Thursday, November 20, 2014

WTO yêu cầu Mỹ điều chỉnh thuế với tôm của Việt Nam

HÀ NỘI (NV) .- Cách tính thuế mà Hoa Kỳ đang áp dụng đối với mặt hàng tôm của Việt Nam không phù hợp với các qui định của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) nên cần phải điều chỉnh.


Nhân công tại một nhà máy xuất cảng tôm tại Việt Nam chuẩn bị chế biến. (Hình: STR/AFP/Getty Images)

Đó là kết luận của WTO sau khi xem xét khiếu nại của Việt Nam.

Cách nay khoảng mười năm, tôm đông lạnh mà Việt Nam xuất cảng sang Hoa Kỳ bị Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) điều tra vì nghi ngờ bán phá giá. Sau đó, DOC quyết định áp dụng thuế chống bán phá giá. Mức thuế chống bán phá giá được áp dụng đối với 54 doanh nghiệp xuất cảng tôm của Việt Nam dao động trong khoảng từ 4.3% đến 25.76%.

Đầu năm 2012, Việt Nam nhờ WTO phân xử vì cho rằng Hoa Kỳ đã vi phạm một số quy định của WTO và của chính Hoa Kỳ. Gần đây, WTO xác định, Hoa Kỳ không đúng khi tính biên độ phá giá đối với các doanh nghiệp sản xuất - xuất cảng tôm của Việt Nam, trong việc áp mức thuế toàn quốc ở mức cao và hành xử không thỏa đáng khi bác bỏ một số yêu cầu của các doanh nghiệp sản xuất - xuất cảng của Việt Nam.

Trao đổi với báo giới Việt Nam, ông Trương Đình Hòe, Tổng Thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), cho biết, nếu DOC chấp nhận phán quyết của WTO thì DOC phải tính lại mức thuế chống bán phá giá từ đầu năm 2012 đối với các doanh nghiệp xuất cảng tôm của Việt Nam và mức thuế chống bán phá giá sẽ là 0%.

Nếu thuế suất chống bán phá giá liên tục là 0% trong ba năm, doanh nghiệp xuất cảng tôm của Việt Nam sẽ không còn bị áp đặt thuế chống bán phá giá. Sự kiện vừa kể chỉ là một trong một chuỗi các tranh chấp thương mại giữa doanh giới Việt Nam với ngoại quốc.

Càng ngày, tranh chấp thương mại giữa doanh nghiệp Việt Nam với các doanh nghiệp ngoại quốc càng nhiều. Năm ngoái, qua một báo cáo mang tên “Bài học kinh nghiệm từ các tranh chấp thương mại và nguy cơ nợ xấu đối với doanh nghiệp xuất khẩu nông, thủy sản”, Chi nhánh Cần Thơ của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cảnh báo,  về tình trạng, số lượng vụ kiện và số mặt hàng bị kiện tăng đáng ngại.

Năm 2010, doanh nghiệp Việt Nam chỉ đối diện với ba vụ kiện, gồm hai vụ kiện chống bán phá giá và một vụ kiện chống trợ cấp. Sang năm 2011 số vụ kiện thương mại liên quan tới các doanh nghiệp bên ngoài Việt Nam tăng gấp đôi so với năm 2010: Sáu vụ (trong đó có bốn vụ kiện chống bán phá giá và hai vụ kiện chống trợ cấp).

Đến năm 2012, số vụ kiện thương mại bên ngoài Việt Nam tiếp tục tăng gấp đôi so với năm 2011: 12 vụ (trong đó có chín vụ kiện chống bán phá giá và ba vụ kiện chống trợ cấp). Trong nửa đầu của năm 2013, số vụ kiện thương mại bên ngoài Việt Nam là 7 vụ (trong đó có ba vụ kiện chống bán phá giá và bốn vụ kiện chống trợ cấp).

Lúc đó, ông Nguyễn Phương Lam, Trưởng phòng Pháp chế của VCCI Cần Thơ cho biết, tranh chấp thương mại quốc tế trong mua bán hàng hóa chiếm đến 70% số vụ tranh chấp. Theo dõi các vụ tỉ lệ tranh chấp thương mại quốc tế, ông Lam nhận xét, các doanh nghiệp xuất cảng của Việt Nam có hai nhược điểm lớn: (1) Không tìm hiểu kỹ về khách hàng nên thiếu cả thông tin về khách hàng lẫn thông tin về thị trường sẽ nhập cảng hàng hóa. (2) Không am tường luật pháp.

Ông Lam tiết lộ, khoảng 80% doanh nghiệp xuất cảng thiếu thông tin về khách hàng và thị trường sẽ nhập cảng hàng hóa do họ sản xuất. Một điểm đáng chú ý khác là khi ký hợp đồng xuất cảng, đa số doanh nghiệp Việt Nam không tìm hiểu trước những qui định liên quan tới tranh chấp thương mại, không dự liệu trước là nếu có tranh chấp thì nơi nào, ở đâu có thẩm quyền phân xử và rất ít doanh nghiệp mua bảo hiểm để tự bảo vệ mình.

Tuy đã áp dụng nhiều phương thức để thúc đẩy xuất cảng nhưng Việt Nam chưa cảnh báo cũng như đề ra biện pháp hỗ trợ các doanh nghiệp xuất cảng dự phòng, giải quyết những tranh chấp thương mại quốc tế.

Cũng giữa năm ngoái, ông Nguyễn Đình Cung, Viện phó Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế tiếp tục cảnh báo về nguy cơ phát sinh nhiều dạng tranh chấp giữa quốc gia với quốc gia (liên quan đến các hiệp định và các cam kết khi Việt Nam gia nhập WTO), quốc gia với doanh nghiệp (các vụ kiện thương mại quốc tế, các vụ kiện về đầu tư giữa nhà đầu tư và quốc gia nhận đầu tư, các vụ kiện hành chính) và giữa doanh nghiệp với nhau. (G.Đ)

11-20-2014 4:17:31 PM 

No comments:

Post a Comment