Việt Nam đã giữ hải quân của mình ở các hải cảng. Việt Nam thực sự không có nhiều lựa chọn, bởi Trung Quốc đã đưa ra lúc đầu là 50 tàu, rồi lên đến 70 tàu, 80 tàu, và gần đây nhất là trên 100 tàu với khoảng 20 chiến hạm. Rõ ràng là Trung Quốc muốn phô trương một sức mạnh áp đảo. Trong trường hợp này, Việt Nam có thể làm một số chuyện.
Trước hết, tối thiểu về mặt luật pháp quốc tế cho thấy là mình không gật đầu trước việc làm kia, như đưa lực lượng duyên hải và các tàu kiểm ngư ra để thông báo trong 3 thứ tiếng, rằng đây là lãnh thổ chủ quyền của Việt Nam, rằng Trung Quốc nên dời đi, như vậy Trung Quốc không bao giờ có thể nói với quốc tế là Việt Nam đã thuận ý.
Thứ hai là về con đường ngoại giao, trước hết là qua ASEAN và sau là qua các quốc gia khác. Và chuyện này đã xảy ra trong cuộc gặp gỡ giữa các bộ trưởng ngoại giao của ASEAN khi lần đầu tiên họ thông qua một bản tuyên bố riêng về vấn đề này, bày tỏ một sự quan ngại nghiêm trọng về những chuyện gì đã xảy ra ảnh hưởng đến hòa bình và ổn định ở trong vùng. Và tuy họ không nhắc đến tên Trung Quốc (họ chưa bao giờ họ nhắc đến tên Trung Quốc ngay từ bản tuyên bố đầu tiên vào năm 1992) nhưng việc ra tuyên bố này cũng vẫn quan trọng vì trước đây đã có một vài sự lủng củng trong nội bộ ASEAN.
Theo tôi được biết, mặc dù Campuchia đã bắt đầu nêu ra một hai vấn đề và Malaysia còn phản đối khá gay gắt, việc họ đưa ra được một tuyên bố đã thể hiện quan điểm rõ ràng của ASEAN và nhất là Việt Nam, tổ chức khu vực này đã lên tiếng và đây là cơ sở cho một nước như Hoa Kỳ can thiệp vào vấn đề đứng về phía ASEAN. Ở hội nghị CSIS (của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế) vào tháng 7 năm nay, người ta đã trình bày khá rõ là vì sao Hoa Kỳ đang thúc đẩy một giải pháp dùng luật quốc tế để ngăn chặn các hoạt động tìm cách đổi thay nguyên trạng.
Cũng có ngoại giao với Nhật Bản để cho nước này tăng cường viện trợ cho các lực lượng tuần duyên của Việt Nam và Quốc hội Nhật Bản vào tháng 7 này cũng đang nghiên cứu vấn đề này. Và trong quá khứ, Việt Nam đã ngoại giao với Trung Quốc, và khi ông Lý Khắc Cường sang Việt Nam, người ta đã nói đến những đường giây nóng giữa hai nước. Nhưng khi Việt Nam gọi mấy đường giây nóng này thì không có ai trả lời. Họ đề nghị gởi một đặc sứ sang Trung Quốc cũng không xong…
Trong diễn đàn đối thoại chiến lược Shangri La, Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam bảo rằng Trung Quốc đang đánh một ván cờ bắt bí. Do vậy nên việc đưa các lực lượng bán quân sự như lực lượng duyên hải và kiểm ngư ra là một cách đánh dấu sự hiện diện của Việt Nam nhưng đó vẫn là một ván bài đang thua vì Trung Quốc vẫn đang mở rộng vùng kiểm soát của họ và gây tổn hại cho ít nhất 29 tàu của phía Việt Nam.
Vả lại, phía Việt Nam cũng không có bao nhiêu tàu đủ nặng ký để đương đầu với Trung Quốc. Tàu lớn nhất của phía Việt Nam là 2000 tấn thì chỉ mới bằng những tàu nhỏ nhất của Trung Quốc, và như vậy là một trò chơi bất cân bằng. Nhưng dẫu sao phía Việt Nam cũng đã ghi được điểm cho mình, đó là về mặt trận ngoại giao với khu vực và với các nước ngoài vùng.
Ngoài ra, không có bao nhiêu chuyện Việt Nam có thể làm được trong lúc này. Mà nếu ở trong vùng và ở trên thế giới Việt Nam có thể đứng lên và khiêu khích thì Trung Quốc có thể lật thế cờ và nói ngay là Việt Nam là phe hiếu chiến. Do đó nên Việt Nam chỉ có thể trông mong là đến giữa tháng 8, tức là thời điểm mà Trung Quốc nói là họ sẽ hoàn tất việc thăm dò của họ và rút giàn khoan ra. Đó cũng là vào mùa bão nữa và như vậy, cả hai bên đều không còn lý do để duy trì sự hiện diện của tàu bè của mình trong vùng. Và điều đó có thể dẫn đến việc mở cửa cho một cuộc đối thoại.
TAMMY PHAM: Thưa ông, như ông thấy, Hà Nội đã không có được mấy thiện cảm trong khối ASEAN. Trong khi đó thì Philippines được sự hỗ trợ của Hoa Kỳ và nhiều quốc gia khác, vì mục tiêu của họ rõ ràng. Ông có nghĩ rằng Việt Nam có can đảm chống lại Trung Quốc như Philippines đang làm hay không?
CARLYLE THAYER: Trường hợp của Philippines là một bài học cho Việt Nam, bởi trong nhiều năm, họ đã có nhiều lần ngồi xuống với Trung Quốc, song cuối cùng họ đành phải đưa vấn đề ra tòa án quốc tế. Họ bảo họ đã cạn kiệt mọi con đường thương lượng, mặc dù Trung Quốc nói là cửa vẫn mở.
Nhưng thẳng thắn mà nói thì Trung Quốc đòi phải chấp nhận chủ quyền của Trung Quốc trước đã rồi nói gì mới nói. Tôi được nghe chuyện đó từ một nguồn tin từ chính tòa án quốc tế, và hiển nhiên thì Philippines không chấp nhận được. Nhưng Philippines và Mỹ là đồng minh mà Việt Nam thì không phải là đồng minh của Mỹ. Philippines và Mỹ có một hiệp định quốc phòng với nhau. Để cập nhật hóa vấn đề thì ít nhất Thủ tướng Việt Nam đã nói là Việt Nam đang nghiên cứu chuyện đi con đường pháp lý nhưng vấn đề là tính làm vào lúc nào.
Ở cuộc đối thoại Shangri-La khi Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh được hỏi về vấn đề này thì ông ta bảo đó sẽ là nước cờ cuối cùng. Chuyện quan trọng là người của Philippines cũng vừa từ Hà Nội về và nói, “Việt Nam cũng đang lập hai hồ sơ, một về Hoàng Sa và một về Trường Sa. Hà Nội sắp đi cùng với chúng tôi.”
Vấn đề là nếu Việt Nam đi con đường pháp lý thì họ sẽ nêu ra các vấn đề nào? Và cho mục đích nào? Theo một nguồn tin thì họ sẽ phân biệt hai hồ sơ Hoàng sa và Trường sa. Theo một nhà luật gia ở bên Bỉ thì Việt Nam có thể đi với Philippines và nộp cho tòa án quốc tế một lời tuyên bố là chúng tôi cũng có lợi ích chính đáng đối với vụ kiện của Philippines.
Thế không có nghĩa là Việt Nam bắt buộc phải theo chân Philippines. Nhưng nếu có những quốc gia khác đi theo gương Philippines, thì người ta phải để ý, nếu những lời tuyên bố tương tự được chồng chất lên thì các vị thẩm phán sẽ chú ý và vấn đề không còn chỉ là chuyện giữa hai nước nữa.
Đây là ys thứ nhất.
Hai là Việt Nam có thể nhập vào với Philippines. Nhưng đôi ba điểm của Philippines lại có thể làm cho lập trường của Việt Nam yếu đi.
Hay là Việt Nam có thể đi kiện một cách độc lập và yêu cầu có một sự phán xét riêng biệt, trong trường hợp đó những khác biệt giữa Việt Nam và Philippines lại có thể làm hại cho cả đôi bên và làm lợi cho Trung Quốc tùy theo vụ kiện diễn tiến ra làm sao. Ngoài ra, lại còn trường hợp của quần đảo Hoàng sa mà Việt Nam có thể đòi chủ quyền do bởi hành động xâm lăng của Trung Quốc vào năm 1974.
Ở đó không có vấn đề trông chờ là sẽ có một giải pháp pháp lý vì chắc chắn là Trung Quốc sẽ không chịu ra tòa. Nhưng có những luật gia quốc-tế cho rằng Việt Nam vẫn nên kiện bởi như vậy sẽ chứng tỏ là Việt Nam sẵn sàng đi theo con đường giải quyết các tranh chấp bằng luật pháp quốc tế, qua một tòa án quốc tế để đòi chủ quyền mà đằng nào mình cũng muốn đòi. Có một ông bộ trưởng Nhật Bản cho rằng Nhật Bản cũng nên đi con đường đó cho vấn đề quần đảo Senkaku và đẩy Trung Quốc vào chỗ họ phải chứng minh quan điểm của họ.
Còn một vấn đề thứ ba, đó là những sự thiệt hại của các ngư dân Việt Nam. Họ quan niệm vấn đề ra sao và họ muốn được đền bù như thế nào, họ có những phương thức nào để đòi? Song câu trả lời là chỉ có các quốc gia là có thể kiện tụng trong những cuộc tranh chấp trên biển như thế này, và quốc gia nào mà cho các tàu đó đăng ký là quốc gia phải khởi kiện.
Bằng cách nhấn mạnh vào con đường pháp lý này thì Việt Nam sẽ được sự đồng tình của các nước trong ASEAN, sự ủng hộ chính trị của ASEAN vì nhiều nhất cũng sẽ chỉ được có thế thôi. Nhưng với sự chuyển hướng trong chính sách của Mỹ quay sang các biện pháp pháp lý dựa trên luật quốc tế thì Việt Nam không những có thể trông chờ vào sự ủng hộ của Mỹ mà còn vào cả sự ủng hộ của Nhật, Úc, Hàn Quốc, Ấn độ và tất cả những quốc gia lớn khác có vai trò trên biển này.
Tuy nhiên, dựa vào luật quốc tế cũng có mặt trái của nó, đó là như trong trườnghợp Philippines. Ngay như phán quyết của tòa án có áp dụng liền và không chấp nhận khiếu nại thì vẫn không có các biện pháp chế tài. Bởi thế nên nếu Trung Quốc nhất quyết khăng khăng phủ nhận thì chúng ta cũng không có cách nào ép Trung Quốc chấp nhận gia nhập cộng đồng thế giới trong chuyện này.
TAMMY PHAM: Việt Nam và Trung Quốc có những mối quan hệ thay đổi khác nhau trong chiến tranh, sau chiến tranh, và đặc biệt sau sự sụp đổ của khối xã hội chủ nghĩa Liên Xô và Đông Âu. Theo nhận xét của ông, thì những thay đổi quan hệ đó nói lên điều gì? Đi theo một lý tưởng? Hay quan hệ nước lớn nước nhỏ theo chủ nghĩa sô vanh?
CARLYLE THAYER: Năm 1990 khi tìm cách bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, Việt Nam muốn liên minh trở lại với Bắc Kinh nhưng phía Trung Quốc họ nói: “Đồng chí, không phải đồng minh.” Do đó, chuyện chính là Trung Quốc muốn cho thấy mình là một cường quốc.
Vì thế nên khi giàn khoan 981 được hạ đặt, nó đảo ngược lại tất cả, nó làm mất tin tưởng chiến lược vào nhau. Do đó nên ngày hôm nay Việt Nam vẫn còn đang tranh luận về chuyện này và tôi đã nói đùa với mấy người bạn Việt Nam của tôi là nếu Việt Nam đi con đường xã hội chủ nghĩa thì nó nên là xã hội chủ nghĩa với những đặc trưng Việt Nam (thay vì Trung hoa) để gộp những lợi ích quốc gia của Việt Nam vào trong đó.
Vào năm 2003 và rồi vào năm 2013, Việt Nam xác định Trung Quốc và Hoa Kỳ là những quốc gia cần hợp tác tuy có thể là vừa hợp tác vừa phải tranh đấu hay thậm chí đối đầu. Tuy nhiên, trong một nỗ lực nhìn lại vào năm 2013, họ tự hỏi không hiểu họ có dùng quan niệm đó một cách hữu hiệu không.
Đối với các quốc gia xã hội chủ nghĩa, mình có thể có những bất đồng ý kiến và phải giữ vững lập trường nhưng với một đế quốc như Hoa Kỳ, chúng ta có nhiều khu vực rộng lớn không thể đồng ý với nhau như về nhân quyền và dân chủ, nhưng đôi bên vẫn có những điểm tụ hội về lợi ích cần nối kết với nhau.
Vì vậy nên ngày hôm nay, việc Việt Nam không có khả năng đối phó với Trung Quốc trong khi cần củng cố quan hệ với Hoa Kỳ. Không phải vì những mục đích chiến thuật tức thời mà vì những mục đích dài hạn như mở rộng kinh tế của Việt Nam, gia nhập TPP (Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương) và đi tìm tất cả những cái lợi khác như giáo dục, khoa học kỹ thuật, tất cả chỉ là những chuyện đãi bôi.
Chính quan hệ toàn diện là bằng chứng cho tất cả những chuyện đó, nên ta có thể thấy một sự rụt rè không dám tiến tới.
TAMMY PHAM: Nhiều người Việt Nam tin rằng đảng Cộng sản Việt Nam mang nợ Trung Quốc qua nhiều, khó mà thoát ra được áp lực của Trung Quốc. Xin ông nhận xét về nhận định này.
CARLYLE THAYER: Tôi đã có lần viết một bài mang tên,“Trò ác ôn của địa lý” dựa trên một cuốn sách nói về “sự ác ôn của khoảng cách” của nước Úc. Một nước da trắng, của người Âu nhưng lại nằm ở Á đông thay vì nằm ở phía Bắc Đại Tây Dương. Nói về cái “Trò ác ôn của địa lý” tôi đã có lần nói, Việt Nam với 90 triệu người thật ra chỉ bằng một tỉnh cỡ trung bình của Trung Quốc, người ta đã đáp trả ngay: “Ông nói thế là tiêu cực quá! Chúng tôi có nhiều cái tích cực chia sẻ với Trung Quốc, như văn hóa, tư tưởng chính trị, tôn giáo…”
Chắc chắn rồi, Việt Nam không thể phủ nhận gia tài, di sản của mình, nhưng quan trọng là Việt Nam phải biết phát huy lại một cách sáng tạo, như Việt Nam có căn cước riêng của mình, có lịch sử riêng của mình, vì nói cho cùng Việt Nam đã lấy lại độc lập từ Trung Quốc. Nhưng tôi cho là bạn cũng đúng, bởi tôi nghe người ta nói là những chuyên gia về Trung Quốc nghĩ như người Trung Quốc.
Mà đó không phải là một lời chỉ trích vì Trung Quốc bao giờ cũng hành động một cách trịch thượng và Việt Nam phải đoán trước được để đón gió theo. Họ nghĩ: “Nếu mình làm chuyện này, nghĩa là sát gần đến Hoa Kỳ thì Trung Quốc sẽ nhào đến ngay, và như vậy là ta không đến gần Hoa Kỳ và sẽ làm giảm được áp lực kia đi ngay.”
Chính sách này đã có từ khá lâu như ta đã thấy, nhưng trong một thế giới đa cực thì chỉ có ba nước giữ vai trò quyết định trong chính sách của Việt Nam. Với Nga, là có vấn đề với Hoa kỳ, Trung Quốc thì bây giờ là một anh bạn đáng ngờ. Đâu có ai trông chờ cuộc tranh chấp này giữa Việt Nam và Trung Quốc bởi Trung Quốc là nước bạn độc nhất có quan hệ chiến lược và toàn diện với Việt Nam. Vậy mà Trung Quốc đã làm đảo lộn hoàn toàn mối quan hệ đó.
Nhưng tôi cho rằng có một số việc chắc chắn sẽ xảy ra, không tránh được là các thành phần trẻ sẽ lên. Có một đại hội Đảng sắp tới, với một Trung ương Đảng ngày càng có tiếng nói của mình, họ không phải là những thành phần trẻ nhất trong Đảng nhưng chẳng bao lâu nữa họ sẽ như thế. Một lớp lãnh đạo mới sẽ hiện ra và toàn cầu hóa có nghĩa là họ sẽ tái tạo một vị thế Việt Nam trong khung cảnh toàn cầu chứ không phải là ở trong một thế giới với Trung Hoa là rốn vũ trụ.
TAMMY PHAM: Có thể nào ông tiên đoán những động thái trong những ngày tới, một vài tháng hay một hai năm tới, liệu Trung Quốc có tiếp tục các hành động xâm lấn, đặc biệt khi biết rằng Hoa Kỳ đang bận rộn những nơi khác mà Trung Quốc lại thừa dịp để thực hiện các động thái mới?
CARLYLE THAYER:Chúng ta không thể tin được điều Trung Quốc nói. Giàn khoan 981 rất đắt tiền, được thiết kế chuyên biệt để đi vào chỗ nước sâu. Nó rất, rất là đắt tiền. Thêm nữa, Trung Quốc đang bành trướng lực lượng tuần duyên của họ, ngân sách Quốc phòng của họ tăng trên 10 điểm mỗi năm. Phải mất cả nhiều thập kỷ thì mới đảo ngược được.
Đó là chuyện khá rõ ràng. Không ai thiết kế giàn khoan để ngồi ở nhà. Người ta đem chúng ra biển để tìm dầu và khai thác. Trung Quốc tự thuyết phục mình là trữ lượng dầu khí ở Biển Đông là cao gấp bảy lần so ước lượng của phía Hoa kỳ. Và như vậy ta có thể thấy, ở trong đầu họ thì đây là một lượng tài nguyên rất đáng kể và họ nhắm khai thác năng lượng ở đó, chưa kể đến các nguồn lợi hải sản của địa phương nữa.
Trung Quốc đã làm ô nhiễm nguồn nước, làm kiệt quệ lượng tài nguyên tại đất nước mình nên họ xây tàu ngày càng lớn, đi xa hơn và cuối cùng thì thế nào cũng đi đến đụng chạm, không chỉ riêng gì với Việt Nam và Philippines là chuyện đang xảy ra lúc này, mà còn cả với Malaysia, Indonesia.
Và chúng ta đã thấy ở hội nghị CSIS, vị đại diện của Malaysia đã tiết lộ là theo thông tin từ Quốc hội nước ấy gần đây, tranh chấp với Trung Quốc không phải chỉ có ở bãi ngầm James Shoal mà còn cả ở một địa điểm khác nữa, nghĩa là hai vụ khác nhau. Những nhận định này thậm chí đã được ghi vào trong Công báo của Malaysia nhưng không được mấy ai để ý vì không có bao nhiêu người đọc tiếng Malaysia.
Rồi đến lượt Indonesia cũng đã âm thầm đưa ra những video Youtube cho thấy nước này từ khá nhiều năm nay cũng đã có những đụng độ giữa hải quân họ với hải quân Trung Quốc. Cả hai nước sau này đều đã tăng cường sức mạnh quân sự và họ cũng đã nâng cấp quan hệ quân sự với Hoa kỳ nhưng làm một cách lẳng lặng, không lộ hẳn như Philippines, nhưng những xu hướng đó thì vẫn đang tiếp tục.
Như vậy tương lai Biển Đông biến từ vùng hòa bình, ổn định và hợp tác mà trở thành vùng tranh chấp bởi lẽ Trung Quốc sẽ hành động vì năng lượng, vì nghề cá, vì áp chế quyền lực của họ, vì sự sa sút tuy không hoàn toàn của quân đội Mỹ trong khi Trung Quốc thì đang đi lên.
Do đó, tôi rất đau lòng khi thấy những vụ xích mích nội bộ ở Washington, các tranh cãi trong vấn đề tài trợ, cấm vận… nước Mỹ đang ở trong một hoàn cảnh không mấy thuận lợi.
Mỹ là một cường quốc toàn cầu, nếu có chuyện không hay xảy ra ở Trung Đông thì Mỹ buộc phải can thiệp vì thế không tập trung hết sức vào Châu Á – Thái bình dương được. Khi đó, Trung Quốc sẽ tìm cách thúc đẩy các lợi ích của họ, có thể không dùng quân sự thì cũng bằng những phương tiện khác. Và tất cả các quốc gia trong vùng sẽ phải đương đầu với tình trạng đó trong vài thập niên tới.
TAMMY PHAM: Ở Việt Nam, tinh thần phản đối Trung Quốc đang lan rộng như ta có thể thấy trong các cuộc biểu tình cả trong nước lẫn ở ngoài này. Theo ông thì những cuộc biểu tình đó có tác dụng gì không? Hay là người Việt nên hành động, phản ứng ở tầm chiến lược hơn?
CARLYLE THAYER: Dân tộc chủ nghĩa và chủ nghĩa yêu nước là một con dao hai lưỡi. Chúng rất tốt nếu dùng đúng dịp, nhưng nếu chúng thúc đẩy chúng ta đến những hành động hấp tấp quyết định trong lúc nóng nảy thì lại phản tác dụng.
Tôi nghe thấy ở trên các đài hải ngoại của người Việt đề nghị là Việt Nam nên đánh thẳng vào quân cờ đầu trong một ván cờ tướng. Nhưng rồi tôi nói, quý vị biết chuyện gì không, Trung Quốc nó có tới hai lần số quân cờ của mình nên ta phải cẩn thận.
Nhưng những nhà dân tộc chủ nghĩa ở Việt Nam chưa tạo ra sự thuyết phục. Họ cho là Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vì nói thẳng thừng nên uy tín của ông ta nhảy vọt. Về mặt này tuy cũng đã có những phát biểu từ ông Chủ tịch nước và ông Tổng bí thư, là chúng ta phải bảo vệ chủ quyền biển đảo. Song thực ra là chỉ có thể thỏa mãn dư luận trong Việt Nam mà thôi. Việt Nam cần phải chứng tỏ với Trung Quốc là những lực lượng quốc nội của Việt Nam thực sự vững mạnh và những chính sách của Trung Quốc là sai lầm.
Nhưng nay ta có thể thấy là đã có một số trí thức Việt Nam và đảng viên về hưu, như vừa rồi ta thấy có ông Tương Lai viết một bài xã luận ở trên tờ New York Times; ông ta là một người tôi gặp từ năm 1981, lúc bấy giờ hình như ông là người phát ngôn của chính phủ. Nhưng bây giờ ông đã về hưu và ông viết như một ông quan xưa dùng hết cả uy tín của ông ta có từ thời tham chính để nói lên sự bất bình của ông.
Tôi không hẳn là khuyến cáo nên làm điều gì vội vã, không suy nghĩ, nhưng tôi cũng cho là Việt Nam tự đóng lại các lựa chọn của mình bằng cách không chấp nhận các tình tự dân tộc. Việt Nam, cũng như Úc, nên phải có toàn quyền lựa chọn chính sách ngoại giao của mình. Trung Quốc cứ nói như trong thời chiến tranh lạnh là “chúng tôi sẽ buôn bán với quý vị nhưng chuyện kia là không thể thương thảo” và cũng tương tự, Việt Nam cũng phải có cái ý hướng muốn biết mình đi đâu, mình là ai. Nhất là tuổi trẻ.
Gần đây, tôi có dịp đi nói chuyện ở một số đại học địa phương và họ mong muốn được thảo luận về Biển Đông. Tôi được nhắc nhở nhẹ nhàng là không nên nói đến những chuyện mà nhiều quan chức Việt Nam không thể nói được giữa công chúng. Nhưng chắc chắn là áp lực sẽ ngày càng mạnh, nhất là vì sắp tới một Đại hội Đảng, tôi không nghĩ là ai có thể đắc cử trở lại ở trong Đảng nếu họ dám thúc đẩy một chính sách thỏa hiệp với Trung Quốc.
Nhưng ngược lại cũng không thể là một chính sách chống đối không khoan nhượng, họ sẽ phải đưa ra một sự chuyển hướng mới trong quan hệ ngoại giao của Việt Nam, trong đó ý thức hệ sẽ không còn là một căn bản để hợp tác với Trung Quốc nữa mà cơ sở đó phải là lợi ích quốc gia của Việt Nam.
TAMMY PHAM: Xin cám ơn ông đã chia sẻ những nhận định quý báu của ông trong buổi phỏng vấn hôm nay.
Theo Bạn đọc Trường Sa
No comments:
Post a Comment