Phạm Trần (Danlambao) - Tổng Bí thư đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đã đi vào lịch sử Việt Nam sau cuộc họp ngắn với Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama tại Văn phòng Bầu dục trong Tòa Bạch Ốc trưa 7/7/2015. Nhưng ông Trọng được gì và mất gì sau 3 ngày ở Thủ đô Hoa Thịnh Đốn, kể từ sáng ngày 6/7 đến chiều 8/7 (2015)?
Lý do ông Trọng được chú ý vì ông là Tổng Bí thư đầu tiên của đảng cầm quyền độc tài CSVN được mời sang thăm nước Mỹ và được Tổng thống dân cử của cường quốc đứng đầu Thế giới tiếp đón long trọng, mặc dù ông Trọng không phải là Thủ tướng hay Tổng thống.
Quyết định tiếp ông Trọng vượt ra ngoài truyền thống ngoại giao của nước Mỹ đã bị một số Nhà lập pháp Quốc hội và các tổ chức nhân quyền-tôn giáo chỉ trích.
Những người chống đối cho rằng ông Trọng chỉ nên được Tổng thống Obama tiếp ở một phòng nào đó ít vinh dự hơn Văn phòng Bầu dục là nơi đặt bàn làm việc lịch sử của các vị Tổng thống Mỹ.
Nhưng phía Bạch Ốc và Bộ Ngoại giao Mỹ thì cho rằng từ hai năm qua phía Việt Nam đã ngỏ ý muốn nâng cao hợp tác với Hoa Kỳ, quan trọng nhất là trong các lĩnh vực Kinh tế, An ninh và Quốc phòng nên Hoa Kỳ đã muốn tạo dịp để nghe trực tiếp từ ông Nguyễn Phú Trọng, người trong thực tế nắm quyền ở Việt Nam.
Hơn nữa, cuộc thăm viếng của ông Trọng còn mang ý nghĩa chính trị quan trọng đối với khu vực Á Châu và Thái Bình Dương sau khi Chính quyền Obama chuyển các lực lượng phòng thủ của Mỹ từ Âu Châu và Trung Đông sang Á Châu từ năm 2008 để đương đầu với thế lực bành trướng của Trung Quốc trong khu vực.
Nhưng cuộc họp Obama-Nguyễn Phú Trọng đã đem lại kết quả gì cho hai nước?
Trước hết, hai ông đã thảo luận các vấn đề cùng quan tâm gồm có Quan hệ lâu dài giữa hai nước sau 20 năm thiết lập quan hệ ngoại giao (11/7/1995 – 11/7/2015); Khả năng hoàn tất và ký kết Hiệp định Kinh tế Xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Parshership, TPP) gồm 12 nước do Hoa Kỳ chủ động; Tình hình nhân quyền, tự do Tôn giáo, Tự do ngôn luận ở Việt Nam; sau cùng là Tình hình Biển Đông, nơi Việt Nam đang phải đương đầu với chính sách bành trướng và chiếm đóng biển đảo của Trung Quốc.
Có và không
Cả hai ông Obama và Trọng đều nói cuộc học ở Tòa Bạch Ốc hữu ích và thẳng thắn. Tuy nhiên, ngoài sự đồng thuận về tình hình Biển Đông và không hài lòng những hành động gây bất ổn định của Trung Quốc, hai ông cũng đồng ý tranh chấp ở vùng biển này phải được giải quyết bằng các biện pháp hòa bình theo Luật pháp Quốc tế.
Trong diễn văn trước cử tọa gồm các Học giả và chuyên gia Quốc tế Hoa Kỳ tại Trung tâm nghiên cứu Chiến lược và những vấn đề Quốc tế (Center for Trategic&International Studies,CSIS) chiều 8/7, ông Nguyễn Phú Trọng nói:"Chúng tôi đánh giá cao việc Chính phủ Hoa Kỳ ngày càng quan tâm đến tình hình Biển Đông, bày tỏ kịp thời và nhất quán quan điểm ủng hộ việc giải quyết tranh chấp thông qua các biện pháp hòa bình trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế, không sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực, không đơn phương thay đổi nguyên trạng, quân sự hóa hoặc áp đặt kiểm soát trên biển, trên không, ở Biển Đông. Việt Nam hoan nghênh các nước, trong đó có Hoa Kỳ, đóng vai trò tích cực và có trách nhiệm trong việc duy trì hòa bình, an ninh, ổn định, an toàn, tự do hàng hải và hàng không, thúc đẩy hợp tác phát triển ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương.”
Rõ ràng là ông Trọng muốn ám chỉ đến Trung Quốc nhưng không dám chỉ trích nước này, một đồng minh “chiến lược quan trọng và cũng là chủ nợ lớn của Việt Nam”. Bắc Kinh đã bành trướng thế lực ở Biển Đông trong hai năm qua, kể cả việc tân tạo 7 bãi đá chiếm của Việt Nam ở Trường Sa năm 1988 thành các đảo nhân tạo và căn cứ quân sự. Hải quân và tầu Hải Giám Trung Quốc cũng tiếp tục ngăn cấm, tấn công và tịch thu tài sản các thuyền đánh cá Việt Nam hành nghề từ Hoàng Sa, bị Trung Quốc chiếm từ tay Quân lực Việt Nam Cộng hòa năm 1974, xuống tận Trường Sa.
Về những vấn đề của hai nước, hai bên vẫn còn những bất đồng về tình hình nhân quyền, tự do tôn giáo và quyền tự do ngôn luận ở Việt Nam.
Ông Trọng nói với Tổng thống Obama rằng, những nhận thức khác biệt về nhân quyền và tự do tôn giáo của hai nước nên được tiếp tục thảo luận trong tinh thần cởi mở và hợp tác trên “tầm cao mới”, nhưng ông Obama và các viên chức Mỹ, tuy không nói ra nhưng có một lối nhìn khác.
Ông Nguyễn Phú Trọng bổ túc thêm trong diễn văn bằng tiếng Việt tại CSIS: “Vấn đề nhân quyền là vấn đề mà chính giới và dư luận Hoa Kỳ rất quan tâm, cũng là vấn đề nhạy cảm trong quan hệ hai nước. Tôi khẳng định Việt Nam hết sức coi trọng vấn đề quyền con người. Đất nước chúng tôi tuy còn không ít vấn đề cần tiếp tục phải giải quyết, trong đó có vấn đề quyền con người, nhưng chúng tôi đang nỗ lực không mệt mỏi để xây dựng một xã hội ngày càng tốt đẹp hơn cho tất cả mọi người. Tôi hiểu trong vấn đề này, hai bên còn có những khác biệt về nhận thức và cần tiếp tục thông qua đối thoại thẳng thắn, xây dựng để có cách nhìn tổng thể về những thay đổi cơ bản mang tính hệ thống, từ đó có đánh giá khách quan hơn về vấn đề nhân quyền và tự do tôn giáo ở Việt Nam, không để vấn đề này cản trở đà tiến triển tốt đẹp của quan hệ, cũng như ảnh hưởng tới việc xây dựng lòng tin giữa hai nước.”
Khi được hỏi về viễn ảnh của vấn đế nhân quyền và tự do ngôn luận ở VN trong tương lai, Tổng Bí thư CSCVN trả lời: “Tôi biết nhân quyền là vấn đề Mỹ rất quan tâm, đây cũng là vấn đề VN rất coi trọng. Bảo đảm và cải thiện quyền của công dân là ưu tiên cơ bản và chiến lược của chúng tôi. Chúng tôi đã nỗ lực hết sức, nếu các bạn đến VN sẽ thấy quyền của các nhóm dân cư dễ bị tổn thương như người nghèo, các dân tộc thiểu số vùng sâu vùng xa, được quan tâm.
Người dân VN chưa bao giờ được sống trong bầu không khí dân chủ như hiện nay. Hiến pháp VN có chương riêng về quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân, và đang dần được luật hóa.
Nhưng cũng cần thấy rằng quyền của cá nhân phải đặt trong bối cảnh quyền lợi chung của cộng đồng, mỗi người có trách nhiệm tôn trọng, bảo vệ quyền của người khác và của cộng đồng.
Tôi nghĩ quốc gia nào cũng phải quản lý đất nước bằng luật pháp. Các vụ việc người bị bắt ở VN không phải do vấn đề dân tộc hay tôn giáo mà là họ vi phạm pháp luật.” (ViệtNamNet, 09/07/015)
Ông Trọng nói thế nhưng thực tế ở Việt Nam thì khác. Người dân không có dân chủ và các quyền tự do như Hiến pháp quy định. Tất cả mội thứ dân có là do đảng cho bao nhiêu thì được bấy nhiêu. Nhà nước độc quyền báo chí, không cho lập hội hay hội họp không phù hợp với yêu cầu và quyền lợi của đảng.
Quyền tự do tôn giáo, thờ phượng cũng bị hạn chế bằng các Nghị định hay Quyết định trái với các điều khoản ghi trong Hiến pháp 2013. Ngược lại nhiều địa phương lại khuyến khích và tuyên dương những ai lập đền thờ Hồ Chí Minh, người sáng lập đảng CSVN !
Từ TPP đến quyền của Công nhân
Về TPP, ông Trọng đã nói với Đại diện Thương mại Hoa Kỳ Michael Froman chiều ngày 06/07/015 rằng “Việt Nam là nước có trình độ phát triển thấp nhất trong TPP, nên cũng gặp nhiều thách thức nhất và phải sửa đổi nhiều quy định pháp luật nhất khi tham gia TPP.
Ông đề nghị Hoa Kỳ ủng hộ, cân nhắc đến trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam, và có những linh hoạt cần thiết, phù hợp đối với Việt Nam trong đàm phán TPP.
Ông bày tỏ mong muốn Hoa Kỳ mở rộng thị trường cho hàng hóa của Việt Nam, và sớm công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường, nhất là khi Việt Nam đã tham gia một hiệp định có tiêu chuẩn cao và toàn diện như TPP.” (theo Phi Sơn, Thời báo Kinh tế Việt Nam (TBKTVN), 7/7/2015)
Về phần mình, vẫn theo TBKTVN, ông Trọng cũng “khẳng định với Đại diện Thương mại Micheal Froman, Việt Nam đã và đang thể hiện cam kết của mình với tiến trình đàm phán TPP và sẽ chủ động, tích cực phối hợp với Hoa Kỳ và các nước để thúc đẩy việc sớm kết thúc đàm phán.”
Trong diễn văn tại (CSIS) chiều 8/7, ông Trọng kêu Hoa Kỳ đầu tư nhiều hơn là ở địa vị hàng thứ 7 trong số các nước làm ăn buôn bán với Việt Nam. Đến năm 2014, mậu dịch giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đã đến mức 36 ỷ dollars, nhưng so với Trung Quốc thì chỉ là hạt muối bỏ biển.
Trước ông Trọng, hai ông Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Nguyễn Minh Triết cũng như Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã kêu gọi Mỹ nhìn nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường, nhưng Mỹ chưa đáp ứng. Tại sao?
Bởi vì Điều 51 của Hiến pháp 2013 đã quy định: "Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo."
Nhiều kinh tế gia Việt Nam gọi chủ trương này là “kinh tế nửa nạc nửa mỡ”, hay “giở giăng giở đèn” không giống ai nhưng lại do các Doanh nghiệp Nhà nước cầm đầu và Nhà nước kiểm soát, không có tự do kinh doanh và tự do cạnh tranh bình đẳng là những yếu tố trái với chế độ kinh tế thị trường của các nước không Cộng sản.
Ngoài ra nền kinh tế của Việt Nam cũng không tôn trọng và bảo vệ quyền của người lao động và thiếu sân chơi công bằng giữa các Doanh nghiệp Nhà nước và tư nhân và giữa Công ty nước ngoài và của Việt Nam trên nhiều lĩnh vực.
Vì vậy, nếu được Hoa Kỳ nhìn nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường thì Việt Nam sẽ vượt qua được cửa ải quan trọng hàng đầu để được vào TPP.
Trong các vấn đề đang được thảo luận giữa 12 nước thành viên
TPP, có những điều khoản buộc nước hội viên phải tôn trọng và bảo vệ quyền của công nhân và nhân quyền. Đối với Việt Nam thì đây là miếng ăn khó nuốt vì đảng CSVN chỉ muốn tập trung công nhân vào Tổng liên đoàn lao động của nhà nước (Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam) để chỉ huy và đôi khi sử dụng lực lượng này để gây áp lực với các Công ty nước ngoài đang hoạt động ở Việt Nam.
Việt Nam cũng sẽ phải thay đổi quyết định không cho người dân được tự do lập hội, hay đảng chính trị nếu công nhân có quyền tổ chức nghiệp đoàn mà không cần phải có phép của nhà nước.
Trong cuộc họp báo thường lệ chiều 7/7 (2015), Phát ngôn viên Tòa Bạch Ốc Josh Earnest đã tiết lộ nhiều ràng buộc dành cho Việt Nam khi gia nhập TPP, căn cứ theo bản ghi băng của Văn phòng báo chí phổ biến.
Sau đây là những cầu hỏi và trả lời liên quan đến Việt Nam và cuộc họp giữa ông Trọng và Tổng thống Obama ngày 7/7/2015:
H: My main area of question is on Vietnam, if I could for a moment. Vietnam and Cuba. Is Vietnam, in fact, a model -- the way the President is treating Vietnam as a major trade partner involved in this TPP -- is this the way that, despite its human rights problems that have been acknowledged by the White House, that it would, in fact, like to deal with Cuba itself?
(Câu hỏi chính của tôi liên quan đến Việt Nam, nếu tôi có thể trong giây lát. Đó là vấn đề Cuba và Việt Nam. Có phải Việt Nam được coi như một mẫu mực mà, căn cứ vào cách đối xử dành cho Việt Nam của Tổng thống, thì ông coi Việt Nam là một đối tác thương mại có tầm vóc trong tổ chức TPP, mặc dù (VN) có vấn đề về nhân quyền như Tòa Bạch ốc đã biết rất rõ, như thế có phải là cách cũng sẽ được áp dụng với Cuba?)
(MR. EARNEST: Well, clearly we would like to see a lot more progress be made on the human rights front in Vietnam; that’s true in Cuba as well. I think where there tends to be some overlap in terms of the way that we view these situations is when it comes to the advocacy that we make in Vietnam for greater protection of human rights -- that what the President has concluded is that the most effective way for us to do that is to try to engage with the government of Vietnam.
And in the case of Vietnam, this is encouraging them to be part of the Trans-Pacific Partnership. They are participating in the negotiations. And the fact is, we are -- if we can complete a TPP agreement, and if Vietnam signs on, they would be making specific commitments to better protect and reflect the basic rights of workers in that country. That would be important progress. Right now, we don’t just have a moral objection to the way that basic universal human rights are not protected in Vietnam; we recognize that in some instances the violation of basic human rights actually puts American businesses at a significant economic disadvantage.
So by engaging with Vietnam, by getting them to sign on to this broader agreement, we can get them to do a better job, at least, of protecting basic universal human rights, while at the same time doing that in a way that starts to level the playing field for American businesses and American workers. This is part of the -- so I think this reflects a validation of the President’s strategy that just trying to shun and isolate a country can, in some cases, not put as much pressure on them as actually engaging them.)
And again, if we can complete this TPP agreement -- or the TPP agreement, then we’ll see Vietnam start to take those kinds of steps. And again, this is consistent with the philosophy that we have applied in Cuba -- that for almost 60 years we tried a strategy of isolating Cuba, and we didn’t see nearly as much movement on the human rights front as we would like to see. The President is ready to try a new strategy and is hopeful that, in the years ahead, we’re going to see a Cuban government that will do a better job of respecting and even protecting the basic human rights of their people.)
(Đ: (Tạm dịch): “Tất nhiên rõ ràng là chúng tôi muốn thấy có tiến bộ nhiều hơn về lĩnh vực nhân quyến ở Việt Nam. Đó cũng là vấn đề của Cuba nữa. Tôi nghĩ cũng có chuyện trùng hợp ở đây khi mà chúng ta muốn Việt Nam cần bảo vệ nhân quyền hơn nữa nên Tổng thống đã kết luận rằng cách hữu hiệu nhất cho chúng ta có thể làm được là tìm cách kết nối với Việt Nam. Đối với trường hợp của Việt Nam là khuyến khích họ tham gia vào Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) mà thực tế là chúng ta đã làm như thế, nếu chúng ta hoàn tất thỏa hiệp TPP và Việt Nam ký kết thì họ sẽ phải thực thi những cam kết bảo vệ và phản ảnh những quyền cơ bản của công nhân tại nước họ. Đó sẽ là một bước tiến quan trọng. Ngay bây giờ chúng ta không những có trách nhiệm tinh thần là chống lại tình trạng những quyền căn bản của con người không được bảo vệ ở Việt Nam mà thực tế là những vị phạm về nhân quyền đó đã làm cho các hoạt động thương mại của Mỹ gặp nhiều khó khăn.”
Do đó mà quan hệ với Việt Nam và có được họ ký kết vào thỏa hiệp có tầm vóc rộng lớn này thì chúng ta có thể làm tốt hơn, ít nhất là bảo vệ những quyền cơ bản của con người thì đồng thời cũng có lợi cho các hoạt động thương mại và công nhân Hoa Kỳ.
Điều này đã phản ảnh chiến lược của Tổng thống là thay vì làm ngơ hay cô lập một quốc gia mà, trong một số trường hợp, gây áp lực không hiệu quả như quan hệ với họ.
Do đó, nếu chúng ta hoàn tất Hiệp định TPP thì chúng ta sẽ thấy Việt Nam khởi sự thực hiện những bước cam kết. Và đây cũng phù hợp với triết lý chúng ta áp dụng với Cuba mà ngót 60 năm qua chúng ta đã theo đuổi chiến lược cô lập Cuba, nhưng chúng ta không thấy có những tiến bộ nào về nhân quyền mà chúng ta muốn thấy. Tổng thống sãn sàng theo đuổi một chiến lược mới và hy vọng rằng, trong những nắm sắp tới, chúng ta sẽ thây chính phủ Cuba làm tốt hơn để tôn trọng và bảo vệ những quyền căn bản của người dân Cuba.” )
Có tréo cẳng ngỗng không?
H: (And just one quick question to follow up on the meeting today. You made a forceful case for engaging with Vietnam, and many human rights activists have wondered if it’s possible -- if it isn’t better to engage without the symbolic validation of meeting with an elected official in the Oval Office.)
(Tôi có thêm câu hỏi ngắn tiếp theo về phiên họp hôm nay (Obama-Nguyễn Phú Trọng). Ông đã nói một cách thuyết phục về chuyện kết nối với Việt Nam, nhưng nhiều nhà đấu tranh nhân quyền cũng đặt câu hỏi là liệu có thể không, nếu quan hệ mà không cần phải chứng minh bằng một cuộc gặp gỡ (của ông Nguyễn Phú Trọng) với một vị Dân cử (Tổng thống Obama) tại Văn phòng Bầu dục?
(MR. EARNEST: Well, again, Chris, I think the President had the opportunity to talk about the goal of his meeting in the Oval Office earlier. But what I would say is that this is -- this was a meeting where they covered a lot of ground, both to reflect the deepened relationship between our two countries in the 20 years since normalized diplomatic relations were restored between the United States and Vietnam. But they obviously had the opportunity to discuss the TPP agreement, and they had a discussion about human rights. And that level of engagement, the President believes, is consistent with the national security interests of the United States.
Đáp: (Tạm dịch: "Anh Chris, tôi nghĩ là Tổng thống đã nói về mục tiêu của cuộc gặp gỡ tại Văn phòng Bầu dục rồi. Nhưng điều mà tôi muốn nói rằng đây là cuộc họp bao trùm nhiều lĩnh vực, phản ảnh mối quan hệ sâu rộng trong 20 năm qua giữa 2 quốc gia kể từ khi bình thường hóa ngoại giao. Nhưng cả hai Nhà lãnh đạo đã thảo luận về TPP, vấn đề nhân quyền và mức độ hợp tác mà Tổng thống tin là phù hợp với lợi ích an ninh quốc gia của Hoa Kỳ.”)
Liệu Việt Nam có giữ lời không?
H: And on Vietnam. By some accounts, Vietnam is, of the TPP countries, the farthest away in terms of human rights and labor rights. How realistic is it that if they are included in that trade deal, that they could live up to it?
(H: Cũng vẫn chuyện Việt Nam, khi Việt Nam là một thành viên của TPP rồi, hãy phỏng đóan về chuyện Nhân quyền và Quyền lao động của Công nhân, liệu những vấn đề này có được bao gồm trong TPP không, và liệu Việt Nam có giữ lời hứa tuân thủ không?)
(MR. EARNEST: Well, I think that the point that we would make -- and this sort of goes to Jim’s question from earlier -- right now, as of today, there’s very little pressure that can be applied to Vietnam and their human rights record. Obviously, we can speak out publicly and raise our concerns about it, which we have and which we do. But in the context of a TPP agreement, what we can actually do is compel Vietnam to better respect the basic rights of workers in that country, and make clear to them that there is a tangible incentive for them doing so; that they can join this powerful economic block that could enhance some economic opportunities in their country.
From the perspective of the United States, however, we view the TPP agreement as an opportunity to, first and foremost, start to level the playing field. That if Vietnam is no longer trying to so grievously oppress their workers and trample their basic human rights, that as they start to do a better job of reflecting some of those rights and protecting them, that that’s going to level the playing field. That companies can no longer seek a significant economic advantage by going to a place where the rights of workers are so frequently flouted.
We can also live up to a moral imperative. We recognize that our country has a responsibility to speak out on human rights, to make them a priority, and to make clear to other countries that they should do the same.
And in the context of the TPP agreement, we cannot just advocate for those positions but actually have some results to show for it. So time will tell whether or not they will live up to the agreement. The thing that I can tell you from right now is they will have a very clear incentive to do so, an incentive that right now doesn’t exist at least on the same scale.
Đ: (Tạm dịch): “Tôi nghĩ, mục tiêu mà chúng tôi muốn làm, như là tôi đã trả lời câu hỏi của anh Jim vừa rồi, nhưng ngay bây giờ, vào ngày hôm nay (7/7 (2015) chúng ta có rất ít điều kiện để gây áp lực đối với Việt Nam và hồ sơ nhân quyền của nước này. Tất nhiên là chúng ta có thể bầy tỏ công khai mối quan tâm của chúng ta, và cũng là việc chúng ta đã làm và đang làm.
Nhưng trong phạm vi của Hiệp định TPP thì chúng ta có thể đòi hỏi Việt Nam phải tôn trọng những quyền căn bản của công nhân của nước họ, và tất nhiên là cũng phải thẳng thắn cho Việt Nam biết là họ sẽ được “đãi ngộ xứng đáng” nếu thực thi đúng như thế. Và do đó, họ sẽ được tham gia vào khối kinh tế hùng mạnh này (TPP) để tạo cơ hội tốt cho nền kinh tế của Việt Nam.
Nói theo quan điểm của Hoa Kỳ, chúng ta coi Hiệp định TPP như một cơ hội, trên hết là một sân chơi bình đẳng. Nếu Việt Nam không còn áp chế công nhân của họ và vi phạm những quyền căn bản của con người, và bắt đầu chứng minh bằng cách làm tốt hơn các quyền này và bảo vệ chúng thì đó là họ đã đi vào luật chơi. Và như vậy, các Công ty sẽ không còn tìm cách đến những nơi làm ăn mà quyền lợi của công nhân luôn luôn bị làm ngơ.
Tất nhiên là chúng ta cũng phải giữ đạo lý của mình. Chúng ta nhìn nhận là Hoa Kỳ có bổn phận lên tiếng về Nhân quyền, coi đó là ưu tiên hàng đầu, nên chúng ta cũng muốn nói thằng với các nước khác rằng họ cũng cần làm như vậy.
“Trong phạm vi của TPP, chúng ta không thể chỉ cổ võ cho những quan điểm như thế. Chúng ta có những bằng chứng cụ thể để trưng ra. Do đó, thời gian sẽ trả lời xem họ có giữ những cam kết hay không. Điều mà tôi có thể nói ngay bây giờ là họ sẽ được đãi ngộ nếu làm như thế, sự đãi ngộ này hiện nay chưa có, ít ra không thể có cùng một mức độ.”
(Q: And just quickly, 40 years after the end of the Vietnam War, how does the White House view our relationship with Vietnam? Is it a change on the scale of Japan or Germany after World War II?
(H: Tôi muốn hỏi nhanh là 40 năm sau chiến tranh Việt Nam, Tòa Bạch Ốc đánh giá quan hệ của chúng ta với Việt Nam như thế nào, liệu có thể thay thế mức độ quan hệ giữa Hoa Kỳ với Nhật Bản và Đức Quốc sau Thế chiến thứ II?)
(MR. EARNEST: Well, I think the relationship between the United States and Vietnam has obviously improved over the last 40 years, of course, but even over the last 20 years since our diplomatic relations were restored. But they’ve got quite a way to go to try to reach the level of the important alliances that the United States has with both Japan and Germany.)
Đ: (Tạm dịch: “Tôi nghĩ liên lạc giữa Hoa Kỳ và Việt Nam đã có những tiến bộ trong 40 năm qua, ngay cả trong 20 năm qua kể từ khi quan hệ ngoại giao giữa hai nước đã được phục hồi. Nhưng còn phải mất một thời gian để có thể tiến tới mức độ đồng minh quan trọng mà Hoa Kỳ đã có với Nhật Bản và Đức quốc.”)
Đó là quan điểm rất minh bạch của Hoa Kỳ đối với việc tuân thủ những cam kết của TPP dành cho Việt Nam qua lời của Phát ngôn viên Bạch Ốc Josh Earnest.
Lời tuyên bố này không ghi trong “Tuyên bố tầm nhìn chung” của hai nước, nhưng rõ ràng là Hoa Kỳ muốn đặt ra những điều kiện quan trọng ràng buộc Việt Nam với TPP.
Ông Trọng kêu gọi Mỹ “linh hoạt” những ràng buộc này trong cuộc tiếp Đại diện Thương mại Mỹ Michael Froman chiếu 6/7 thì chỉ 24 giờ sau (chiều 7/7) ông Earnest đã trả lời như thế!
Như vậy, trong 3 ngày ở Thủ đô nước Mỹ, tuy ông Trọng và phái đoàn đã vẻ vang được Tổng thống Obama tiếp và Phó Tổng thống Jose Biden mời tiệc trưa, nhưng ông Trọng đã thất bại trong nỗ lực mưu tìm sự “thông cảm” của Hoa Kỳ trong TPP.
Tuy vậy, về lĩnh vực các thỏa hiệp được ký kết thì Tuyên bố tầm nhìn chung đã viết: “Các hiệp định và thỏa thuận dưới đây có đóng góp vào việc phát triển quan hệ song phương Việt Nam – Hoa Kỳ và tạo cơ sở vững chắc cho sự hợp tác trong tương lai mà hai nước sẽ tiếp tục xây dựng, bao gồm:
- Hiệp định giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Hoa Kỳ về tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa trốn lậu thuế đối với các loại thuế đánh vào thu nhập và Nghị định thư của Hiệp định;
- Bản Ghi nhớ giữa Bộ Quốc phòng Việt Nam và Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ về hợp tác trong lĩnh vực gìn giữ hòa bình Liên Hợp Quốc;
- Bản Ghi nhớ giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam và Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ về Chương trình các mối đe dọa đại dịch mới nổi và Chương trình An ninh Y tế Toàn cầu;
- Thỏa thuận Tài trợ giữa Cơ quan Phát triển và Thương mại Hoa Kỳ và Cục Hàng không Dân dụng Việt Nam;
- Việt Nam cấp giấy phép thành lập trường Đại học Fulbright Việt Nam mới.
Trong các lần xuất hiện ở Thủ đô Hoa Thịnh Đốn, ông Trọng luôn luôn nhã nhặn, vui vẻ (ít ra là bên ngoài đã nhìn thấy như thế) không hề nhắc đến Xã hội Chủ nghĩa, hay Cộng sàn chủ nghĩa vì hai nước đã đồng ý tôn trọng thể chế chính trị của nhau. Nhưng ông Trọng luôn luôn mong muốn Hoa Kỳ không nên để những bất đồng như nhân quyền, tự do tôn giáo, tự do ngôn luận làm cản trở hợp tác giữa hai nước.
Tổng Bí thư Trọng cũng nói nhiều đến quyết tâm của Việt Nam hợp tác và nâng quan hệ ngoại giao giữa hai nước “lên tầm cao mới”.
Về phía ông Obama, tuy rất cởi mở và tỏ vẻ thân thiện, nhưng những tuyên bố của Phát ngôn viên Earnest đã phần nào phản ảnh cách ứng xử của ông Obama trước phái đoàn cao cấp Việt Nam. Ông trọng chắc phải suy nghĩ nhiều trên đường về Việt Nam ngày 10/7, sau khi dừng chân ở Liên Hiệp Quốc để gặp Tổng Thứ ký Ban Ki Moon.
10/07/015
No comments:
Post a Comment