Sunday, November 16, 2014

Xài tiền vô tội vạ, chỉ cần 57 tỷ nhưng xin đến 522 tỷ

HÀ NỘI (NV) - Dự án xây dựng hệ thống bảo vệ an toàn giao thông giữa đường bộ và đường sắt tại Việt Nam coi như đã hoàn tất và chỉ hết 57 tỷ, dư đến 465 tỷ. 


Hàng rào phân cách giữa đường sắt và đường bộ. (Hình: Lao Động)

Năm 2008, Bộ Giao Thông-Vận Tải Việt Nam đề nghị chi 522 tỷ để thực hiện Dự Án Xây Dựng Hệ Thống Bảo Vệ An Toàn Giao Thông giữa đường bộ và đường sắt tại Việt Nam. Mục tiêu của dự án này là xây dựng hàng rào dọc hệ thống đường sắt, nhằm phân cách giữa hệ thống đường sắt và đường bộ, giảm tai nạn giao thông.

Để có tiền giao cho Bộ Giao Thông-Vận Tải thực hiện dự án vừa kể, chính quyền Việt Nam phải phát hành trái phiếu và phải trả lãi cho khoản này.

Mới đây, Bộ Giao Thông-Vận Tải Việt Nam xác nhận, chi phí thực hiện dự án chỉ khoảng 57 tỷ.

Trong báo cáo xin tiền thực hiện dự án vừa kể, Bộ Giao Thông-Vận Tải cho biết phải xây dựng 283 cây số hàng rào tại các đoạn đường sắt song song với một số quốc lộ. Tuy nhiên trên thực tế thì chỉ cần xây dựng 118 cây số hàng rào là đã đạt mục tiêu đề ra.

Bộ Giao Thông-Vận Tải Việt Nam biện bạch, lý do dự án không chính xác cả về khối lượng công việc cần thực hiện lẫn số tiền phải chi là vì một số dự án nâng cấp, mở rộng các quốc lộ hoặc đã thực hiện hàng rào phân cách giữa đường sắt và đường bộ hoặc đã chừa đủ khoảng cách an toàn nên không cần làm hàng rào.

Sự kiện vừa kể thêm một lần nữa cho thấy, tại Việt Nam, việc lập - duyệt các dự án thực hiện bằng ngân sách hết sức tùy tiện, khó tin cậy.

Tháng trước, Bộ Kế Hoạch-Đầu Tư Việt Nam cho biết, trong số từ 34,000 đến 36,000 dự án đang được thực hiện bằng ngân sách, chỉ có khoảng 60% thực hiện “báo cáo giám sát.”

Tại hội thảo về việc xây dựng định hướng nhằm giám sát và đánh giá về đầu tư công cho giai đoạn từ 2015 đến 2020, ông Nguyễn Xuân Tự, vụ trưởng Vụ Giám Sát và Thẩm Định Đầu Tư của Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư, nhận định, bởi giám sát lỏng lẻo nên đầu tư công trong thời gian vừa qua không hiệu quả

Theo một số chuyên gia, các “báo cáo giám sát” mà Bộ Kế Hoạch-Đầu Tư đã nhận cũng chưa ổn. Những qui định hiện hành giao việc giám sát cho chính chủ đầu tư. Bộ Kế Hoạch-Đầu Tư chỉ đảm nhận vai trò “tổng hợp các báo cáo giám sát” mà chủ đầu tư muốn thì gửi, không gửi cũng chẳng sao. Thành ra hoạt động giám sát các dự án đầu tư bằng ngân sách dù có cũng không có hiệu quả vì thiếu hai yếu tố quan trọng là tính độc lập và sự chuyên nghiệp.

Việc cho phép chủ đầu tư tự thực hiện “báo cáo giám sát” thì báo cáo đó thiếu tính độc lập và vì vậy, không bảo đảm sự khách quan và trung thực.

Dẫu Quốc Hội Việt Nam và hội đồng nhân dân các cấp có quyền giám sát đầu tư công song trước nay, những cơ quan dân cử tại Việt Nam chỉ thực hiện vai trò này theo kiểu hành chính vì thiếu cả chuyên môn sâu lẫn kỹ năng giám sát chuyên nghiệp. Không thể nào phát giác dự án có được thực hiện đúng yêu cầu và tương xứng với vốn đầu tư hay không.

Bởi chỉ vung tiền đầu tư chứ không muốn giám sát, tại Việt Nam, lãng phí trong đầu tư công vượt ngoài sự tưởng tượng của nhiều người.

Cuối năm ngoái, chính quyền Việt Nam công bố một thống kê về việc sử dụng ngân sách để đầu tư vào các “dự án trọng điểm.” Theo đó, chỉ trong vòng mười năm, Việt Nam đổ tiền xây 20 cảng biển quốc tế, 22 phi trường (có 8 là phi trường quốc tế), 267 khu công nghiệp (trung bình một tỷnh có 4 khu công nghiệp), 18 khu kinh tế ven biển, 28 khu kinh tế cửa khẩu, 1,757 dự án trong các lãnh vực giao thông, thủy lợi và di dân. Tổng vốn đầu tư cho tất cả các “dự án trọng điểm” ấy ngốn hết khoảng 444 ngàn tỷ đồng và gần như toàn bộ các “dự án trọng điểm” đều bỏ hoang sau khi hoàn tất.

Hồi tháng 4 vừa qua, tại một cuộc thảo luận về việc sửa luật xây dựng hiện hành, Bộ Trưởng Xây Dựng Việt Nam thừa nhận, lãng phí đã trở thành phổ biến ngay từ định hướng xây dựng đến thực hiện dự án, có khi lên tới 100% giá trị công trình. Lãng phí là nguyên nhân khiến ngân sách bội chi và nợ nần của Việt Nam gia tăng.

Tại Việt Nam, năm nào chi tiêu cho đầu tư công cũng tăng so với dự tính nhưng hiệu quả thì chẳng ra gì. Nhiều cựu viên chức và viên chức công khai thú nhận, đó là căn bệnh trầm kha trong quản trị, điều hành của Việt Nam. (G.Đ)

No comments:

Post a Comment