“Nếu mấy người (Mỹ) muốn xem Trung Quốc như kẻ thù thì Trung Quốc chắc chắn sẽ trở thành kẻ thù của Mỹ” - thiếu tướng Trung Quốc Chu Thành Hổ đốp chát Mỹ tại Hội nghị thượng đỉnh an ninh châu Á lần thứ 13 (Đối thoại Shangri-La, từ 30/5 đến 1/6/2014).
Căn cứ vào mức độ căng thẳng giữa Mỹ - Nhật và Trung Quốc thời gian qua, dường như gươm của tất cả các bên đã rút ra khỏi vỏ, quyết liệt, dứt khoát và không thể tra vào…
Bắc Kinh: bằng mọi giá phải hất Mỹ khỏi châu Á
Bất luận cuộc khủng hoảng giàn khoan Hải Dương 981 kết thúc như thế nào, thế giới khó có khả năng trở lại như thời điểm trước 2014. Hai trục đối kháng đã định hình: Mỹ - Nhật và Trung - Nga. Trong khi Mỹ kéo thêm Australia (Hàn Quốc…) thì Trung Quốc đang lôi vào Iran (Pakistan…). Sự kiện Crimea - Ukraine càng khoét sâu và làm giãn rộng khoảng cách giữa hai trục. Các cuộc tranh cãi bốp chát nảy lửa giữa Mỹ và Trung Quốc, cũng như biện pháp cứng rắn của Washington đối với Kremlin, cho thấy các bên đã đến một ngưỡng mà bây giờ chỉ còn nước đi tới chứ không thể quay lùi.
Mục tiêu của Trung Quốc, như nhận định từ Hugh White (cựu viên chức quốc phòng Australia và hiện là giáo sư nghiên cứu chiến lược Đại học quốc gia Australia, người từng làm việc chặt chẽ với Washington) là chứng tỏ cho Washington thấy rằng, nếu Mỹ muốn duy trì mối quan hệ đồng minh tại châu Á thì họ phải chấp nhận sự rủi ro đụng độ với Bắc Kinh. Nói cách khác, Trung Quốc đang cố tình gây ra các vụ phá rối châu Á để cho thấy Mỹ khó có thể duy trì vị trí tại châu Á khi vừa cố quan hệ tốt với Trung Quốc (trong vấn đề kinh tế) vừa tiếp tục giữ lại các giềng mối với đồng minh khu vực.
Trung Quốc đang đánh cược với Mỹ, nước đang mệt mỏi và có khuynh hướng lo giải quyết các vấn đề nội địa, rằng họ sẽ đến một ngày chùn bước và nhường vị trí ảnh hưởng truyền thống tại châu Á cho Trung Quốc. Trong buổi nói chuyện tại Hội thảo về các giải pháp tương tác và xây dựng niềm tin tại Thượng Hải ngày 19/5/2014, Tập Cận Bình cũng đã “vạch ra” một “chiến lược an ninh châu Á” trong đó không có Mỹ.
Đến giờ đã có thể khẳng định rằng, tại sao Trung Quốc chọn thời điểm này để tạo ra cuộc khủng hoảng giàn khoan? Có thể nói: Trung Quốc đã lặng lẽ quan sát cách Mỹ “chơi” Nga, bằng đòn cấm vận, khiến Nga rơi vào tình trạng kinh tế khó khăn. Thời cơ vàng! Lập tức, Bắc Kinh gây chấn động khu vực bằng sự kiện giàn khoan Hải Dương 981, rồi không chần chừ, giang tay “cứu” Kremlin bằng hợp đồng khí đốt trị giá 400 tỉ USD, tức thì biến Nga thành đồng minh hậu thuẫn trong cuộc đối đầu Mỹ.
Nói đến chiến lược xây dựng đồng minh, Trung Quốc còn liên kết với các nước không thân thiện Mỹ trong đó có Iran và Syria. Trung Quốc từng tổ chức các cuộc tập trận với sự tham gia của Iran và Nga. Bắc Kinh thậm chí đang lôi kéo một thành viên NATO là Thổ Nhĩ Kỳ. Quan hệ Trung Quốc - Thổ Nhĩ Kỳ, theo The Diplomat (31/5/2014), ngày càng nồng ấm. Mậu dịch song phương tăng từ khoảng 1 tỉ USD năm 2000 lên 19,5 tỉ USD năm 2010. Hai nước còn tham gia các cuộc huấn luyện bay trong đó có chiến đấu cơ SU-27 của Trung Quốc và F-16 của Thổ. Năm 2009, Abdullah Gül trở thành Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ đầu tiên đến Trung Quốc trong 14 năm; trong khi Thủ tướng Recep Tayyip Erdoğan bày tỏ việc gia nhập Tổ chức hợp tác Thượng Hải. Tháng 4/2012, hai nước ký một hiệp định liên quan hạt nhân. Ví dụ minh họa rõ nữa là việc Thổ quyết định chọn hệ thống phòng thủ tên lửa HQ-9 của Trung Quốc chứ không phải của NATO hay Nga.
Washington: bất luận thế nào cũng phải ở lại
Trong khi đó, Mỹ làm gì? Chính sách xoay trục của Mỹ dường như chẳng có tác dụng gì, nếu xét rằng nó được thiết kế để kiềm chế Trung Quốc. Bài diễn văn về chính sách đối ngoại đọc tại Trường võ bị West Point của Obama ngày 28/5/2014 đã bị giới bình luận lẫn chính khách Mỹ chỉ trích nặng nề. Trên The Diplomat (2/6/2014), Alex Ward (thuộc Trung tâm an ninh quốc tế Brent Scowcroft của Hội đồng Đại Tây Dương), đặt tít bài viết là “Chẳng có cái gì gọi là học thuyết Obama cả. Chấm hết”.
Trên Chicago Tribune, Charles Krauthammer đánh giá đó là bài diễn văn về chính sách đối ngoại “rỗng tuếch”. Tóm lại, nó chẳng có gì mới nhiều so với chính sách đối ngoại từ trước đến giờ của ông Obama, đặc biệt trong vấn đề can thiệp bằng quân sự, đại loại không sử dụng nắm đấm bừa bãi và chỉ động dao động thớt khi nào quyền lợi Mỹ bị trực tiếp đe dọa.
Trung tướng Trung Quốc Vương Quán Trung và Thứ trưởng Quốc phòng Nga Anatoly Antonov tại Đối thoại Shangri-La 2014
Quan sát từng diễn biến khu vực và phản ứng của Washington vài năm trở lại đây, đặc biệt trong bối cảnh cuộc khủng hoảng giàn khoan, sẽ thấy rằng Washington, khi thiết kế chính sách xoay trục, chỉ tập trung mạnh vào việc tăng cường phòng thủ cho các đồng minh chủ lực, chứ không phải nhằm tạo ra một hệ thống an ninh quốc phòng phủ sóng Châu Á - Thái Bình Dương. Obama không phải là Bush. Nước Mỹ không còn nhiều tiền để làm điều đó, vả lại, dân Mỹ cũng đã ngán cảnh tiền thuế của họ bị xén cho chuyện bao đồng. Chính sách xoay trục, gút lại, được thiết kế một phần để nhấn mạnh mối đe dọa “rõ ràng và hiển hiện” từ Trung Quốc. Trong thực tế, Mỹ có thể đã cố tình phản ứng “chậm một bước” để tạo “điều kiện” cho Trung Quốc chứng minh chính họ là những kẻ phá hoại an ninh khu vực, tạo ra thêm bằng cớ và cái xác tín “tôi-đã-nói-thế-rồi”, để cuối cùng dẫn đến kết quả là Trung Quốc bị cô lập và châu Á không còn lựa chọn nào khác là theo Mỹ.
Nếu điều này đúng thì Mỹ là những tay chơi cờ bậc thầy. Họ đã nghĩ ra trước những nước cờ cần phải đánh và đánh như thế nào vào thời điểm nào. Họ “đi trên đầu” Trung Quốc về mưu mô chính trị, về việc thiết kế và định hình được một cục diện tương lai trước nhiều thập niên, cho đến khi vào một thời điểm nào đó, các kế hoạch bành trướng Trung Quốc đều phá sản và Trung Quốc buộc phải cài số lùi trở về vạch xuất phát như vào giai đoạn khép nép “cún con” “ẩn mình chờ thời”… Nếu giả định trên không đúng thì chỉ có thể nói rằng, Mỹ đã phạm một sai lầm chính trị không thể chấp nhận được, khi không khống chế Trung Quốc ngay từ đầu; và cái giá phải trả chắc chắn phải là nhường châu Á lại cho Trung Quốc, miễn mặc cả!
Tuy nhiên, nói cho công bằng, Mỹ cũng đã bắt đầu tăng nhịp. Ngày 5/2/2014, lần đầu tiên, Mỹ bác bỏ đường lưỡi bò (tường trình của trợ lý thứ trưởng ngoại giao đặc trách Đông Á - Thái Bình Dương Danny Russel trước Ủy ban Đối ngoại Hạ viện). Ngày 24/4/2014, lần đầu tiên, một tổng thống Mỹ tuyên bố giúp Nhật bảo vệ Senkaku (10 năm trước, thứ trưởng ngoại giao Richard Armitage từng nói, Hiệp ước An ninh song phương Mỹ - Nhật “quy định rằng, bất kỳ cuộc tấn công nào vào Nhật, hay các lãnh thổ nằm dưới sự quản lý hành chính của Nhật, đều được xem như là một cuộc tấn công vào nước Mỹ”). Ngày 19/5/2014, lần đầu tiên, Bộ Tư pháp Mỹ tố cáo các chiến dịch tin tặc và đánh cắp thông tin của quân đội Trung Quốc… Đó là thái độ có phần chủ động của Mỹ so với các phản ứng trước đó chủ yếu dựa vào từng hành vi của Trung Quốc. Giờ là “công” chứ không phải “thủ”. Điều đó cũng đúng với những nước châu Á đang nằm dưới sự khống chế Trung Quốc.
Vai trò lớn dần của Nhật
Có hai vấn đề nữa khiến có thể nghĩ rằng, 2014 là năm bản lề của sự thay đổi chính trị khu vực. Thứ nhất, Trung Quốc với tình trạng “khủng bố” Tân Cương mỗi lúc mỗi nghiêm trọng. Chưa bao giờ Trung Quốc chứng kiến làn sóng “khủng bố Tân Cương” dữ dội đến vậy. Điều này chắc chắn ảnh hưởng đến sức mạnh chính trị bên trong Trung Quốc. Và thứ hai, đó là sự trỗi dậy mạnh mẽ với vai trò thủ lĩnh châu Á của Nhật.
Thủ tướng Shinzo Abe với vai trò đưa nước Nhật lên vị trí “thủ lĩnh châu Á”
Chiến dịch xây dựng “liên minh” chống Trung Quốc của Nhật, nếu có thể gọi bằng từ này, đã được Thủ tướng Shinzo Abe thực hiện ráo riết. Ngay trong năm đầu ngồi ghế thủ tướng, Shinzo Abe đã đến 30 quốc gia trong đó có tất cả các nước ASEAN, với cam kết viện trợ và đầu tư 20 tỉ USD cho các nước ASEAN trong 5 năm (Bloomberg 25/2/2014). Trong chuyến kinh lý Myanmar ngày 26/5/2013, Thủ tướng Shinzo Abe đã hủy khoản nợ 1,8 tỉ USD và hứa cho vay 500 triệu USD cho nước này (The Economist 1/6/2013)…
Tại Đối thoại Shangri-La 2014, Thủ tướng Shinzo Abe nói, Nhật giờ đây sẵn sàng đóng một vai trò lớn hơn trong “phòng vệ tập thể” tại Châu Á - Thái Bình Dương để đối mặt với mối đe dọa nguy hiểm nhất đến từ Trung Quốc (Tokyo loan bố cung cấp tàu tuần duyên cho Việt Nam, Philippines và Indonesia). Vốn dĩ trước nay luôn có sức ảnh hưởng trong khu vực nhờ chính sách “quyền lực mềm” rất thành công, lần này không chỉ “quyền lực mềm”, Tokyo đang mang đến cả “quyền lực cứng”!
Bất luận thế nào, việc hình thành hai phe chủ lực Mỹ - Nhật và Trung - Nga là điều không thể phủ nhận. Các nước khu vực chắc chắn đang quan sát sự hình thành hai trục và diễn biến các động thái tiếp theo. Tìm một sự cân bằng giữa ảnh hưởng của hai phe là không dễ. Liệu việc chơi với cả hai phe có “bình thường” như được nghĩ? Trong kinh tế, “phe phái” không thật sự quan trọng, nhưng nếu xét đến quân sự và an ninh quốc gia, sự chọn lựa chắc chắn không còn thoải mái. Theo logic thông thường, sự chọn lựa của nước yếu là đứng về bên nào bảo vệ mình chứ không phải phía bên đang đánh mình. Muốn hay không, nước nhỏ cũng bị ảnh hưởng từ các tính toán của nước lớn.
Thứ Năm, ngày 12/6/2014 - 14:27
Theo M.Kim (Năng lượng Mới số 329)
No comments:
Post a Comment