(TNO) Mỹ đã cố ý phớt lờ để mặc cho Trung Quốc tấn công quân đội Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa vào năm 1974 vì đã đoán trước là VNCH sẽ thất bại trước miền Bắc, theo nhận định của các chuyên gia quân sự phương Tây.
Chuyên đề: 40 năm hải chiến Hoàng
Sa
Sau khi đã chiếm được Hoàng Sa vào ngày 19.1.1974, Bắc Kinh đã điều động 43 chiến hạm đến quần đảo này để đề phòng VNCH phản công. Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu đã ra lệnh cho 4 phi đội tiêm kích F-5 bay từ Biên Hòa ra Đà Nẵng (mỗi phi đội có 24 tiêm kích) kết hợp với 1 phi đội ở Đà Nẵng để chuẩn bị giành lại Hoàng Sa. Nhưng lệnh tác chiến không được ban ra, dù các phi công đều đã tuyên bố sẵn sàng chết để giành lại lãnh thổ đất nước. Chính quyền Tổng thống Thiệu cũng đã nhiều lần thông báo tình hình trận Hoàng Sa với Đại sứ quan Mỹ nhưng Washington không hề có động thái hỗ trợ gì.
Tháng 2.1972, Tổng thống Mỹ Richard Nixon đã gặp gỡ Chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông tại Bắc Kinh. Sau cuộc gặp này, Mỹ và Trung Quốc đã cùng đưa ra tuyên bố chung phản đối "bá quyền" tại châu Á - Thái Bình Dương, theo tài liệu của Đại sứ quán Mỹ trên Tạp chí điện tử của Bộ Ngoại giao Mỹ hồi tháng 4.2006. Đến năm 1973, Bắc Kinh và Washington mở “văn phòng liên lạc” ở thủ đô mỗi nước, chẳng khác gì đại sứ quán ngoại trừ cái tên, được cho là nhằm bình thường hóa quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc. Ngoài việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, Mỹ đã ký kết Hiệp định Paris cũng trong năm 1973, chấp nhận rút quân khỏi miền Nam Việt Nam, một động thái cho thấy Washington đã tiên liệu được rằng miền bắc Việt Nam sẽ chiến thắng, nên không can dự đến vấn đề tranh chấp chủ quyền của VNCH. BBC hồi tháng 10.2011 dẫn các tài liệu mật của Bộ Ngoại Mỹ cho biết sau trận hải chiến Hoàng Sa, Đô đốc Thomas H. Moorer, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Mỹ, từng báo cáo với Ngoại trưởng Mỹ lúc bấy giờ là ông Henry Kissinger rằng: "Toàn vùng đó là cả vấn đề. Trường Sa, Hoàng Sa và các đảo khác có cùng vấn đề - đó là vùng lãnh thổ đang tranh chấp. Chúng tôi đã ra lệnh tránh khỏi vùng đó". "Mỹ không có lập trường trong việc ủng hộ tuyên bố chủ quyền của Nam Việt Nam tại các đảo này", Ngoại trưởng Kissinger nói trong cuộc gặp với ông Hàn Tự, quyền trưởng phái đoàn liên lạc của Trung Quốc tại Washington, vào ngày 23.1.1974. Mặc dù Mỹ nói không can dự vào trận chiến Hoàng Sa, nhưng Cục Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) đã theo sát tình hình ở Hoàng Sa, cập nhật tình hình mỗi ngày, theo bài viết nhan đề “CIA theo dõi sát trận Hoàng Sa 1974” do BBC đăng tải ngày 30.12.2013. Các nhà quan sát cho rằng do mới “làm lành” với Trung Quốc và cũng không muốn xích mích với Bắc Kinh vì điều này sẽ ảnh hưởng đến kế hoạch rút quân khỏi Việt Nam, nên Washington đã “án binh bất động” trong trận hải chiến Hoàng Sa năm 1974. VNCH bị Mỹ gây áp lực “Chừng nào còn một hòn đảo thuộc phần lãnh thổ ấy của VNCH bị nước ngoài chiếm giữ bằng bạo lực thì chừng ấy Chánh phủ và nhân dân VNCH còn đấu tranh để khôi phục những quyền lợi chánh đáng của mình”, chính quyền VNCH ra tuyên cáo vào ngày 14.2.1974 sau khi Trung Quốc chiếm Hoàng Sa. Tuy nhiên, chính quyền Tổng thống Thiệu đã không ra lệnh cho chiến đấu cơ xuất kích để oanh tạc tàu chiến Trung Quốc, dù rằng với thực lực F-5 lúc bấy giờ có thể giúp VNCH giành lại được Hoàng Sa từ tay Trung Quốc. Nhiều tài liệu quốc tế cho rằng chính Mỹ đã gây áp lực để chính quyền ông Thiệu không ra lệnh xuất kích vì không muốn đụng chạm đến Trung Quốc, lo ngại điều này sẽ làm ảnh hưởng đến kế hoạch rút quân của Mỹ. Nhưng Mỹ được cho là có một “toan tính” sâu xa hơn khi không can dự vào trận Hoàng Sa năm 1974. Việt Nam và Trung Quốc đều đi theo con đường XHCN. Việc Washington “làm ngơ” cho Trung Quốc ngang nhiên xâm chiếm Hoàng Sa tạo ra sự thù địch giữa Hà Nội và Bắc Kinh, dẫn đến sự chia rẻ giữa các nước cộng sản. Sự thật là cho đến nay, giữa Trung Quốc và Việt Nam vẫn còn tồn tại tranh chấp chủ quyền biển đảo tại biển Đông. Phúc Duy - Hoàng Uy |
No comments:
Post a Comment