(Baodatviet) - “Chúng ta đang chịu cảnh sống trong nước nông nghiệp nhưng ăn gạo giá cao.Dùng hàng sản xuất trong nước đắt hơn nhưng chất lượng sản phẩm tồi hơn”.
Chuyên gia kinh tế Bùi Trinh dưới góc nhìn tinh tế của mình đã phân tích những điểm bất hợp lý hiện nay để thấy doanh nghiệp cũng như người tiêu dùng trong nước chịu nhiều thua thiệt.
Ưu tiên xuất khẩu ép khó nội địa
Chỉ ra sự bất hợp lý ngay từ chính sách ưu đãi quá mức cho xuất khẩu, chuyên gia Bùi Trinh cho rằng cách này đang làm mất niềm tin cho doanh nghiệp trong nước, làm khó cho người tiêu dùng và nông dân trong khi đáng ra đây phải là đối tượng được ưu tiên nhất.
“Mọi ưu đãi đều dành cho xuất khẩu. Chính sách thuế giảm trừ VAT cho hàng xuất khẩu trong khi hàng trong nước cũng như vậy lại không được giảm trừ khiến đẩy giá thành lên cao. Điều này dẫn đến câu chuyện khi các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, với sản phẩm thải loại xuất khẩu không được lại quay về Việt Nam bán với giá cao đôi khi là gấp đôi. Như vậy người trong nước phải dùng sản phẩm lởm hơn với giá cao hơn”, ông Bùi Trinh nói.
Không riêng gì hàng tiêu dùng, với các sản phẩm nông nghiệp như gạo, đường… là những mặt hàng được xem là Việt Nam chủ động sản xuất được nhưng người tiêu dùng cũng phải chịu giá cao hơn so với giá xuất khẩu.
Đơn cử như loại gạo đang bán tới tay người tiêu dùng trong nước hiện có giá 17.000-18.000 đồng/kg, nếu xuất khẩu sẽ được giá hơn. Tuy nhiên, hiện không nước nào chịu mua với giá này nên đành bán cho người tiêu dùng trong nước. Còn giá đường hiện sản xuất trong nước mua ngay tại cửa nhà máy cũng có giá 12.500 đồng/kg còn bán đến tay người tiêu dùng là 18.000-21.000 đồng/kg, trong khi ở cửa khẩu nhập vào mới có giá 12.000 đồng/kg.
Theo số liệu thống kê từ năm 2000 – 2012 tỷ trọng nhập khẩu cho tiêu dùng cuối cùng chưa tới 10%, tỷ trọng nhập khẩu cao nhất thường là nhập khẩu về nguyên vật liệu đầu vào (bình quân khoảng 60%) rồi đến nhập khẩu máy móc thiết bị bình quân trên 30%.
“Như vậy có thể thấy vấn đề của nền kinh tế Việt Nam là công nghiệp phụ trợ để làm ra các sản phẩm là chi phí đầu vào chứ không phải việc hạn chế tiêu dùng hàng nhập khẩu hay không”, chuyên gia Bùi Trinh nói.
Nhìn lại nền kinh tế Việt Nam từ năm 2000 – 2012 cho thấy nếu giai đoạn 2000-2005 tỷ lệ giá trị tăng thêm trên giá trị sản xuất khoảng 47% (có nghĩa làm ra 100 đơn vị thì có 47 đơn vị là giá trị tăng thêm), đến giai đoạn 2006-2010 tỷ lệ này giảm 10 điểm phần trăm (khoảng 37%) đến giai đoạn 2011-2015 tỷ lệ này lại giảm tiếp còn khoảng 28%, tỷ lệ này là chung cho cả nền kinh tế còn đối với khu vực công nghiệp chế biến chế tạo tỷ lệ này còn thấp hơn (chỉ khoảng trên 10%). Điều này cho thấy nền kinh tế Việt Nam ngày càng thiếu hiệu quả và mang tính gia công toàn diện hơn.
Ở góc độ nông nghiệp thì GS Võ Tòng Xuân từng nói thẳng cách làm từ trước tới giờ nhà nước không chú ý tới việc đưa năng suất của cây trồng lên cao cũng như giảm chi phí sản xuất xuống. Ngay cả cây mía đầu vào cũng giá cao dẫn tới đẩy giá sản phẩm đầu ra đắt hơn các nước khác (ví dụ như Thái Lan).
Dù ủng hộ hàng sản xuất trong nước nhưng người Việt đang gián tiếp làm giàu cho nước ngoài vì chủ yếu nhập nguyên liệu, máy móc |
Doanh nghiệp mất niềm tin, nền kinh tế mất động lực
Trên thực tế, một sản phẩm có thể mang mác nhãn Việt Nam nhưng toàn bộ nguyên vật liệu và máy móc thiết bị đều được nhập khẩu từ bên ngoài, hàm lượng giá trị tăng thêm trong sản phẩm sản xuất tại Việt Nam rất thấp và thực chất chỉ là công gia công. Điều này đang chứng minh chủ trương phát triển công nghiệp hóa của Việt Nam chưa đạt được mục tiêu.
Trong nông nghiệp, dù vất vả một nắng hai sương nhưng khi làm ra hạt gạo, thu chẳng bù chi khiến người nông dân chán nản, bỏ ruộng. Trong khi đó 70% dân số Việt Nam sống bằng nông nghiệp.
“Chúng ta đang mất dần động lực phát triển kinh tế. Công nghiệp thì lạc hậu, nông nghiệp cũng thua kém và càng khuyến khích dùng hàng trong nước thì càng có lợi cho doanh nghiệp nước ngoài vì Việt Nam nhập từ nguyên vật liệu đầu vào cho đến máy móc thiết bị”, chuyên gia Bùi Trinh nhận xét.
Theo số liệu thông kê ngoại thương của Tổng cục Thống kê Việt Nam thì Trung Quốc là nước chiếm tỷ trọng này cao nhất (từ 23%-25%), nếu tính bao gồm cả Đài Loan và Hồng Công thì tỷ trọng nhập khẩu của khối này lên tới 34%. Trong khi đó các chính sách cụ thể vẫn dường như có sự phân biệt giữa những sản phẩm hàng hóa bán cho người tiêu dùng trong nước và bán cho nước ngoài (xuất khẩu).
“Một cách gián tiếp chính sách đang làm các doanh nghiệp trong nước không có động cơ hướng tới thị trường nội địa. Còn người tiêu dùng ủng hộ doanh nghiệp sản xuất trong nước nhưng thực chất lại đang làm giàu cho nước đang xuất khẩu nguyên vật liệu, máy móc cho Việt Nam. Kết cục là nền kinh tế nhận được rất ít trong chuỗi giá trị vì không có sự ủng hộ của chính sách”, ông Bùi Trinh nhấn mạnh.
Theo đó, ông Trinh cho rằng thay vì những cuộc vận động hướng tới người tiêu dùng thì những cuộc vận động này cần hướng tới những người làm chính sách để có thể đưa ra chính sách có lợi cho người tiêu dùng nội địa và các doanh nghiệp trong nước có một sân chơi bằng phẳng, có động lực và niềm tin.
“Cần phải thay đổi dù muộn còn hơn không. Nhà nước phải củng cố hệ thống luật pháp, chống tham nhũng một cách thực sự để lấy lại niềm tin của các doanh nghiệp. Phải thấy khối doanh nghiệp tư nhân như một thứ tài sản quý của nền kinh tế để hỗ trợ và thúc đẩy phát triển. Phải có chính sách để bảo vệ người tiêu dùng và người nông dân chứ không phải ‘sống chết mặc bay’ như hiện nay”, chuyên gia Bùi Trinh nhận định.
Bích Ngọc
No comments:
Post a Comment