Thursday, June 5, 2014

Mỹ mổ xẻ bí mật hải quân Trung Quốc

 - 

Ảnh minh họa khả năng thủy chiến trên biển Hoa Đông
Ảnh minh họa khả năng thủy chiến trên biển Hoa Đông
Với tham vọng bành trướng bá quyền, Trung Quốc đang xây dựng một lực lượng hải quân hiện đại, nhỏ nhưng đủ sức làm thống trị khu vực, cùng khả năng tiến hành hoạt động ở các vùng biển xa. 
Hiện đại hóa hải quân để dọa Mỹ
Hồi tháng 4.2014, một báo cáo mang tên “Trung Quốc hiện đại hóa hải quân: Những liên đới cho khả năng hải quân Mỹ, nền tảng và các vấn đề cho Quốc hội” của Ban Nghiên cứu Quốc hội Mỹ (CRS) đã được trình Quốc hội Mỹ, nêu ra tiến trình hiện đại hóa hải quân của Trung Quốc.
Báo cáo China Naval Modernization: Implications for U.S. Navy Capabilities - Background and Issues for Congress đăng trên website của CRS là Opencrs.com, dẫn thông tin và số liệu được thu thập từ báo cáo thường niên về tình hình quân sự thế giới của Lầu Năm Góc, báo cáo về hải quân Trung Quốc do Cục tình báo hải quân Mỹ tổng hợp và các nguồn mở khác như tạp chí quân sự IHS Jane’s.
Nỗ lực hiện đại hóa hải quân của Trung Quốc gồm nhiều chương trình trang bị vũ khí, tên lửa đạn đạo đối hạm trên bộ (ASBM), máy bay chiến đấu cơ mang tên lửa đối hạm (ASCM), tàu ngầm, tàu chiến, máy bay, radar tầm xa, hệ thống hỗ trợ C4ISR (chỉ huy và kiểm soát, thông tin, điện toán, tình báo, giám sát).
Chương trình này còn gồm sửa đổi và cải thiện trong việc bảo trì, hậu quần, học thuyết hải quân, chất lượng nhân sự, giáo dục và đào tạo, cùng tập trận.
Trong tiến trình “xoay trục về châu Á”, việc đầu tiên là Mỹ phải nắm được sức mạnh của hải quân Trung Quốc. Bộ Quốc phòng đã nắm được những trang bị, khí tài trọng tâm của hải quân Trung Quốc: tên lửa đạn đạo đối hạm DF-21D, được cho là phiên bản mới của dòng tên lửa tầm trung di động DF-21.
Tên lửa đạn đạo chống hạm DH-21 D ASBM
DF-21D có tầm bắn hơn 1.500 km với mục tiêu chống tàu chiến lớn, bao gồm cả tàu sân bay. Giới quan sát còn cho rằng đầu đạn của tên lửa này là sự kết hợp giữa cảm biến radar và quang học để tìm diệt đối tượng và liên tục thay đổi hành trình tùy theo chuyển động của mục tiêu. Đầu đạn được nhồi một khối lượng chất nổ lớn hoặc đạn chùm.
Tên lửa hành trình đối hạm (ASCM) có dòng mạnh nhất là SS-N-22 Sunburn do Nga chế tạo, và SS-N-27 Sizzler cũng xuất xứ từ Nga (được triển khai trên 8 tàu ngầm lớp Kilo). Hiện Trung Quốc đang tiến hành thử nghiệm tên lửa đất đối không tầm xa CH-SS-NX-13, phù hợp triển khai cho toàn bộ các tàu ngầm lớp Tống, Nguyên, Thượng và tàu ngầm mới đang đóng là Type 095.
Mỹ cũng rất quan tâm đến tàu ngầm của Trung Quốc, khi chính Bắc Kinh từng nhấn mạnh đây là một trong những lực đẩy chính cho nỗ lực hiện đại hóa quân đội.
Bên cạnh các tàu lớp Kilo của Nga, Trung Quốc đang tích cực triển khai các lớp tàu nội địa mới, gồm tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đạn đạo lớp Tấn, tàu ngầm hạt nhân tấn công lớp Thượng và Hán, tàu lớp Nguyên và tàu lớp Tống.
Đó là chưa kể tàu ngầm Type 095 sẽ được triển khai vào năm 2015. Báo cáo của CRS ước tính đến năm 2012, Trung Quốc có khoảng 46 tàu ngầm, nhưng theo website về thông tin quân sự Globalsecurity.org, con số này lên tới hơn 60, tập trung nhiều cho các hạm đội Đông Hải và Nam Hải.
Đồ họa tàu ngầm Type 094 của hải quân Trung Quốc 
Do tàu sân bay Trung Quốc bị cho là chưa thể sớm đưa vào hoạt động và còn nhiều hạn chế, nên tàu khu trục hiện là tàu chiến nổi lớn nhất của nước này.
Các tàu khu trục hiện nay có thiết kế và trang bị gần giống tàu chiến phương Tây hơn là Liên Xô, với tổng cộng khoảng 25 tàu thuộc các lớp nội địa Lữ Dương, Lữ Hải, Lữ Châu, Lữ Hỗ và Lữ Đại, cũng như lớp Sovremenny do Nga sản xuất.
Cũng theo Globalsecurity.org, Trung Quốc hiện có gần 50 tàu hộ vệ và rất nhiều tàu đổ bộ cũng như khinh hạm tấn công mang tên lửa phân bố đều cho các hạm đội.
Bên cạnh đó, giới quan sát đánh giá rằng do chỉ mới lộ rõ và bắt đầu thực thi chiến lược vươn ra các vùng biển xa gần đây nên hải quân Trung Quốc thiếu trầm trọng các tàu rà quét, phát hiện và chống thủy lôi. Bắc Kinh đang cố gắng khắc phục nhưng tình trạng này sẽ còn kéo dài trong tương lai gần.
Hải chiến Mỹ - Trung trên Thái Bình Dương?
Báo cáo nêu vì Mỹ mãi tập trung vào Đông Âu, Trung Đông, Trung Á và châu Phi nên buông lỏng khu vực châu Á - Thái Bình Dương, tạo cơ hội cho Trung Quốc tăng cường sức mạnh trên biển.
Đó là một trong những lý do mà Mỹ phải triển khai chiến lược “xoay trục về châu Á” từ đầu năm 2012, với hướng tái triển khai sự hiện diện quân sự ở Thái Bình Dương, giành lại thế chiến lược mới và thị trường ở châu Á - Thái Bình Dương.
Từ đó, các nhà quan sát kỳ vọng kết quả tùy thuộc Bộ Quốc phòng Mỹ (DOD) sẽ dành sự quan tâm cao cho không quân và hải quân Mỹ như thế nào.
Các quan chức Mỹ nêu dù phải cắt giảm chi quân sự, DOD sẽ tìm cách bảo vệ các dự án liên quan sự hiện diện quân sự tại châu Á - Thái Bình Dương.
Các quyết định của Quốc hội Mỹ và chính phủ về các chương trình hải quân, để đối phó khả năng quân sự được cải thiện của Trung Quốc, sẽ có thể tác động đến kết quả một cuộc hải chiến Mỹ - Trung trên Thái Bình Dương.
Vài nhà quan sát nói không thể có cuộc xung đột này, phần nào vì Mỹ - Trung cần lẫn nhau ở mảng kinh tế, một cuộc chiến sẽ gây tổn thất lớn cho cả hai phía. Nhưng nếu không có cuộc chiến đó, sự cân bằng quân sự Mỹ - Trung ở Thái Bình Dương có thể ảnh hưởng tới những lựa chọn từng ngày của các nước khác trong vùng biển này, gồm lựa chọn nên nghiêng các chủ trương của họ theo hướng thân Mỹ hay thân Trung Quốc hơn.
Trong bối cảnh đó, các quyết định của Quốc hội Mỹ và chính phủ về các chương trình hải quân có thể ảnh hưởng đến vũ đài chính trị ở Thái Bình Dương, từ đó tác động đến khả năng của Mỹ trong việc theo đuổi các mục tiêu liên quan những chủ trương khác, cả ở vùng Thái Bình Dương và nơi khác.
Các nhà quan sát cho rằng nỗ lực hiện đại hóa hải quân của Trung Quốc nhằm hướng phát triển các khả năng sau:
+ Đòi quyền lợi hoặc chủ quyền trên biển Đông và biển Hoa Đông.
+ Củng cố quan điểm của Bắc Knh rằng họ có quyền điều hành các hoạt động quân sự trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của họ.
+ Ngăn chặn hoặc làm suy yếu tầm ảnh hưởng Mỹ ở vùng phía tây Thái Bình Dương.
+ Xử lý tình hình với Đài Loan theo hướng quân sự nếu cần thiết.
+ Khoe khoang vị thế một cường quốc khu vực.
Báo cáo của CRS cho rằng Trung Quốc muốn quân đội có khả năng đóng vai trò gọi là lực lượng chống tiếp cận, giống như lực lượng ngăn chặn biển mà Liên Xô triển khai thời Chiến tranh Lạnh.
Lực lượng này có thể ngăn chặn một cuộc can thiệp của Mỹ, vào một cuộc chiến ở những vùng gần Trung Quốc hoặc vào những vấn đề khác. Nếu không được như thế, quân đội cũng có thể trì hoãn hoặc làm giảm tính hiệu quả của cuộc can thiệp quân sự Mỹ.
Trung Quốc cũng có thể sử dụng hải quân vào các mục đích khác, như tuần tra an ninh biển gồm chống hải tặc, sơ tán kiều dân Trung Quốc ở nước ngoài khi cần thiết phải làm thế, hoặc tham gia các chiến dịch hỗ trợ nhân đạo / phản ứng trước thảm họa, thiên tai.
Đó là các điểm gây chú ý trong chiến lược hiện đại hóa hải quân của Trung Quốc, vì nếu chỉ nhằm đối phó Đài Loan thì không cần đến tàu sân bay hay hàng loạt tàu khu trục và tàu tấn công đổ bộ.
Theo báo cáo, hải quân Mỹ cần phải duy trì tối thiểu đội tàu 313 chiếc hiện diện thường trực nếu muốn duy trì ảnh hưởng liên tục tại Thái Bình Dương. CRS cũng đề cập khái niệm không - hải chiến mà Lầu Năm Góc đang hướng đến nhằm đối chọi chiến lược chống tiếp cận của Trung Quốc.
Nói cách khác, không chiến và hải chiến là phiên bản hiện đại của chiến lược Mỹ từng dùng để đối phó Liên Xô khi trước, phối hợp chặt chẽ nguồn lực và năng lực chiến đấu của hải quân và không quân.

Trần Trí (tổng hợp)

No comments:

Post a Comment