Việt Nam cũng phải chuẩn bị cả những tình huống nảy sinh tiếp theo, những cái ta không mong muốn như Toà sẽ phê phán cả Việt Nam và Trung Quốc, xét không chỉ công thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng mà cả các ứng xử tiếp theo như báo Nhân Dân, Bản đồ của Cục bản đồ, sách giáo khoa trong quá khứ...rằng ta đã thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc. Đó là một suy nghĩ văn minh nhưng với công chúng thì chưa hẳn đã thông.
Bây giờ Liên Hiệp Quốc đứng ra giúp đàm phán thì Việt Nam phải nhanh chóng hoan nghênh. Nhưng Liên Hiệp Quốc không có trách nhiệm giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ mà chỉ khuyến cáo hai bên đàm phán. Điều đó có nghĩa là còn có những biện pháp hòa bình khác mà các bên chưa tận dụng hết. Và ngay từ giai đoạn thủ tục, nếu ta không hội đủ ba điều kiện thì việc kiện HS 981 chưa chắc đã là một điều hay khi Tòa tuyên không có thẩm quyền.
HS 981 là một hiện tượng, còn đường lưỡi bò 9 đoạn mới là lâu dài. Chẳng lẽ hôm nay họ kéo đến đây ta kiện, ngày mai họ kéo đến kia ta lại kiện, sẽ dễ bị nhàm. Kiện là một giải pháp pháp lý cần thiết và đối tượng kiện phải là đường lưỡi bò. Chúng tôi cho rằng phải kiện, còn khi nào nộp đơn thì phải sửa soạn kỹ lưỡng. Nếu không tham gia sẽ bị cho là bỏ lỡ cơ hội. Không tham gia sẽ đánh mất lòng dân và khó giải thích với cộng đồng quốc tế. Có ý kiến cho rằng không tham gia thì nếu sau này sử dụng biện pháp pháp lý thì Tòa sẽ cho rằng anh không có quan tâm nên coi như đã từ bỏ. Tuy nhiên, khi xem xét dù các bên vắng mặt Tòa cũng phải chú trọng đến quan điểm của họ. Chỗ này sẽ phải chờ đến bản lĩnh của lãnh đạo và các tính toán về chính trị, kinh tế chứ không đơn thuần là pháp lý nữa.
Mặt thuận: Việt Nam có cơ sở pháp lý lâu đời, kêu gọi được sự ủng hộ quốc tế, đáp ứng được tình cảm nhân dân trong ngoài nước và quốc tế, tài liệu chuẩn bị những năm qua có thể tương đối. Tuy nhiên cũng cần điểm qua khả năng và các hạn chế để có phương án đối phó.
Điều khó nhất là Trung Quốc không chấp nhận ra Toà. Sẽ có hai nội dung kiện a) Về chủ quyền b) Về các quyền sử dụng biển theo UNCLOS.
Nếu Trung Quốc chấp thuận ra Tòa.
Trung Quốc có hạn chế chiếm nhóm phía Đông Hoàng Sa bằng vũ lực. Việt Nam có lịch sử quản lý Hoàng Sa mạnh từ thế kỷ XVII đến 1858. Từ 1858 đến 1925 khi Pháp quay lại công nhận chủ quyền Việt Nam trên Hoàng Sa là một khoảng lặng. 1946 sau chiến tranh Pháp quay lại chiếm nhóm phía đông còn Tưởng Giới Thạch trước đó ở nhóm Tây. Năm 1956 Trung Quốc đuổi Tưởng Giới Thạch chiếm phía Tây cả Việt Nam Cộng Hoà và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà không có ý kiến!?
Từ 1956 đến 1974 mới có sự lên tiếng từ Việt Nam Cộng hoà và Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Trong thời gian 1956 đến 1975 Việg Nam Dân chủ Cộng hoà cũng có một số động thái không có lợi như đã nói ở trên.
Nếu Tòa có thẩm quyền, không phụ thuộc mong muốn các bên, theo các nhà nghiên cứu nước ngoài cho rằng sẽ có những khả năng sau:
1.Toà tuyên có lợi cho cả hai bên. Trung Quốc trả lại nhóm phía Đông đánh chiếm bằng vũ lực cho Việt Nam.
2.Chủ quyền thuộc Trung Quốc nhưng vùng biển xung quanh sử dụng chung như trường hợp của Na Uy và Island sau Thế chiến II.
3.Chủ quyền thuộc Trung Quốc nhưng quần đảo chỉ có vùng biển hạn chế.
4.Quần đảo thuộc Trung Quốc có đủ đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
5.Quần đảo hoàn toàn thuộc Việt Nam.
Trong trường hợp Trung Quốc từ chối thẩm quyền về xét xử chủ quyền lãnh thổ
Việt Nam buộc phải lựa chọn Tòa nào có thể thụ lý vụ kiện khi chỉ có một bên đơn phương đưa ra và chỉ về sử dụng vùng biển. Trung Quốc cũng không có trách được vì họ gây hấn HS 981 trước. Không thể nói Việt Nam theo Mỹ vì Việt Nam đã cố gắng chứng minh mong muốn đàm phán, thậm chí còn nhờ đến cả Liên Hiệp Quốc điều mà Philippines chưa làm hết. Chỉ có toà trọng tài luật biển ITLOS với Phụ lục VII cho phép một bên đưa ra và câu hỏi chỉ là giải thích và áp dụng công ước luật biển. Đây là cách Philippines áp dụng. Trung Quốc đã bảo lưu các vụ kiện liên quan đến chủ quyền, phân định theo Điều 298.
Việt Nam có thể áp dụng Điều 279 về hòa giải bắt buộc nhưng cũng sẽ khó khăn. Vụ HS 981 nếu đơn phương đưa dàn khoan vào vùng biển tranh chấp là hành động đáng bị lên án. Muốn xác định vùng tranh chấp lại phải giải quyết vấn đề chủ quyèn. Việt Nam không từ bỏ chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa, còn Trung Quốc cho rằng Hoàng Sa thuộc họ, không có tranh chấp. Vị trí giàn khoan cách Lý Sơn 120 hải lý, cách Hải Nam 180 hải lý tạo thành vùng chồng lấn. Còn nếu Phú Lâm có đặc quyền kinh tế và thềm lục địa thì khoảng cách 80 lý. Vì vậy Trung Quốc cho rằng nếu Hoàng Sa thuộc họ, vùng biển dàn khoan thuộc họ.
Tuy nhiên, Trung Quốc có điểm yếu sử dụng vũ lực chiếm Hoàng Sa phi pháp nên Việt Nam không chấp nhận. Ngoài ra, còn vấn đề quy chế đảo đá. Triton chắc Toà sẽ cho chỉ có 12 hải lý. Nhưng Phú Lâm từ thời Pháp đã có người sinh sống nên dễ có đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Nếu giả thiết đảo không thuộc Việt Nam (đây là điều không muốn nhưng chỉ nêu ra để tính), đảo sẽ có một phần hiệu lực 1/4, 1/3, 1/2...đường phân định thì vị trí dàn khoan có thể rơi vào phần đường trung tuyến phía Việt Nam (Cái này phải có sự kết hợp giữa chuyên gia Luật biển và chuyên gia bản đồ để tính toán. Đây là điều công chúng cũng ít nói đến). Các vấn đề này cuối cùng vẫn quay lại chủ quyền và Tòa không có thẩm quyền. Toà chỉ sử dụng Điều 279 khi có khác biệt về giải thích và áp dụng các bên sẽ quay về áp dụng Phụ lục II hoà giải bắt buôc tức các bên lại ngồi đàm phán.
Theo quan điểm luật quốc tế và định nghĩa quốc gia phải hội đủ 4 yếu tố: lãnh thổ, dân cư, chính quyền và khả năng chủ thể thì dù về mặt chính trị các bên có tranh cãi Nam Bắc là một mối, sự tồn tại Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Việt Nam Cộng hoà trong một hoàn ảnh đặc biệt là điều khó có thể phủ nhận. Công ước này bàn về các trách nhiệm và nghĩa vụ kế thừa giữa hai quốc gia trong các mặt hiệp định, vay nợ, lưu trữ...nhưng vấn đề biên giới lãnh thổ không thuộc diện điều chỉnh của Công ước. Năm 1976 Quốc hội đã thông qua bầu cử thành lập Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam trên cơ sở Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Chính phủ Cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam là bên thừa kế các vấn đề lãnh thổ của cả hai thực thể trước.
Vấn đề ở đây lại là ‘bên thắng cuộc’ như mọi người ngầm hiểu là Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trước kia lại có lập trường ‘thụ động’ trong các tuyên bố chủ quyền. Tòa sẽ cho phép Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam chọn lấy những gì tốt nhất cho mình hay phải kế thừa cả mặt tích cực và tiêu cực của những hành động trong quá khứ. Đâu là thời điểm kết tinh tranh chấp…Đó là những vấn đề rất khó tiên lượng. Tòa sẽ phán quyết thế nào?
Trường hợp kiện Trường Sa thì Tòa có thể gộp vụ kiện của Philippines với vụ kiện của Việt Nam do có cùng đối tượng kiện là đường lưỡi bò. Kiện cả Hoàng Sa- Trường Sa cũng có những vấn đề tương tự.
Tuy nhiên, cũng không loại trừ khả năng Trung Quốc có thể tính đến việc rút khỏi UNCLOS. Làm vậy họ cũng mất uy tín, nhưng họ sẽ bất chấp.
Chuẩn bị tốt cho các vụ kiện Việt Nam cũng phải thống nhất nội bộ về quy chế pháp lý của đảo và đường cơ sở phù hợp với Công ước luật biển. Ngoài ra, khi quyết định, không chỉ đơn thuần pháp lý mà phải hiểu pháp lý là một vũ khí, một biện pháp nhằm tác động tới cái đích cuối cùng là chính trị.
Bàn cờ chính trị thế giới đang thay đổi với sự đi lên của Trung Quốc, sự đi xuống hay ngang của Mỹ, sự trở lại của Nga. Biển Đông đang dần trở thành vũ đài giữa hai siêu cường Mỹ và Trung Quôc. Ai cũng muốn độc tôn và lôi kéo liên minh. Hiện Việt Nam đang vất vả chống Tàu. Sắp tới nếu Mỹ, Nhật, Philippines đồng ý thành lập một liên minh chống Trung Quốc thì Việt Nam có tham gia không? Nếu xảy ra chiến sự thì họ sẽ làm gì, sẽ giúp vũ khí để Việt Nam chiến đấu? Lịch sử cho thấy mỗi khi Việt Nam nghiêng về một cường quốc nào thì chính Việt Nam phải chịu biết bao đau thương, mất mát.
Philippines muốn liên minh với Mỹ, Nhật chống Trung Quốc. Trong hình: Ngoại trưởng Philippines Albert del Rosario tại Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN - Mỹ ở Brunei năm 2013. Hình: Reuters
1954-1975 Viêt Nam tự hào trên tuyến đầu của Chủ nghĩa Xã hội chống Mỹ, 1979 Việt Nam ký Hiệp định liên minh với Nga và chịu trận trên biên giới Việt-Trung. Việt Nam đồng thời phải giải quyết hai yêu cầu bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định để tăng cường tiềm lực bảo vệ và xây dựng tổ quốc. Làm thế nào để thoát thế kẹt giữa hai siêu cường? Một quyết định dựa trên cân nhắc đầy đủ các thông tin, tình thế, vận mệnh dân tộc buộc những người lãnh đạo phải sáng suốt lựa chọn.
Nhìn ra bên ngoài, dù không ở trong tình trạng cấp thiết như Việt Nam, nhưng Mailaysia đã xử lý rất tốt trong quan hệ với Mỹ và Trung Quốc. Malyisia vừa kiên quyết với Trung Quốc vừa công nhận vai trò đi lên của Trung Quốc nhưng đó phải là sự đi lên với trách nhiệm của một cường quốc, chứ không phải là kẻ lớn bắt nạt nước bé.
Trong khi chờ quyết định kiện, cũng nên thấy Việt Nam đã hành động đúng khi chỉ cho cảnh sát biển và kiểm ngư ra đấu tranh tuyên truyền buộc Trung Quốc rút khỏi giàn khoan. Trong những ngày đầu tiên tàu Kiểm ngư Việt Nam còn dùng súng nước bắn trả nhưng những ngày sau Việt Nam đã xác định chỉ dùng biện pháp hòa bình. Ngoại giao Việt Nam đã có những hoạt động đáng kể, dù hai bên đã cáo buộc nhau lên Liên Hiệp Quốc, đều đã tung ra các lập luận, bằng chứng của mình. Có thể coi gần như một cuộc tập dượt kiện nhau ra Tòa. Sự kết hợp chính trị, ngoại giao, pháp lý và thực địa là một giải pháp tốt. Việt Nam đã lựa chọn chiến thuật, cách đối phó phù hợp với lực của mình, lấy yếu chọi mạnh, lấy nhàn hạ chọi kẻ nôn nóng.
Vụ HS 981 này, Việt Nam cần kiên trì quấy đảo. Trung Quôc sẽ không rút ngay vì sợ mất thể diện, trừ khi có điều kiện bất khả kháng như bão hoặc họ tuyên bố hoàn thành mục tiêu trước thời hạn. Đê lâu họ cũng mệt mỏi vì chi phí dàn khoan và hơn 130 tàu là rất lớn dù họ giầu. Họ sẽ thay đổi chiến thuật sử dụng tàu cá vỏ sắt nhiều hơn để thay thế. Việt Nam kiên trì thực địa kết hợp đấu tranh và tuyên bố kiên quyết đưa ra tòa án quốc tế là hay nhất. Việt Nam có thể yêu cầu Liên Hiệp Quốc cử Ủy Ban điều tra hoà giải. Uỷ ban chỉ có tính khuyến nghị nhưng là biện pháp hai bên có thể chấp nhận trong tình hình hiện nay.
Hy vọng trong những lúc nguy nan, trí tuệ Việt Nam bao giờ cũng tìm được đường ra. Một giải pháp chiến tranh không ai muốn nhưng nếu cần thì Việt Nam chắc cũng sẵn sàng. Việt Nam sẽ là bên chịu tổn hại kinh tế nhiều nhất nhưng lâu dài Trung Quốc sẽ mất thế chính trị và sa lầy trong cuộc chiến, hủy hại giấc mơ Trung Hoa.
Một cuộc chiến tranh du kích trên biển là tốt nhất với Việt Nam. Một nhóm cướp biển Xomali với tàu nhỏ cao tốc và AK mà bao năm nay thế giới có khống chế được đâu. Với chiều dài bờ biển của mình, Việt Nam có thể bố trí tên lửa và thủy lôi, mìn dày đặc, đánh mạnh vào các đoàn tàu vận tải dầu. Một chiến thuật như Trần Khánh Dư diệt đoàn thuyền lương Trương Hổ vậy. Lịch sử cho thấy chưa bao giờ Trung Quốc bước qua được Việt Nam để xuống phía Nam bằng vũ lực. Nếu Trung Quốc nghĩ lại thì hai bên bắt tay nhau chung sống hòa bình. Việt Nam công nhận vai trò cường quốc châu Á của Trung Quốc trên cơ sở họ tôn trọng độc lập của Việt Nam.
Sẽ rất cần tìm cách để chúng ta ‘thoát lú’ và hữu nghị viển vông, an toàn bằng tất cả các biện pháp cần thiết bao gồm cả ngoại giao và pháp lý. Tin rằng, chúng ta sẽ thắng và giải pháp pháp lý cần phải xúc tiến ngay trên cơ sở chuẩn bị kỹ lưỡng.
Thay cho lời kết
Đọc Kim Dung ‘Thiên long bát bộ’ nhớ lại ván cờ vây trên đỉnh Thiên sơn của Tô Tinh Hà. Bao nhiêu cao nhân anh hùng trong thiên hạ được mời đến đều phải bó tay trước nước cờ bí hiểm và đầy huyền thoại này. Người giải được nước cờ này cuối cùng lại là một nhân vật rất bình thường, một tiểu tăng không tên tuổi của phái thiếu lâm Hư Trúc. Nhân vật này không phải là cao thủ chơi cờ và vô tình đã gạt bỏ được những nguyên lý tri thức cao siêu ‘viển vông mơ hồ’ của cờ vây để đi một nước cờ rất sơ đẳng và hết sức bình thường mà chẳng cao nhân nào nghĩ tới. Chính lối chơi này đã phá được nước cờ vây bí hiểm một cách thần kỳ và ngoạn mục. Phải chăng trong chuyện này, Kim Dung muốn nhắc tới một nguyên lý cơ bản, trí tuệ nhân dân và cơ hội lịch sử sẽ tạo nên sự thần kỳ?
Bài viết thể hiện quan điềm của tác giả
06-13-2014 12:30:58 PM
Tô Văn Trường
No comments:
Post a Comment