Sunday, May 1, 2016

Hơn 50 năm, nhìn lại một đời người, 1963-2016

Phạm Thăng Long-04-27-2016

Để tưởng niệm người anh, Phạm Đỗ Hùng, vừa khuất bóng ở San Francisco và tro bụi sẽ theo ngọn lửa thiêu vào đúng ngày 30 tháng 4, 2016 này, mong tìm được dòng nước trở về quê hương lần đầu từ 41 năm nay.
***
Gần dịp 30 tháng 4 mỗi năm, chúng ta ở hải ngoại có thói quen làm một cuộc “hành hương tâm linh,” nhìn lại kỷ niệm tha hương và viết cho bạn bè người thân. Bài này tập hợp nhiều đoạn văn rời, đi kèm các hình ảnh ghi lại trong tâm trí từ mùa hè 1963 lúc người viết còn là học sinh lớp Đệ Tam trường Chu Văn An (lớp 10 bây giờ), vừa đủ “lớn” để biết ghi nhận sự việc quanh mình và sửa soạn vào đời trong bầu không khí dầu sôi lửa bỏng lúc đó của miền Nam do biến cố Phật Giáo. Và kéo dài đến bây giờ vào tháng 4, 2016, hay 41 năm sau cơn dâu bể 1975 đã làm Sài Gòn đổi tên đổi chủ, làm cả cuộc đời thanh niên của mình thay đổi theo “vận nước” để đi vào tuổi “lão niên” lúc nào không biết!

Nhưng hơn thế, bài này mong ghi lại những mảnh đời, trong một thời gian dài của thế hệ lớn lên ở miền Nam rồi ra nước ngoài, do hoàn cảnh ở hai không gian hoàn toàn khác biệt. Bài viết cũng nhằm ghi lại vài nét chấm phá cho những bức ảnh lịch sử, ghi nhận nhiều sự kiện trong con mắt chủ quan.

Thế hệ đó nay thuộc vào giới tuổi hưu. Vì đã lớn lên trong chiến tranh ở miền Nam, thuở niên thiếu đã mang nặng hình ảnh và day dứt của cuộc chiến, không có được những bình yên trong ý nghĩ tuổi thơ và cái hồn nhiên mê đá bóng hay đua xe máy như lớp thiếu niên cùng thành phố lớn lên sau này ở quê nhà. Những ám ảnh về cuộc chiến trở thành một hành trang nặng nề lúc ra đi sống ở nước ngoài. Vì thế luôn ấp ủ chút kỷ niệm đẹp về tuổi thơ ở quê nhà, nâng niu từng hình ảnh với người thân trong gia đình và bạn bè lúc còn sống ở đó.

Ra đi và đã sống ở nhiều nước trên thế giới: Canada, Mỹ và vài nước khác do công việc đòi hỏi. Nhưng tâm tư vẫn luôn quay về chốn cũ, hoài niệm những tia nắng ấm quê hương trong cái giá buốt của tuyết lạnh Bắc Mỹ, nhớ lại những dòng sông nơi quê nhà mỗi lần đứng nhìn sông Potomac chảy qua Washington, D.C, ngay cả lúc sang đến tận Phi Châu làm việc, chịu cơn nóng thiêu đốt vì thiếu mưa, vẫn còn bâng khuâng nhớ đến những cơn mưa dài của Sài Gòn thuở nào.

Người viết đã giữ lại nhiều hình ảnh xứ người, nhưng lại chủ ý ghi dấu tâm tư so sánh với quê nhà, tựu chung cũng là để “tìm lại khoảng thời gian đã mất,” như Marcel Proust đã viết. Đôi khi thiếu khách quan vì đã ca tụng quê hương mình thái quá.

Rồi nhờ các cơ hội nghề nghiệp, được thỏa mộng viễn du qua các chuyến công tác, để từ đó luôn ghi vội hình ảnh những chuyến đi, những gì đã thấy đã nghe. Và trong cái sôi nổi được thấy cảnh mới người lạ, cùng óc cầu tiến của người trẻ, thấy cái gì của bên ngoài cũng hay cũng đáng học. Những băn khoăn, mong ước cho một đất nước Việt Nam tươi sáng phú cường, cùng những ước vọng và dự phóng tương lai cho quê hương hình thành từ đó. 

Sài Gòn 1963-64
Trừ những lúc có cơn mưa nặng hột và dài thường xuyên đổ xuống xối xả, trời Sài Gòn oi bức lạ thường Hè năm đó, do không khí chính trị ngột ngạt của miền Nam với biến cố Phật Giáo và những năm tháng cuối cùng của Chính Phủ Ngô Đình Diệm. Các trường trung và đại học cùng tham gia vào không khí sôi nổi đó một cách bộc phát mà không suy nghĩ sâu xa. Nhưng sau một đời người nhìn lại và đọc nhiều sách lịch sử mới hiểu lúc đó mình chỉ là những con chốt nhỏ bị giật dây trong những hoạt động chính trị đầu đời.

Những phố phường còn vắng, các ngôi nhà cao tầng xây cất giản dị, tuy Sài Gòn đang mang danh “Hòn Ngọc Viễn Đông,” nơi các phố Nguyễn Huệ, Tự Do, Lê Lợi luôn tràn đầy khách du lịch hạng sang từ vài nước láng giềng, nhất là từ Singapore khao khát ngắm cảnh lạ đến Sài Gòn tìm mua các mặt hàng xa xỉ.

Từ nhiều năm, thành phố đã hưởng sự yên bình đáng kể, đời sống kinh tế khá sung túc ổn định. Đã qua những cái Tết 1956-63 an vui tràn đầy, với những cành mai vàng khoe sắc, với tiếng pháo nổ ran từ giữa đêm giao thừa và xác pháo đỏ ngập đường phố ba ngày Tết. Tuy đời sống vật chất hàng ngày còn tương đối đạm bạc.

Nhưng sự ổn định chấm dứt sau cuộc chính biến 1 tháng 11, 1963, Chính Phủ Ngô Đình Diệm được thay bằng nhiều chính phủ lâm thời từ 1964, có khi chỉ kéo dài vài tháng. Các xáo trộn kinh tế, xã hội, giáo dục nặng nề nhiều năm sau đó, đã là hệ quả tất nhiên của cuộc thay đổi chính trị này mà lịch sử mấy chục năm sau mới giải thích được.

Các năm 1965-1975
Một số thanh niên du học đã rời nước ra đi trong hoàn cảnh đó, nhìn lại đất nước quê hương từ xa như chứng nhân bất đắc dĩ.

Những chính phủ quân nhân hay dân sự trên đã làm rối đi chính trường miền Nam. Cuộc chiến đồng thời leo thang trầm trọng, rồi thành khốc liệt trong suốt 12 năm tiếp nối khi miền Bắc gia tăng áp lực. Rồi kéo theo sự hỗ trợ của Hoa Kỳ và đồng minh. Cuộc chiến bước sang giai đoạn hủy diệt, thay đổi toàn bộ xã hội miền Nam. Những tang tóc đau thương hằn lên dấu vết cho từng gia đình. Từ bên kia trái đất, chúng tôi theo dõi qua truyền hình hàng đêm tin tức chiến sự quê nhà, rồi thao thức trằn trọc thâu đêm.

Biến cố Mậu Thân 1968 đã là biến cố gây đậm nét đau thương nhất trong vài năm đầu xa quê hương. Vài bạn từ Huế có hung tin ngay từ sớm, đem tang chung cho cộng đồng sinh viên du học, mối âu lo kéo dài nhiều ngày. Cảnh các nhóm túm tụm nhau trong vài phòng “dormitory,” bỏ học và uống bia say suốt đêm trong nỗi nhớ nhà và âu lo cho an ninh gia đình, đã là kỷ niệm khó quên gần suốt đời du học.

Cuộc chiến đi vào khốc liệt hơn từ sau 1971, với sự đổ vỡ mất mát toàn diện cho miền Nam từ biến cố tháng 4, 1975 như một cuộc đổi đời. Đám sinh viên tốt nghiệp trở thành lạc lõng, mất định hướng hoàn toàn trên xứ người, rải rác ở nhiều nước trên thế giới. Nhiều người lại nặng gánh, phải lo cho cả gia đình mới sang định cư. Hình ảnh Việt Nam xa mờ dần, rất đông tự nhủ cố gắng “xin nhận nơi này làm quê hương” trên các miền đất hứa, coi như từ nay chia tay vĩnh viễn miền đất bên kia địa cầu.

Nhưng rồi cũng đến một ngày đòi hỏi nhiều thay đổi ở Việt Nam. Vì nhu cầu kinh tế cấp bách, miền đất đó phải thay đổi phần nào các chính sách. “Đổi Mới” là tên gọi cho hai thập niên mở cửa nền kinh tế, áp dụng các chính sách thị trường dù còn hạn hẹp. Kết quả là đã có những tiến bộ vật chất nhất định, như các chỉ số tăng trưởng, bộ mặt đời sống được cải thiện ở những thành thị, dù nông thôn còn chìm đắm trong cái nghèo khó cố hữu.
Một số người chợt quyết định muốn trở về nhìn lại quê hương, dù trong tâm tư “Từ Thức về làng.”


Những năm sau 1975: Còn đó nỗi buồn
Tôi trở về Sài Gòn nhiều lần trong đầu thập niên 90 do công việc đang làm với một tổ chức tài chính quốc tế, mới chợt tìm thấy một lúc muốn ngồi xuống bình tâm viết lại vài xúc cảm về thành phố đã ôm ấp biết bao kỷ niệm đẹp của tuổi mới lớn.

Vốn sinh ra ở Hà Nội, thời trung học tôi nâng niu những quyển sách Tự Lực Văn Đoàn của các nhà văn kể chuyện về đất Thăng Long. Những năm gần đây nhất, đọc bao tùy bút và hồi ký ở hải ngoại phần lớn nói về Hà Nội, tôi cũng tưởng mình sẽ chỉ muốn viết về thành phố huyền thoại ấy. Nhưng sau nhiều chuyến công tác ngắn ghé thăm Việt Nam, tuy Hà Nội có quyến rũ, thơ mộng nhưng tôi chợt nhận ra sự gần gũi chỉ tìm thấy ở Sài Gòn.

Đó mới là “thành phố của tôi,” trở về mà không phải cần bản đồ để tìm đường, không phải nhờ người hướng dẫn du lịch, chỉ chỗ xem phong cảnh hay vài chỗ ăn uống nổi tiếng. Những con đường quen thuộc, chỉ đổi tên mới, vẫn còn đó. Những hàng me ướt lá sau cơn mưa chiều vẫn còn nguyên vẹn nét trữ tình, chờ đợi... Mái tóc kẻ bộ hành bây giờ đã ngả dần sang hai mầu, khác xa những ngày tháng cũ thuở trung học tóc còn mướt đen ướt đẫm vì chạy vội dưới cơn mưa rào.

Lần đầu tiên trở về trong niềm xôn xao khó tả trong lòng, từ lúc phi cơ đáp xuống Tân Sơn Nhất, thấy những ngôi nhà cũ, các hầm trú bê tông cho máy bay từ thời chiến tranh, đến lúc ở giữa dòng giao thông đông đúc chạy theo con đường Công Lý. Rồi rẽ trái Dinh Độc Lập ra đường Thống Nhất, qua khu nhà thờ Đức Bà về khách sạn Caravelle ở trung tâm thành phố gồm những địa danh cũ: Tòa nhà Quốc Hội, rạp ciné Rex, khách sạn Continental, hiệu kem Givral góc đường Tự Do và Lê Lợi, đường Nguyễn Huệ tráng lệ chạy dài từ Tòa Đô Chính ra đến bến Bạch Đằng gồm những kiosques bán hoa, băng nhạc, mứt rượu Đà Lạt... Bây giờ những quán này đã được gỡ bỏ, làm cho con đường trở thành sạch rộng hơn trước nhiều, nhưng lại mất vẻ thân quen cho khách xưa.

Cái nóng oi bức, bụi khói của những chiếc xe Honda vẫn là bức tranh khó quên của đường phố Sài Gòn dạo trước. Sau hơn hai mươi năm với dân số tăng gần gấp ba, số nhà cửa, xe cộ làm thành phố chật hẹp di nhiều và làm lộ rõ áp lực nạn nhân mãn của các đô thị Á Châu bây giờ. Khu vực công trường ở trước nhà bưu điện chính bao quanh nhà thờ Đức Bà vẫn còn vẻ đẹp uy nghi, giữ lại nét diễm lệ của thành phố.

Ngày xưa mỗi chủ nhật tôi vẫn thường phóng mobylette đến khu vực này để tìm mua những ổ bánh mì Bưu Điện ngon, bọc sạch sẽ trong giấy màu trắng ngà của quán Hương Lan, mà bây giờ không còn tìm thấy nữa.

Những ngày trở lại Sài Gòn tuy ngắn ngủi, nhưng tôi đã bỏ khá nhiều thì giờ tản bộ trên những hè phố quanh khu trung tâm Tự Do-Nguyễn Huệ-Lê Lợi. Đặc biệt mỗi sáng sớm, tôi có thói quen đi dạo từ khu khách sạn “mini” ở đường Tự Do xuống nhà thờ Đức Bà, qua công trường “con Rùa” nơi có viện Đại Học. Rồi trở lại đường Duy Tân, tôi qua trường Luật tìm ngôi nhà cũ của mình ở góc Hiền Vương. Con đường cây dài bóng mát ngày xưa bây giờ đã khác đi nhiều, đã mất bớt cây cối và chật hẹp bẩn hơn vì những quán hàng la liệt hai bên vỉa hè.

Ngày xưa con đường này chỉ toàn những villa nhà ở sang trọng, bây giờ mở những cửa hiệu nhỏ, hay được đập đi thành những khu văn phòng cho người ngoại quốc thuê.
Góc Lê Lợi và Tự Do.

Dừng lại trước địa chỉ cũ của ngôi nhà dấu yêu, nơi tôi đã sống những ngày thơ ấu, tôi bàng hoàng khi thấy căn nhà đó biến mất và được thay thế bằng cao ốc trụ sở của một ngân hàng lớn bây giờ. Cảm xúc vì tiếc nuối, ngỡ ngàng dâng lên mãnh liệt, nhắc nhở thực tại Từ Thức về chốn cũ. Tôi bắt đầu những ngày ở Sài Gòn chỉ đi tìm về những nơi hay lui tới dạo trước, cố quay lại những khúc phim cũ trong ký ức để so sánh với những cái mình thấy bây giờ.

Một nơi khác mà tôi cũng cố tìm tới là khu nhà thờ Ngã Sáu ở Minh Mạng thăm lại ngôi trường Chu Văn An cũ. Tôi bước vào lớp học cũ, nhìn lại từng dãy xe đạp, bâng khuâng hoài niệm những khuôn mặt thầy bạn cũ của một thời làm báo học trò, của những mối tình si nhẹ nhàng lúc bỏ sang trường Trưng Vương thả hồn theo các tà áo trắng trên đường Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Tìm mãi mà tôi không nhận ra đâu là khu nhà nhỏ của bác gác gian nổi tiếng của trường, nơi vẫn bán xôi lạp xưởng và chè đậu đen đầy kỷ niệm cho hàng bao thế hệ Chu Văn An. Tôi chỉ còn nhớ căn buồng dùng làm khu sinh hoạt học đường trong dãy nhà ngoài cùng nơi vẫn đến tập múa hát hay hội họp làm báo. Ba năm trung học với những kỷ niệm hoạt động học đường, lo lắng thi cử, những tình yêu học trò chợt đến chợt đi. Vài mộng mị lý tưởng cho tuổi mới lớn khi tình yêu quê hương vừa hình thành một cách đứng đắn, đan kết bởi những dằn vặt suy tư của một thế hệ lớn lên trong bối cảnh chiến tranh thời đó.

Cắt ngang là đường Bà Huyện Thanh Quan êm đềm với chùa Xá Lợi giờ đây trông nhỏ bé quạnh hiu. Khác với chùa Xá lợi, chùa Vĩnh Nghiêm ở đường Công Lý trông bề thế, nhộn nhịp hơn, lúc nào cũng khói hương nghi ngút với số người đi lễ đông nghẹt gần như thường trực. Chùa Vĩnh Nghiêm và Vương Cung Thánh Đường gần như là hai “thắng cảnh” đặc biệt cho những người ở xa về.

Nhưng tôi xúc cảm nhiều hơn lúc đi theo đường Trương Minh Giảng, vượt qua cầu và ngôi chợ nhỏ. Tìm đến ngôi chùa Pháp Hoa rất nhỏ, đặt nén hương cho những người thân nằm đó trong bình yên vĩnh cửu. Người đàn ông 65 chợt thấy mắt nhạt nhòa trước hai khung ảnh gắn trên bình tro của bà nội tôi và ba tôi. Bao người xưa đã nằm xuống, một số khác đã đi ngoại quốc, bạn bè thân đã bỏ mình hay tản mát nơi đâu sau mấy chục năm?

Tôi quay về đây chợt thấy lạc lõng dù đó là thành phố mộng tưởng của các năm dài sống ở bên Mỹ. Những ngày ở khách sạn Sài Gòn, ba buổi đi tìm hiệu ăn. Thiếu vắng một bữa cơm nóng đơn giản trong ngôi nhà quen thuộc, đã làm cho tôi nhận rõ cảm tưởng chua chát mình chỉ là khách du lịch ngay trên quê hương, dù vài người thân họ hàng vẫn niềm nở tiếp đãi. Không khí ngày Tết hay Giáng Sinh có nhộn nhịp chào đón và gợi cảnh cũ, tôi vẫn thấy mình đếm rõ từng bước cô đơn trên các hè phố cũ quen thuộc.

Trong ánh mắt nhìn của đa số họ hàng, bạn bè vẫn còn chút tò mò tìm hiểu kẻ lạ trước mặt là tôi. Và dù muốn tự dối mình, tôi cũng không thể xuất hiện như những người bình thường trong cuộc sống hàng ngày ở đây. Tôi vẫn là “người lạ,” càng cố làm ra vẻ tự nhiên hòa đồng lại càng thấy ngượng nghịu, có chút tính chất “kịch” trong đó. Ở vài nơi tiếp xúc làm việc, tôi càng nhận ra điều đó. Tôi đã được đào tạo trong môi trường khác, với cách suy nghĩ hoàn toàn xa lạ với những anh em đồng nghiệp chung quanh.

Nếu tôi đến họ với tư cách doanh nhân hay đại diện một cơ quan nước ngoài, công việc có phần thuận lợi hơn trong cách cư xử. Nhưng nếu tôi muốn trở về “nhập cuộc” trong một cơ sở Việt Nam như một nhân viên bản xứ, sự hội nhập sẽ khó khăn và gần như không tưởng. Hiệu năng làm việc sẽ rất khiêm tốn vì những hàng rào ngăn cách trong công việc và giao tế. Tôi ngỡ ngàng khi nhận ra điểm đó sau vài chuyến về nhà. Nếu tôi còn bị xa lạ như thế sau khi đã trưởng thành ở Việt Nam và không bị khó khăn về ngôn ngữ đối thoại, làm sao các thế hệ con em có cơ hội trở về khi chúng chỉ bập bẹ tiếng Việt, đọc chữ không thông, đừng nói gì đến quay về sống và làm việc. Liệu quê hương sẽ chỉ là một địa danh du lịch hấp dẫn trong tâm tưởng nhóm con em ở hải ngoại này không?

Những ý nghĩ trên càng đi sâu vào trong tâm tư như một nỗi buồn gậm nhấm trong các chuyến về kế tiếp.
Quán Brodard 1955-56.

Mỗi lần trở về Mỹ, tôi ít có dịp kể lại đầy đủ các chuyện trên cho bạn bè, nhất là nếu chưa đủ thân thiết, vì đa số những lập luận hay câu chuyện đều hướng về công việc làm ăn hay những dự định tậu nhà, mua xe mới cho đời sống “bên này.” “ Bên kia” chỉ nên được coi như là thiên đường đã mất hay trong trí tưởng. Lý luận của bạn bè hay họ hàng chắc nịch như vậy nên tôi cả nể thường im lặng, chỉ kể qua loa về nếp sống ở Sài Gòn sau những chuyến công tác hay thăm viếng ngắn. Tôi chỉ quyết định viết những điều dài dòng này về Sài Gòn sau khi đọc rất nhiều sách báo về Hà Nội, và cảm thấy ẩn nhẫn bất công cho Sài Gòn, nơi đã cho tôi bao kỷ niệm đẹp thơ ấu và còn cho tôi sự quen thuộc gần gũi mỗi lần trở về, dù phần lớn chỉ để hoài niệm những ngày tháng đã qua trong thành phố thân yêu ấy.

Và có lúc tôi đã muốn kêu to: Sài Gòn, ôi tình nhân đã khuất!
Và hôm nay 2016
Những năm thay đổi đã cho Sài Gòn một bộ mặt mới hào nhoáng hơn nhiều, tiêu biểu nhất là trong những bức hình của khu trung tâm Eden ở quận Nhất ngày xưa. Tòa nhà có quán cà phê Givral nổi tiếng đã được thay thế bằng một building mới sang trọng như ở Paris, London... Ngồi lại trong chiếc ghế của quán mới, khó ai nghĩ mình không đang ở một thành phố lớn hiện đại của trời Âu.
Trung tâm Eden mới.

Nhưng, người biết rõ xã hội miền Nam ngày trước có mặt hôm nay, không thể không nói đến cái giá đắt phải trả. Người thanh niên trẻ của xã hội mới không thể dấu mọi chuyện với người bạn thế hệ cũ mới gặp.
Đất nước hôm nay chứng kiến sự băng hoại của cả một xã hội cũ trong cái hào nhoáng mới hình thành. Con người đã thay đổi quá nhiều, đức tính thành thật trong giao tiếp hàng ngày gần như đã mất. Các giá trị tinh thần được đánh giá bằng các thước đo vật chất.

Lý tưởng thanh niên đang bị lung lay không chỗ dựa. Người ta có thể vội vàng nhận xét nhóm người tuổi trẻ hôm nay chỉ sống vội, ồn ào theo đuổi vật chất, và gần như vô cảm. Nhưng thật sự họ là những người cô đơn nhất. Một đất nước có thống kê chỉ rõ tuổi trung bình là 24, và 65% dân số dưới tuổi 35, nhưng lại ít chú ý chăm sóc giới trẻ nhiều tiềm năng đó qua giáo dục và phát triển tinh thần.

Hiện trạng của đất nước không tạo được cảm hứng hay nuôi dưỡng các ý tưởng phục vụ cho thế hệ trẻ hôm nay. Tương lai với họ như thiếu chắc chắn, vì các giá trị dân chủ, công bằng và nhân ái cần thiết cho một xã hội hiện đại đều thiếu vắng. Ngay cả sự tiến bộ kinh tế, điểm sáng được ca tụng trên sách báo của bốn mươi năm qua, cũng đang trở thành mong manh tạm bợ.

Tăng trưởng đã chậm lại rõ rệt từ vài năm nay do sự bế tắc chính sách, điển hình nhất là do sự chi phối của các bè nhóm vì lợi ích riêng tư. Đồng thời phẩm chất cuộc sống đi xuống, nhiễm độc môi trường và thức ăn trở thành mối đe dọa trực tiếp hàng ngày cho đời sống của mọi giai tầng xã hội. Trên tất cả, nền kinh tế bị đe dọa sụp đổ từ 2-3 năm nay, khi hệ thống ngân hàng có thể vỡ bất cứ lúc nào với mức nợ xấu quá mức chịu đựng, nếu không có các chính sách thích hợp cấp thời. Nợ xấu tư nhân khổng lồ làm tê liệt hệ thống tín dụng ngân hàng và gánh nặng nợ công lớn không kém có lẽ đang tạo thành một “thế vỡ trận” tài chính trong tương lai gần. Gánh nặng hình như đang được đẩy cho các thế hệ tương lai phải chịu, với sự dồn món nợ công hiện tại thành những món nợ lớn tương lai qua giải pháp phát hành trái phiếu công dài hạn trong và ngoài nước.

Nhiều chuyên gia đang bàn đến các giải pháp kinh tế xã hội ngắn hạn. Nhưng trong con mắt chuyên viên, khó có thể có một “quick fix” (sửa chữa nhanh) hay “a sugar high” (một ảo tưởng), mà phải là những thay đổi thể chế và chính sách kinh tế cơ bản dài hạn, cộng thêm việc tái lập các giá trị nhân văn căn bản qua giáo dục và hướng dẫn cho tuổi trẻ.

Thế hệ trẻ biết rõ nhưng vẫn thờ ơ với viễn ảnh tương lai đó. Thiếu niềm tin, họ đang trả lời bằng sự chán chường những giá trị sống hiện tại, dồn đam mê đời sống vào các mác xe máy đắt tiền và những chiếc điện thoại thông minh thời trang, tỏ lộ hừng khí tuổi trẻ đơn giản bằng các cuộc đua xe tốc độ hàng đêm trên những đường vắng, hay khá hơn, chỉ biết diễn tả lòng yêu nước đơn giản bằng cổ vũ chiến thắng đá bóng cuồng nhiệt trong các trận “thư hùng” với các đội quốc gia vùng.

Nhưng Sài Gòn 2016 chợt thành ngột ngạt thêm vì những biến cố thời cuộc, và sự sôi sục của cả thế hệ thanh niên muốn nói lên tiếng nói yêu nước của mình. Cùng lúc các ức chế xã hội cộng thêm những khó khăn về đời sống hàng ngày hình như đã góp phần gây thêm những tội phạm xã hội ngày càng cao hơn, cho các dấu hiệu của một xã hội đang trên đà xuống dốc trầm trọng.

Nhưng hơn 50 năm qua nhìn lại vào dịp 30 tháng 4 năm nay, quê hương vẫn còn đó, là dòng sông Hồng, là nhánh Cửu Long, là Hương giang, và ở bất cứ đâu nhìn dòng nước lặng lờ trôi, lòng nhận biết mình vẫn thuộc về nó: một quê hương không bao giờ mất.

Biết ơn và không quên những người đàn anh thế hệ trước đã hy sinh, tôi thấy mình vẫn còn tự nói lên được tiếng nói hãnh diện của cả một thế hệ tuổi trẻ miền Nam, hay của bên tạm bị ví von thời thượng là “Bên Thua Cuộc.” Theo chiều dài lịch sử của cả một đất nước và một dân tộc, hôm nay bên thắng bên thua có lẽ chưa ngã ngũ là ai vì chưa rõ được hồi chung cuộc, nhưng ít nhất thế hệ chúng tôi có thể nhớ lại nhiều điểm son.

Tuổi thanh thiếu niên dưới hai nền Cộng Hòa miền Nam trước đây tràn đầy lý tưởng. Không khí học hành sôi nổi, các trường thi đua trong các kỳ thi tổ chức qui củ. Giấc mơ du học hình thành. Ý tưởng học xong trở về nước phục vụ luôn ngút ngàn. Nền tảng tổ chức một xã hội công dân bắt đầu hình thành, cho thanh niên mới lớn giấc mơ giản dị là sẽ phục vụ đất nước bằng con đường học vấn, giống như bất cứ người trẻ nào trong các nước láng giềng. Quốc gia đang còn ở trong giai đoạn “hình thành” (“nation building”) với những căn bản phôi thai về dân chủ nhưng đã biết tôn trọng các nguyên tắc nhân quyền quốc tế công nhận. Xã hội nói chung còn mang vài nét phong kiến cũ rơi rớt lại, nhất là dưới thời Tổng Thống Diệm, nhưng đã được xây dựng chắc chắn trên căn bản “nhân nghĩa lễ trí tín” của dân tộc Việt từ ngàn năm. Tiếc là cơ cấu tốt đẹp đó không được kéo dài!

Vài đàn anh lớn đi trước, đã tốt nghiệp hoặc đã đi dậy trên bục giảng đường đại học ngoại quốc, nhưng đa số mới bắt đầu lên đường năm thứ nhất, tạo phong trào cho các thế hệ đàn em vài năm sau đó. Nền giáo dục miền Nam vẫn bị chỉ trích thường xuyên dạo đó do sự cầu tiến, nhưng công bằng mà nói, những sinh viên phát xuất từ những ngôi trường Nam Việt Nam, đã xuất sắc ở những trường Âu Mỹ vào các kỳ thi tốt nghiệp sau này, là chứng cứ cho thành tích đáng kể của nền giáo dục VNCH nhìn lại.

Mong ước xây dựng một Nam Việt Nam trù phú hùng cường từ những năm 1960, tương tự giấc mơ của Nam Hàn trong ba thập niên sau, nung nấu tâm can những người trẻ, dù việc thực hiện giấc mơ đó được hay không sau này mới hiểu là do “thiên định.”

Từ 1963, hai Nền Cộng Hòa của miền Nam Việt Nam đã bị đánh đổ, gây ra hai Cơ Hội Bỏ Lỡ (lost opportunities) và đẩy miền Nam vào vị trí “bên thua cuộc” tháng 4 năm 1975.

Lớn lên và mãi hơn 50 năm sau, mới hiểu các phù thủy chính trị và “bàn tay lông lá” đã triệt hạ chế độ Tổng Thống Diệm để đánh đổ Đệ Nhất Cộng Hòa của miền Nam (2 tháng 11, 1963) như thế nào, gây ra Cơ Hội Bỏ Lỡ lần thứ nhất để xây dựng một Việt Nam độc lập phú cường như của Nam Hàn sau này, đủ sức chống lại sức mạnh từ phương Bắc và biết đâu thay đổi cả vận mệnh và lịch sử đất nước?! Ông Henry I (Henry Cabot Lodge, đại sứ Mỹ năm 1963) đã được bạn “đồng minh” Mỹ giao nhiệm vụ nhạc trưởng lật Tổng Thống Diệm và ông em.

 Mười hai năm sau, 30 tháng 4, 1975, mặc dù sau cuộc chiến dài tàn phá quê hương với nhiều lý do phức tạp hơn, đồng minh lại quay lưng phản bội làm đổ nốt nền Đệ Nhị Cộng Hòa miền Nam. Cơ Hội Bỏ Lỡ lần thứ hai này do Ông Henry II (Henry Kissinger) đạo diễn với tư cách ngoại trưởng chính phủ Mỹ từ bên kia nửa địa cầu. (*)

Ông Henry I đã nằm yên bên này xứ Mỹ, như hai ngôi mộ “Huynh” và “Đệ” của hai người anh em được chôn bên cạnh nhau trong một nghĩa địa Lái Thiêu hoang vắng ở bên kia sau ngày 2 tháng 11, 1963, mà hàng năm chỉ có một dúm người nhỏ đến thắp hương thăm viếng tưởng niệm!

Với ông Henry II, dù vẫn tại thế viết thêm những cuốn sách hay bài diễn thuyết hùng hồn của một “đại trí thức” để giải thích chối lỗi, tiếp tục gian dối cả nước Mỹ chứ không riêng gì cộng đồng dân tộc Việt, trách nhiệm ông còn rành rành qua kho tài liệu lịch sử và các chứng nhân Việt-Mỹ. Gần 2 triệu người chúng tôi đã tức tưởi nằm xuống, hay chìm sâu trong lòng biển trên đường tìm tự do, hay gửi thân vào tro bụi theo ngọn lửa thiêu cuối đời tha hương nhọc nhằn bất đắc dĩ, mong theo dòng nước các đại dương lớn trôi dạt nửa trái đất về bến bờ xa cũ... Tâm tư đó còn rất sâu đậm trong lòng mỗi người Việt tha hương mỗi dịp ngày 30 tháng 4 trở lại.

Trong nén hương lòng đó, người viết mong tìm đến một dòng sông nhỏ, hay một chiều Sài Gòn đi dạo mưa dưới những hàng me lá đổ, vẫn còn cố tìm về “quê hương trong tâm tưởng,” dù thời gian có trôi qua và các khuôn mặt cũ đã khuất bóng như người anh vừa nằm xuống. Và chợt tìm thấy lại niềm hạnh phúc và hy vọng mãnh liệt ở đó, vì các thay đổi lớn khác sẽ phải đến: Những con người, định chế hiện tại sẽ theo luật thời gian.

Một đất nước sẽ mãi trường tồn bên những biển dâu, những người trẻ Việt Nam hôm nay sẽ tìm lại được niềm tin của các thế hệ đàn anh thuở nào. Họ sẽ tiếp nối ngọn lửa nhỏ tuy thực tế chỉ còn le lói trước mặt, để có một ngày biến thành bó đuốc chói sáng cho vận hội mới của cả dân tộc Việt, không thể là kẻ “thua cuộc” mãi mãi được, nhất là trước hiểm họa xâm lăng gần kề của Hán tộc!

Theo Người Việt


(*) Tôi được đọc cách gọi 2 đao phủ Henry I và II này trong một quyển sách giá trị của Giáo Sư Nguyễn Tiến Hưng về lịch sử Việt Nam 1955-75, hy vọng sẽ được tác giả cho ra mắt dịp gần đây.

No comments:

Post a Comment