Có nhiều ý kiến khác nhau về việc kiện hay không kiện Trung Quốc ra Tòa án quốc tế và thời điểm kiện là khi nào?
Giàn khoa HS-981 của Trung Quốc
Kiện Trung Quốc. ‘Được’ là ai cũng biết Việt Nam dám phản đối. ‘Mất’ là mất cơ hội xác định rõ hướng đi với dân Việt và nước ngoài. Việt Nam sẽ làm gì nếu Trung Quốc đưa tiếp dàn khoan vào những nơi khác. Người ta chỉ thấy Việt Nam không biết mình sẽ làm gì, thậm chí người ta còn thấy sự mất đoàn kết trong lãnh đạo.
Là con dân nước Việt, ai cũng đau đáu mối họa cho đất nước. Vấn đề kiện hay không kiện là sự quan tâm lớn của cả trong và ngoài nước. Phát biểu về những cái này, nếu không hợp với xu thế chung, sẽ dễ bị ‘ném đá’ vì lòng yêu nước là sức mạnh vô địch nhưng nếu không hướng đúng, không sử dụng đúng thì chủ nghĩa dân tộc sẽ thành con dao hai lưỡi giống như vụ Bình Dương – Hà Tĩnh vừa qua.
Không có một Nhà nước nào lại từ bỏ chủ quyền của mình một cách dễ dàng, chịu lệ thuộc vào nước khác cả. Nhà nước Việt Nam cũng đã chuẩn bị cho các giải pháp từ nhiều năm nay cho dù còn có nhiều lúc chúng ta chủ quan, ‘nước chưa đến chân chưa nhảy’, hay làm chưa đạt được chất lượng mong muốn.
Điều này xảy ra trong cả quân đội khi không tận dụng được thời gian để trở thành chính quy hiện đại, xảy ra trong cả nền kinh tế của chúng ta, khi không đa dạng hóa bạn hàng, không cổ phần mạnh các doanh nghiệp chuyển sang cơ chế thị trường.
Sử dụng giải pháp pháp lý
Sử dụng giải pháp pháp lý là một ứng xử văn minh mà các quốc gia phương Tây nơi có nền luật pháp vững chắc lâu đời thường cậy đến. Với châu Á, từ chỗ coi các Tòa án quốc tế là sản phẩm của phương Tây, sau nhiều cải tổ của chính Tòa, bổ sung thêm các thẩm phán từ các quốc gia nhỏ khác, nên các nước châu Á cũng có xu hướng sử dụng Tòa trong một số trường hợp như Thái Lan và Campuchia qua vụ kiện đền Preah Vihear. Mailaysia và Indonesia vụ đảo Sipadan, Lipadan. Malaysia và Singapore vụ đảo đá trắng...
Các nước đưa nhau ra Tòa với điều kiện là Tòa phải có thẩm quyền trên cơ sở các quốc gia cùng chấp nhận. Tòa án Luật biển có tiến bộ trong Phụ lục VII đưa thêm một cơ chế Quốc gia có thể đơn phương đưa vụ việc ra Tòa trong những vấn đề liên quan đến giải thích và áp dụng UNCLOS. Các vụ việc trên thế giới khá đa dạng, liên quan đến chủ quyền lãnh thổ lại càng phức tạp. Hầu hết những vụ như vậy lại đòi hỏi thiện chí thực hiện các phán quyết của Tòa.
Thông thường phán quyết của Tòa chỉ tạo cơ sở để giải quyết vấn đề chứ không thể giải quyết hết được mà cần đến giải pháp tổng hợp chính trị, ngoại giao, pháp lý, quân sự. Điều bất thường là các cường quốc đều có lịch sử bất hợp tác, không tôn trọng phán quyết của Tòa như Mỹ trong Mỹ/Nicaragua, Pháp trong các cuộc thử vũ khí hạt nhân...và đều rút khỏi tuyên bố chấp nhận thẩm quyền của tòa. Điều đó, giải thích Trung Quốc, nước vẫn coi mình bị các cường quốc phương tây bắt nạt, bị đối xử bất bình đẳng, sẽ khó chấp nhận thẩm quyền của Tòa.
Thủ tục và nội dung
Các vụ kiện ra Tòa sẽ phải giải quyết vấn đề thủ tục và nội dung. Thường Tòa sẽ tổ chức hai phiên riêng biệt. Phiên thứ nhất về thủ tục, các bên sẽ phải đưa ra lý lẽ chứng minh, Tòa có thẩm quyền còn việc quyết định có hay không là do Tòa. Phiên thứ hai về nội dung. Toà sẽ chỉ có thẩm quyền xem xét đúng câu hỏi mà các bên yêu cầu với điều kiện phải rõ ràng, không ảnh hưởng đến quyền lợi bên thứ ba và phán quyết của Tòa chỉ có hiệu lực với các bên chấp nhận thẩm quyền, không có đối với bên thứ ba.
Tuy nhiên, phán quyết của Tòa cũng có thể tạo ra một ‘opinio juris’ tạo xu thế trong các phán xử các vụ tương tự sau này và dễ định hướng cho công luận. Trong một số trường hợp, Tòa không thể quyết định có thẩm quyền hay không, nếu không xem xét nội dung. Tòa sẽ phải kết hợp cả hai phiên để xem xét. Đây có thể là trường hợp của Biển Đông.
Điều kiện
Rất tiếc là nhiều người không hiểu để kiện thì Việt Nam phải chứng tỏ rằng mình đã làm hết cách trong việc giải quyết song phương. Đấy là yêu cầu của Luật Biển.
Khi xem xét vấn đề thủ tục tức xác định thẩm quyền. Điều kiện đầu tiên để sử dụng công cụ pháp lý là phải sử dụng hết các hình thức hoà bình khác như đàm phán, trung gian hoà giải, uỷ ban điều tra...nếu các biện pháp này bế tắc thì mới dùng đến Tòa. Vì vậy, có những vụ Tòa đã trả lại hồ sơ hoặc khuyến nghị các bên áp dụng biện pháp trung gian hòa giải.
Điều kiện thứ hai là các bên phải đồng ý đưa ra Tòa thì Tòa mới có thẩm quyền và chỉ xét đúng trong phạm vi câu hỏi các bên thống nhất đưa ra.
Một khi ra Tòa là nhằm mục đích giải quyết tranh chấp nhưng đằng sau của các bên đều muốn Tòa chứng minh mình thắng. Rất ít nước nghĩ đến mình thua. Nhưng điều kiện của Tòa thì rất khắc nghiệt, dù được hay không các bên đều phải chấp nhận không bác bỏ. Đây là điều cả Trung Quốc và Việt Nam đều phải cân nhắc vì lòng tự hào dân tộc cao và chưa có truyền thống văn hóa pháp lý như phương Tây. Vì vậy, việc cân nhắc thời điểm kiện, câu hỏi kiện, chọn tòa kiện, hệ quả kiện, so sánh tương quan, thực thi phán quyết...là gánh nặng đối với những người chịu trọng trách với đất nước. Trong thời gian vừa qua, hình như dư luận chỉ muốn nói đến kiện và tin tưởng đương nhiên ta thắng, địch thua mà chưa đề cập đến tất cả các khía cạnh của các câu hỏi trên, tạo một áp lực lớn cho lãnh đạo.
Năm khả năng lựa chọn pháp lý
Rõ ràng đến nay, các các biện pháp khác không mang lại kết quả, chúng ta phải dùng biện pháp pháp lý tức là kiện Trung Quốc ra Tòa án quốc tế. Việc chuẩn bị ra đòn, phải thực sự bài bản, kín kẽ, thuyết phục.
Đi vào cụ thể, chúng ta có 5 khả năng lựa chọn pháp lý:
1. Kiện để Trung Quốc rút dàn khoan HS 981
2. Kiện Trường Sa tham gia với Philippines
3. Kiện chủ quyền Hoàng Sa
4. Kiện chủ quyền Trường Sa
5. Kiện chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa
Để chọn tòa ta có Tòa án CLQT La Hay, Tòa án trọng tài thường trực quốc tế, Tòa án luật biển, Tòa trọng tài. Một số luật sư còn nói đến Tòa trọng tài thương mại trong nước đòi bồi thường thiệt hại. Nhưng Tòa này chỉ có thẩm quyền với các vụ việc xảy ra trên lãnh thổ quốc gia.
Vùng đặc quyền kinh tế không phải là lãnh thổ quốc gia, đó là một vùng biển có quy chế đặc thù (lưỡng tính) trong đó quốc gia ven biển có các quyền chủ quyền về tài nguyên thiên nhiên, các quyền tài phán về thiết lập các đảo nhân tạo, công trình trên biển, về bảo vệ môi trường biển, về nghiên cứu khoa học biển. Trong khi các quốc gia khác có các quyền tự do biển cả về đi lại, hàng không, đặt dây cáp và ống dẫn ngầm. Vì vậy, một số báo chí nói đó là vùng biển của Việt Nam hay Trung Quốc hàm ý ‘ownship’ chưa thật chính xác. Cột nước không thuộc chúng ta mà là phần biển cả trước kia thuộc toàn bộ cộng đồng quốc tế. Ta chỉ có một số quyền, quan trọng nhất là quyền chủ quyền trong đó để đổi lại ta cũng phải tôn trọng các quyền tự do khác của các nước.
Để đơn giản ta chỉ còn có Tòa La Hay và Tòa án luật biển mà thẩm quyền đã được trình bày ở trên.
Kiện riêng vụ HS 981 do Trung Quốc đơn phương triển khai dàn khoan trong vùng tranh chấp, làm thay đổi hiện trạng pháp lý, đe dọa hoà bình và an ninh, đề nghị trong lúc toà xem xét toà có thể yêu cầu áp dụng các biện pháp phòng ngừa yêu cầu rút dàn khoán.
Không tính đến Hoàng Sa thuộc ai và có quy chế đảo như thế nào (có 12 hải lý hay 200 hải lý) thì địa điểm đặt giàn khoan đều nằm trong vùng overlapping giữa bờ biển Việt Nam (130 hải lý) và đảo Hải Nam (180 hải lý). Cả Trung Quốc và Việt Nam vì những lý do riêng đều tuyên bố đây không phải là vùng tranh chấp. Nếu thực hiện một đường trung tuyến giữa bờ biển Việt Nam và Hải Nam thì điểm dàn khoan nằm bên này trung tuyến phía Việt Nam. Hành động đơn phương mang dàn khoan sang quá đường trung tuyến vì vậy được coi là khiêu khích. Các ủng hộ của thế giới cũng vì cái lớn là hòa bình ổn định, ủng hộ sự kiềm chế của Việt Nam nhưng không có ủng hộ nào về chủ quyền thuộc ai cả. Đó là điều các báo chí khai thác một phía, còn lãnh đạo phải hiểu rõ mới ra quyết sách đúng được.
Vị trí giàn khoan HS 981
Kiện HS 981, Việt Nam phải hội tụ ít nhất 3 điều kiện
Thứ nhất chứng minh Việt Nam đã bị tổn hại những gì? Dàn khoan di động, tàu thuyền kể cả quân sự đều được hưởng quyền tự do hàng hải. Chỉ khi bắt đầu khai thác thực sự hay tàu cá bị đâm như hôm 4/6 mới có đủ bằng chứng tổn hại vật chất. Khác với Philipines, họ bị mất Scarborough thực sự nên là cớ để kiện Trung Quốc. Có ý kiến cho rằng đưa ra Tòa yêu cầu Tòa tuyên bố biện pháp ngăn ngừa trước khi xét đơn nghĩa là rút dàn khoan giữ nguyên trạng. Điều kiện là bên yêu cầu phải chứng minh được tính cấp thiết của biện pháp phòng ngừa. Trung Quốc rất giảo hoạt chỉ giới hạn ở đâm va chưa có đổ máu chiến sự. Cuộc đấu tranh của Việt Nam ở đây là nhằm mục đích bẻ gãy ý chí của Trung Quốc không cho kéo giàn khoan vào sâu trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Tư Chính hay 9 lô miền Trung. Nhưng ra Tòa, không thể nói ý định chính trị vì đây là vụ kiện pháp lý mà phải chứng minh có tổn hại vật chất.
Thứ hai là thời gian xem xét của Toà nhanh cũng một vài tháng. Vụ Philippines kiện Trung Quốc, tháng 2 năm 2013 đưa đơn ra Tòa đến 30/3/2014 nộp bản memoire, Tòa yêu cầu Trung Quốc nộp bản phản bị vong lục trình bày quan điểm của mình trước ngày 15/12 nghĩa là mở cho Trung Quốc tham gia nhưng Trung Quốc không tham gia. Có nghĩa là thủ tục một vụ kiện từ 18-22 tháng, Tòa mới bắt đầu xét phiên có thẩm quyền hay không.
Giàn khoan có thời hạn hoạt động theo công bố 15/8/2014 lúc đó tàu và giàn khoan đã rút, Toà có thể nói đối tượng kiện không còn nên hủy vụ kiện (giống như trong vụ thử vũ khí hạt nhân 1974 giữa Pháp, Newzeland, Úc). Khi ta làm xong hồ sơ thì cũng là thời điểm họ rút. Khi đó Trung Quốc đương nhiên cho rằng không còn đối tượng xem xét nên bác đơn. Nếu kiện Việt Nam phải kiện ngay từ những ngày đầu, song lúc đó lại vướng phải điều kiện thứ 3 chưa hoàn thành.
Thứ ba là ta phải chứng minh đã sử dụng hết các biện pháp đàm phán hoà bình. Hiện Trung Quốc rất xảo trá, họ không dồn đến cùng vẫn nói là sẵn sàng đàm phán nhưng lại không chịu nhận đàm phán với ta. Giao thiệp hai bên mới ở mức Bộ trưởng Bộ ngoại giao, chứ chưa đến mức Thủ tướng hay Tổng bí thư.
Việt Nam và Trung Quốc lại còn Thỏa thuận nguyên tắc về các vấn đề trên biển mới ký 2012 trong đó thỏa thuận sẽ đàm phán song phương để giải quyết các bất đồng đối với các vấn đề song phương, đàm phán đa phương đối với các vấn đề đa phương. Ngoài ra, cũng phải tính đến khả năng Trung Quốc đưa lý luận vu cáo ta sử dụng lực lượng quân sự vì cảnh sát biển hiện thuộc Bộ quốc phòng nếu nó được tách ra là một lực lượng dân sự như những nhà phác thảo Pháp lệnh Cảnh sát biển 1998 ban đầu dự tính thì tốt hơn. Toà cũng có thể khuyến cáo quay về thủ tục hoà giải bắt buộc, nghĩa là hai bên đàm phán quay lại từ đầu.
Đòn tấn công của Trung Quốc
Điều cần lưu ý là tại sao phải sửa soạn cẩn thận, tức là phải chấp nhận những gì đã thật sự xảy ra và có phương pháp đối phó. Về kiện chủ quyền, Việt Nam có nhiều điều phải lo, bởi vì Trung Quốc có nhiều nguồn tài liệu chứng tỏ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã nhường Hoàng Sa cho Trung Quốc.
Những gì Trung Quốc nói hôm nay, họ đã đăng trong tài liệu của họ năm 1980, trên Beijing Review (lúc đó là tờ báo chính thức duy nhất của Trung Quốc bằng tiếng nước ngoài) và được lập lại ở nhiều nơi khác, có thể coi ở đây:
http://www.marxists.org/subject/china/peking-review/1980/PR1980-07.pdf
Tiếng Tầu gọi Hoàng Sa là Xisha (Tây Sa) và Trường Sa là Nansha (Nam Sa).
Những điểm chính trong tài liệu trên:
- Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng in cả trên báo Nhân Dân. (Bản đăng này đã có trên Internet)
- Báo nhân dân VN đăng luật về hải phận của Trung Quốc
- Các phát biểu của ông Ung Văn Khiêm, Thứ trưởng Ngoại giao VN và một cán bộ khác về Hoàng Sa/ Trường Sa là của Trung Quốc trong cuộc họp ở Hà Nội.
- Bản đồ World Map của Việt Nam (1960) do cục Bản đồ ( thuộc Bộ Quốc phòng VN) xuất bản ghi Hoàng Sa /Trường Sa bằng tiếng Tầu và đóng ngoặc là của Trung Quốc
- Bản đồ năm World Atlas 1972 của Văn phòng Thủ tướng ghi Hoàng Sa/Trường Sa bằng tiếng Trung. (Có in lại trong tạp chí này).
- Sách giáo khoa lớp 9 năm 1974 do Bộ giáo dục xuất bản, ghi Hoàng Sa-Trường Sa thuộc Trung Quốc (đã được Trung Quốc mới đây chụp và đưa lên Internet).
Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Nguồn hình: Wikipedia
Và họ lý luận là cho đến 1974, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà chấp nhận Hoàng Sa-Trường Sa thuộc Trung Quốc. Với những tài liệu như thế thì khó lòng bác bỏ được họ về lập trường của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Ngoài ra có thể có những tài liệu quan trọng khác mà Trung Quốc chưa đưa ra.
Để phản bác lại những điều trên, phải chấp nhận:
-Nước Việt Nam có hai quốc gia trước năm 1975: Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, và Việt Nam Cộng hoà.
-Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là nước kế thừa, không cần phải thừa kế hiệp định/lời hứa nhường lãnh thổ. Bài viết của TS Tạ Văn Tài và TS Vũ Quang Việt “Công ước Kế tục quốc gia đối với Hiệp ước 1978” là theo hướng này. Nhưng họ chỉ là chuyên gia, nhà nghiên cứu đưa ra vấn đề chứ còn lập luận đứng vững hay không phải cần chuyên gia thật sự về luật này và các luật quốc tế khác.
06-13- 2014 12:20:18 PM
Tô Văn Trường
(còn tiếp)
No comments:
Post a Comment