ĐĂNG BỞI  - 
LÊ CHÍ TRUNG
Bây giờ mà thở ra nhớ thời bao cấp không khéo có người lại bĩu môi cho mình là cái nhà ông Lý Toét dở hơi cám lợn... Ờ, nhân nhắc đến từ “Lý Toét” mới thấy cuộc đời này ngày càng lắm Lý Toét, với cái kiểu trùm chăn lên lớp con cháu: giờ chúng mày sướng lắm rồi, đầy đủ lắm rồi, nếu so với thời đói rách của tụi tao... Hừ. Thật buồn cười. 
Trong thời đại bùng nổ về phát triển, những bước tiến chóng mặt của khoa học kỹ thuật vừa ngày càng kéo gần khoảng cách giữa con người trên trái đất, vừa ngày càng đưa nhân loại tiến xa hơn vào vũ trụ, vậy mà loại tụt hậu như anh, đi bộ được vài mươi bước đã bảo là sướng lắm rồi?...
Có thể mình cũng giống ông Lý Toét thật, ngồi quán cóc Sài Gòn những ngày sắp đón năm mới Giáp Ngọ, bỗng nhớ thiết tha thời bao cấp.
Ôi, có rất nhiều chuyện ở thời bao cấp mà mỗi khi hồi tưởng lại không khỏi ngán ngẩm tự hỏi “lẽ nào đó là những gì mình đã trải qua?”. Ngay giữa thủ đô Hà Nội, suốt mấy chục năm từ 1960, khắc vào ký ức cuộc sống đô thị là cảnh người ta hau háu chen chúc, thậm chí cãi vã nhưng vẫn tuân thủ việc xếp hàng, bằng rổ rá rách hoặc bằng một cục gạch vỡ đôi, để mua mỗi người một lạng thịt tiêu chuẩn hàng tháng, lại còn bị mấy bà mậu dịch viên vênh mặt quát tháo như chủ quát đầy tớ... 
Rồi thì cảnh lọ mọ dậy từ hai ba giờ sáng, chen lấn xếp hàng để gánh được mỗi nhà một gánh nước máy chảy ri rỉ ở vòi nước công cộng... Cảnh nhăn nhó bấm bụng xếp hàng chờ đến lượt được chui vào nhà xí công cộng (vừa hôi vừa dơ) ở các khu tập thể trước giờ đi làm buổi sáng... 
Những cảnh bây giờ nhớ lại thấy buồn cười hơn là chua xót. Chẳng nói đâu xa, ngay ở cái phố ngoại ô nhà tôi thuộc quận Ba Đình hẳn hoi đấy nhưng rất nhiều gia đình không có nổi cái nhà xí, phòng tắm trong nhà. Nhớ những ngày hửng nắng trong mùa đông dài rét mướt, đám trẻ con phố tôi con gái con trai tồng ngồng hứng nước tắm giữa sân cho đỡ phải xách vào nhà vừa xa vừa sợ nước mất hơi ấm...
Thời ấy ai cũng biết rằng cuộc sống của mình quá khổ, nhưng xung quanh mình ai ai cũng đều sống như vậy, không còn cách nào khác để tồn tại, để chia sẻ tình cảm mến thương với đồng bào miền Nam, để sẵn sàng hi sinh tất cả cho tiền tuyến trong cuộc chiến đấu giải phóng đất nước. Đã có một thời bất thường như thế trong dòng chảy lịch sử của một đất nước luôn phải vùng dậy, đứng lên trước những cuộc chiến tranh xâm lược của những nước lớn tự cho mình cái quyền bành trướng thiên hạ.
Tôi không phải là nhà chính trị, càng không muốn biện minh hay thi vị hóa sự hỗn mang nghèo đói của cái thời bao cấp đói kém, khốn khổ ấy, nhưng đúng là đất nước này thời ấy không còn con đường nào khác để xông tới đương đầu với những cuộc chiến tranh bất khả kháng, để được trở thành một quốc gia độc lập.
Cuộc sống luôn có được và mất. Giờ đây có rất nhiều điều, mà nếu bình tâm hơn, ta lại thấy con người và bộ máy công quyền chưa chắc đã đẹp hơn cái thời bao cấp. Ngày ấy gần như không có quan tham nhũng nhiễu người dân, không có những vụ tham ô gây thất thoát công quỹ tương đương thu nhập bình quân một năm của cả mấy chục ngàn gia đình người lao động... Quá lắm cũng chỉ có vài anh cán bộ tham nhũng vặt, bớt xén vài cân đường, hộp sữa. Con người thời bao cấp ấy sống hiền hoà nhẹ tênh, không chà đạp lên nhau, chà đạp lên mọi giá trị, không cuống cuồng bất chấp tất cả để mưu cầu danh lợi.
Tôi biết, có những ông cán bộ cấp trung ương đã vừa không nhận quà biếu vừa mắng xa xả khi người thân quen được giúp đỡ đến nhà cám ơn. Có những bao thuốc lá tiêu chuẩn quý giá mà người hàng xóm tặng cho đám thanh niên lên đường ra trận. Có những thầy cô giáo, thầy thuốc, kể cả mấy anh công an khu vực... khi người dân cần đến họ đã luôn sẵn sàng phục vụ hết lòng mà không một cử chỉ, câu nói mưu cầu lợi ích. Thanh niên trí thức và cận trí thức thì mê mệt Ruồi trâu, Thép đã tôi thế đấy... bởi họ khát khao được sống, được dâng hiến đời mình cho sự nghiệp cao đẹp đấu tranh giải phóng con người như các nhân vật trong sách. Tất cả những cái đó phải đâu là sự u mê lý tưởng? Với chúng tôi đó chính là cái đạo làm người, là sự trong trẻo hơn tất cả những triết lý mang màu sắc tôn giáo, chính trị.
Mẹ tôi mất vào một trưa mùa đông năm 1968. Ngay từ sáng sớm bà đã bò ra khỏi giường bệnh, lén mua mấy gói xôi đi thăm hỏi mấy bà bạn già trong phố. Dường như bà linh cảm trước cái chết và không muốn ra đi không một lời từ biệt bạn bè... Lại có gia đình người mẹ của bạn tôi ở khu tập thể 3B Ông Ích Khiêm, quận Ba Đình, nhận nuôi con của bạn bè đi chiến trường với một lời cam kết tự nguyện, rằng từ bây giờ tôi có thêm đứa con thứ tư, nếu chẳng may anh chị không thể trở về từ cuộc chiến tranh khốc liệt thì tôi sẽ mãi mãi là mẹ của cháu. Hay là việc nhường nhau suất xe đạp phân phối quí như cái xe gắn máy đời mới bây giờ cũng chẳng phải là chuyện hiếm thời những năm sáu mươi, bảy mươi ấy. 
Những chuyện đối nhân xử thế kiểu này ngày nay hơi xa lạ, mà nếu kể ra không hợp ngữ cảnh người ta lại cho rằng mình ngụy tạo. Tôi cứ nghĩ vẩn vơ, không biết có được bao nhiêu con người hôm nay tự hỏi mình, ta đã sống ra sao cho cuộc sống này và liệu chúng ta đã tử tế hơn những gì tốt đẹp của ngày hôm qua mà đôi khi ta giễu cười trong tâm thức? Liệu có được bao nhiêu người trong chúng ta hôm nay băn khoăn khi chứng kiến cuộc chạy đua tỷ lệ nghịch giữa một bên tiện nghi vật chất ngày thêm chất chồng sau những quay cuồng, giành giật với một bên tâm hồn con người ngày càng teo tóp, nghèo nàn thảm hại? 
Ai cũng quen tặc lưỡi đổ thừa tất cả cho mặt trái của cơ chế thị trường để được vô can trách nhiệm. Khổ nỗi, cái trách nhiệm muôn đời về việc sống tử tế đâu chỉ đặt trước cửa các cơ quan công quyền, mà còn (và trước hết) ở mỗi thành viên trong xã hội. Sự suy thoái đạo đức ngày càng nghiêm trọng của xã hội hôm nay có phải do chúng ta chỉ dồn sức chạy theo các dự án chục tỷ, trăm tỷ, nghìn tỷ, mà xao lãng xây dựng nền móng đạo đức, lối sống ngay từ trong gia đình, ngay từ trong trường học và ngay từ những khẩu hiệu trên đường phố khiến cho chúng trở nên nhạt nhẽo, vô cảm?
Cuộc sống thời nào cũng vậy, ngoài cơm ăn áo mặc còn rất cần những giấc mơ và lòng tử tế để nuôi dưỡng tâm hồn. Sự lãng mạn của con người không chỉ gói gọn trong những chuyện “Hồn bướm mơ tiên”, cũng không phải thứ tình yêu da diết một chiều bất lực...  Nét đáng yêu nhất của sự lãng mạn phải chăng là khi con người được sống là mình, sống với chính mình - mà dường như đó lại là cái mà chúng ta đang thiếu?
Cà phê Sài Gòn cuối đông mà không có mùa đông, không có cái rét phong phanh cắt da cắt thịt như ở phương Bắc. Nhưng hoài niệm về sự co ro trong giá rét, giống như cái thời bao cấp ấy, vẫn có nhiều nét đẹp khó phai mờ trong tâm thức. Nhớ đấy một thời, chỉ xin đừng như cái nhà ông Lý Toét trùm chăn, hé mắt nhìn ra...
Người Đô Thị