Kết cục của chế độ cộng
sản
Chủ nghĩa cộng sản là một sản phẩm quái thai
trong dòng chảy của lịch sử nhân loại. Dĩ nhiên, như một quy luật tất yếu, nó đã
và đang bị lịch sử vứt vào sọt rác.
Thành trì của chủ nghĩa cộng sản thế giới là
Liên Xô đã sụp đổ cách nay ¼ thế kỷ. Giờ đây, số quốc gia lấy chủ nghĩa
Marx-Lenin làm hệ tư tưởng chính thống chỉ còn đếm được trên đầu ngón tay: Trung
Quốc, Việt Nam, Triều Tiên, Cuba và Lào.
Cùng với xu thế dân chủ hoá trên toàn thế giới,
người dân ở các quốc gia cộng sản còn lại đó đã bắt đầu thức tỉnh và lên tiếng
đòi tự do, dân chủ và quyền con người chính đáng của mình. Việc Mỹ và Cuba vừa
tuyên bố bình thường hoá quan hệ sau hàng thập kỷ ở trong trạng thái đối đầu là
dấu hiệu mới nhất minh chứng cho xu thế không thể đảo ngược ấy.
Quá trình mở cửa hội nhập với thế giới trong
bối cảnh cuộc cách mạng Internet và cách mạng truyền thông xã hội diễn ra ngày
càng sâu sắc là nhân tố quyết định tạo ra những biến chuyển lớn lao trong lòng
xã hội Việt Nam thời gian qua.
Ngày càng nhiều người dân Việt Nam công khai
lên tiếng đòi xoá bỏ Điều 4 trong Hiến pháp, điều khoản hiến định vai trò lãnh
đạo độc tôn của Đảng CSVN đối với nhà nước và xã hội. Điều mà chỉ mới cách đây
mấy năm ít ai dám nghĩ tới thì nay người ta đã công khai bày tỏ thái độ. Đặc
biệt, xu thế này ở Việt Nam lại diễn ra trong bối cảnh nhà cầm quyền cộng sản
gia tăng chính sách đàn áp nhằm vào những tiếng nói đòi tự do, dân chủ và nhân
quyền cho Việt Nam.
“Kẻ thức thời mới là tuấn kiệt.” Nay thì tiếng
nói đòi đổi thay không chỉ vang lên trong đám thường dân, mà ngay cả trong giới
cầm quyền cũng đã xuất hiện những
lời lẽ bóng gió về đòi hỏi tất yếu đó.
Toan tính của Bắc
Kinh
Hàng ngàn năm qua, Trung Quốc chưa lúc nào
nguôi tham vọng thôn tính Việt Nam. Ngay cả trong những ngày tháng “mặn nồng”
nhất của mối quan hệ hữu nghị “vừa là đồng chí, vừa là anh em” giữa hai nước, họ
cũng không một phút giây sao
nhãng “sứ mạng cao cả” đó.
Cố nhiên, Bắc Kinh thừa khôn ngoan và thực tế
để hiểu rằng chế độ cộng sản ở Việt Nam không tránh khỏi sụp đổ trong vài năm
tới.
Khi sụp đổ tất yếu ấy diễn ra, chính quyền hậu
cộng sản tại Việt Nam nhiều khả năng sẽ là một chính thể dân chủ đi theo quỹ đạo
của Mỹ và phương Tây. Đơn giản, người dân Việt Nam đã quá chán ngán với chế độ
độc tài, còn Trung Quốc thì chưa bao giờ là niềm tin của họ, ngoại trừ những tên
Việt gian bán nước.
Cơ may lớn nhất cho Trung Quốc lúc đó là nhân
lúc Việt Nam rơi vào khoảng trống quyền lực, họ sẽ phát động cuộc tấn công chớp
nhoáng nhằm vào Trường Sa hòng kiểm soát hoàn toàn Biển Đông.
Để ngăn ngừa một Việt Nam hậu cộng sản đi theo
quỹ đạo của Mỹ, việc Trung Quốc đưa quân vào Việt Nam phối hợp với đội quân Hán
tặc và Việt gian tại chỗ là một khả năng thực tế, nhất là khi Trung Quốc đã và
đang tìm cách khống chế một số vị trí hiểm yếu về an ninh quốc phòng ở Việt Nam
như các khu rừng đầu nguồn ở một số tỉnh, Vũng Áng – Sơn Dương (Hà Tĩnh), Tây
Nguyên (qua dự án khai thác Bauxite), Hải Vân (qua hai dự án du lịch của người
Hoa), Ninh Thuận (qua dự án điện hạt nhân Ninh Thuận do PTT gốc Tàu Hoàng Trung
Hải làm Trưởng ban Chỉ đạo Nhà nước), các căn
cứ quân sự dưới hình thức dự án kinh tế trá hình ở Lào và Campuchia,
v.v.
Mặc dù vậy, trong bối cảnh quốc tế hiện nay,
việc đưa quân vào nước khác ẩn chứa nhiều rủi ro, nhất là với một quốc gia có
truyền thống chống Trung Quốc như Việt Nam. Trung Quốc hoàn toàn có thể bị sa
lầy và dễ dàng đánh mất vị thế siêu cường, thậm chí bước sa chân đó có thể biến
thành cơ hội “ngàn năm có một” để Mỹ và phương Tây xâu xé tanh bành một Trung
Hoa Đại Hán đang ngày càng cho thấy là vấn
đề lớn nhất của cả thế giới.
Thậm chí, ngay cả khi Trung Quốc đánh chiếm
được Trường Sa thì chính phủ hậu cộng sản ở Việt Nam chắc chắn sẽ ở vào thế đối
đầu với Trung Quốc. Lúc ấy, với sự hậu thuẫn của Mỹ và phương Tây, một cuộc
chiến trường kỳ của Việt Nam hòng giành lại Trường Sa là khả năng gần như chắc
chắn Trung Quốc sẽ phải đối mặt. Chưa biết thắng thua thế nào, nhưng cái giá mà
Trung Quốc sẽ phải trả là không hề nhỏ.
Chính vì vậy, kịch bản khả quan nhất cho Trung
Quốc trong bối cảnh chế độ độc tài toàn trị ở Việt Nam sắp sụp đổ là dựng lên
một chế độ độc tài hậu cộng sản giống như Nga, trong đó nhân vật sắm vai “Putin
của Việt Nam” là kẻ mà Trung Quốc dễ dàng khống chế và thao túng.
Nếu điều này xẩy ra, ngoài biển thì Trung Quốc
có thể tiếp tục quá trình thôn tính Trường Sa theo chiến thuật “tằm ăn dâu” sở
trường, trước phản ứng lấy lệ của lãnh đạo Việt Nam, cho đến khi họ kiểm soát
hoàn toàn Trường Sa và đặt Mỹ và phương Tây vào tình thế đã rồi; trên đất liền
thì Trung Quốc sẽ tiếp tục khống chế các vị trí các vị trí xung yếu về an ninh –
quốc phòng nhằm khi chiến sự xẩy ra thì sẵn sàng cho phương án chia cắt Việt Nam
thành nhiều phần mà không cần phải tốn nhiều công sức, thậm chí chỉ cần sử dụng
lực lượng trá hình tại chỗ; và đặc biệt, nền kinh tế Việt Nam sẽ đi đến chỗ lệ
thuộc hoàn toàn vào Trung Quốc, tiếp nối quá trình vẫn
đang diễn ra nhiều năm nay.
Một khi bộ máy lãnh đạo chóp bu hoàn toàn bị
thao túng, các vị trí xung yếu về an ninh quốc phòng trên cả nước bị khống chế
và nền kinh tế trở thành “một bộ phận không thể tranh cãi của Trung Quốc”, Việt
Nam coi như lọt hẳn vào quỹ đạo của Trung Quốc và việc đi đến chỗ trở thành một
Tây
Tạng hay Tân Cương mới của Đại Hán chỉ còn là
vấn đề thủ tục.
Tại sao lại là Nguyễn Tấn
Dũng?
Vấn đề lúc này đã trở nên rõ ràng: Ai sẽ là
nhân vật sắm vai “Putin của Việt Nam” trong kịch bản thâm độc và xảo quyệt thể
hiện đúng bản chất của Trung Quốc như trên? Xin thưa, nhân vật đó không ai khác
hơn đương kim Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Tại sao lại là Nguyễn Tấn Dũng, nhân vật vẫn có
những lời lẽ mạnh mẽ nhất nhằm vào Trung Quốc trong ban lãnh đạo Việt Nam hiện
nay? Và chẳng phải bản thân Hoàn Cầu Thời Báo từng mấy lần lên
tiếng “cảnh báo” về lập trường “bài Hoa, thân Mỹ” của ông ta đấy sao?
Xin thưa, bất chấp những tuyên bố “hùng hồn”
của ngài Thủ tướng nhằm vào Trung Quốc, cũng như những lời “cảnh cáo” của báo
chí Trung Quốc nhằm vào ông ta, Nguyễn Tấn Dũng vẫn là một trong những người
Việt Nam lập nhiều “chiến công” nhất cho Trung Nam Hải kể từ năm 1945 đến nay.
Xin đơn cử:
1. Trước kỳ họp đầu tiên của Quốc hội
khoá XII (tháng 7.2007), ông Nguyễn Tấn Dũng đã nhất quyết đề cử ông Hoàng Trung
Hải vào vị trí quan trọng thứ hai trong chính phủ: Phó Thủ tướng phụ trách kinh
tế. Mặc dù lúc đó một số cán bộ ở Ban Tổ chức Trung ương và Uỷ ban Kiểm tra
Trung ương đã gửi Tâm
Huyết Thưcho Bộ Chính trị, Ban Bí thư để tố cáo lý lịch người Hán của ông
Hoàng Trung Hải, nhưng vẫn không ngăn chặn được. Ngoài ra, ông Nguyễn Tấn Dũng
còn tin tưởng giao phó cho ông ta vô
số trọng trách quán xuyến nền kinh tế khác. Trong lịch sử Việt Nam, chưa bao
giờ có một người Hán nào, đặc biệt lại che dấu lý lịch với mưu đồ đen tối, leo
lên đến vị trí gần như nắm trong tay cả nền kinh tế và gây ra không
biết bao nhiêu tai hoạ cho Việt Nam (nhưng đặc biệt có lợi cho Trung Quốc)
suốt từ năm 2007 đến nay.
2. Năm 2005, tức trước khi ông Nguyễn
Tấn Dũng ngồi lên chiếc ghế Thủ tướng, tỷ trọng nhập khẩu từ Trung Quốc trong
tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam mới chỉ chiếm 15,9%, với giá trị nhập siêu
là 2,67 tỷ USD. Chín năm dưới quyền lãnh đạo của ông ta, tỷ trọng NK từ Trung
Quốc trong tổng kim ngạch NK của Việt Nam cứ tăng dần đều và đến năm 2014 thì
lên tới 29,5%, với giá trị nhập siêu là 28,9 tỷ USD. Quý vị hãy hình dung thế
này: cộng với giá trị nhập khẩu tiểu ngạch trá hình và hoạtđộng
buôn lậu tràn lan từ Trung Quốc, ước chừng cứ 2 sản phẩm Việt Nam nhập khẩu
từ bên ngoài thì có 1 sản phẩm “made in China”, và tỷ lệ đó vẫn đang tăng lên
qua từng năm. Nếu xét thực tế phần lớn sản phẩm nhập khẩu từ Trung Quốc là chất
lượng thấp và độc hại thì đây thực sự THẢM HOẠ đối với một nền kinh tế có độ
mởnằm
trong nhóm 5 nước cao nhất trên thế giới như Việt Nam.
Đồ thị: Tỷ trọng xuất nhập khẩu giữa Việt Nam
– Trung Quốc trong
tổng kim ngạch XNK của Việt Nam giai đoạn
2000÷2014 – Nguồn: VOA
3. Trong lịch sử 4 ngàn năm dựng nước và
giữ nước của Việt Nam, mặc dù bị Trung Quốc xâm lược và đô hộ nhiều lần, nhưng
chưa bao giờ người Trung Quốc “cắm chốt” được ở bất cứ đâu trên mảnh đất phương
Nam này. Song đến nay, nhờ “công lao” của cặp bài trùng Nguyễn Tấn Dũng – Hoàng
Trung Hải mà Trung Quốc đã đặt chân vào và từng bước khống chế nhiều vị trí xung
yếu về an ninh – quốc phòng ở Việt Nam: một loạt dự án thuê
đất rừng đầu nguồn ở một số tỉnh, dự án khai thác Bauxite ở Tây Nguyên, dự
án Formosa ở Vũng Áng, hai
dự án du lịch của người Hoa trên đèo Hải Vân, dự
án điện hạt nhân ở Ninh Thuận, v.v.
4. Dưới sự lãnh đạo của Thủ tướng Nguyễn
Tấn Dũng, nhà thầu Trung Quốc trúng thầu đến
90% các dự án hạ tầng trọng điểm ở Việt Nam, với vô số hệ luỵ về an ninh –
quốc phòng và những thiệt hại không thể đong đếm về kinh tế (chậm tiến độ hàng
năm; chất lượng thấp; phụ thuộc vào Trung Quốc về phụ tùng và linh kiện thay
thế, v.v.).
5. Với tư cách là người phụ
trách Đảng uỷ Công an Trung ương kể từ năm 2006, ông Nguyễn Tấn Dũng là nhân
vật đóng vai trò quyết định trong chiến dịch đàn áp ngày càng khốc liệt nhằm vào
phong trào chống Trung Quốc xâm lược ở Việt Nam nhiều năm qua. Những tiếng nói
phản kháng Trung Quốc mạnh mẽ nhất như TS Cù Huy Hà Vũ, blogger Điếu Cày, nhà
văn/blogger Phạm Viết Đào, blogger Anh Ba Sàm, nhà văn/blogger Nguyễn Quang Lập…
đều lần lượt “được” ông ta cho vào “an dưỡng” trong tù. Mới đây, nhà văn/blogger
yêu nước Phạm Viết Đào đã chỉ đích
danh Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là người đã chỉ đạo lực an ninh dưới quyền
bắt bỏ tù ông cũng như nhiều blogger khác.
6. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chính
là “tác giả” của bản Thông báo cấm biểu tình chống bành trướng Bắc Kinh do
UBND Tp Hà Nội ban hành ngày 18/8/2011.
Theo nhà báo Huy
Đức: “Ngày 2.8.2011, trung tướng Nguyễn Đức Nhanh khẳng định trong một buổi
họp báo: ‘Hà Nội không có chủ trương trấn áp người biểu tình’. Để rồi, ngày
18.11.2011, từ chỗ coi những người biểu tình chống Trung Quốc là yêu nước, Hà
Nội ra thông báo vu cho người biểu tình là ‘gây rối Thủ đô’, là có ‘các thế lực
chống đối trong và ngoài nước’. Dân chúng nào biết, tác giả bản thông báo này là
thượng tướng Nguyễn Văn Hưởng, phái viên của thủ tướng đặc trách an ninh, tôn
giáo. Buổi tối trước khi bản thông báo được đưa xuống Hà Nội, Tướng Hưởng đã đưa
đến nhà để Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trực tiếp đọc duyệt. Cho dù không có quan
chức nào ở Hà Nội chịu ký, bản thông báo và những ‘tác phẩm báo chí’ bôi nhọ
người biểu tình khác vẫn được phát trên các phương tiện truyền thông của Hà Nội.
Từ đó, các vụ bắt bớ người biểu tình diễn ra khốc liệt liên tục vào các ngày chủ
nhật.”
7. Cho đến nay, văn bản pháp lý quan
trọng nhất của nhà nước Việt Nam nhằm khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa và
Trường Sa chính là Luật Biển do Quốc hội Việt Nam thông qua ngày 21.6.2012. Tuy
nhiên, mặc dù cố tạo ra vẻ ta đây là nhân vật chống Tàu mạnh mẽ nhất trong bộ
máy, song ông Nguyễn Tấn Dũng lại không hề để lại bất kỳ dấu ấn nào trong quá
trình ra đời của đạo luật. Đây được cho là mộtchiến
thắng cá nhân của ông Trương Tấn Sang, người lúc bấy giờ còn cho thấy lập
trường chống Trung Quốc rõ ràng. Không những vậy, tuy đã gần 3 năm trôi qua kể
từ khi đạo luật này được thông qua, nhưng chính phủ của TT Nguyễn Tấn Dũng vẫn
chưa có bất kỳ động thái gì để triển khai thực hiện đạo luật đó, kể cả việc đơn
giản nhất là ban hành nghị định hướng dẫn.
8. Ông Nguyễn Tấn Dũng là một “bậc thầy”
của trò “nói một đàng, làm một nẻo”. Điều này thì chẳng còn mấy ai lấy làm lạ
nữa. Điều lạ ở đây là dường như ông ta càng “nói một đàng, làm một nẻo” thì lại
càng có nhiều người tung
hê và đặt niềm tin vào ông ta. Không ít người vẫn đang mơ màng là ông ta sẽ
cải cách thể chế nếu nắm quyền hành trong tay, đơn giản là vì họ đã nhiều lần
nghe ông ta hô hào “cải cách thể chế”, mà lần nào nghe cũng sướng tai. Xin hỏi,
nếu ông ta thực tâm muốn cải cách thể chế, tại sao ông ta lại KHÔNG HỀ thực hiện
tái cấu trúc nền kinh tế, điều mà ông ta đã lớn tiếng hô hào ngay từ những ngày
đầu tiên của nhiệm kỳ thứ hai và hoàn toàn nằm trong phạm vi chức trách cũng như
quyền hạn của ông ta. Kinh tế quyết định chính trị. Nếu ông ta thực tâm muốn cải
cách thể chế chính trị, tại sao ông ta không tiến hành cải cách thể chế kinh tế
để thúc đẩy cải cách chính trị?[i]
Tổng thống Obama từng hy vọng việc ký kết TPP với Việt Nam sẽ diễn ra trong năm
2013, vậy mà 2 năm sau đấy người ta vẫn chưa xác định được thời điểm ký kết.
Nguyên nhân chủ yếu cho sự chậm trễ này là vì Việt Nam chậm tái cấu trúc nền
kinh tế và thái độ “quyết liệt” của ông Nguyễn Tấn Dũng trong việc đàn áp những
người con ưu tú của đất nước dám cất lên tiếng nói đòi cải cách hệ thống và
chống bá quyền Trung Quốc. (Dĩ nhiên, đây là điều mà Trung Quốc hết sức mong
muốn.)[ii]
Bên cạnh những gì đã trình bày trên đây là thực
tế (i) hàng hoá Trung Quốc ngày càng tràn
ngập thị trường Việt Nam, (ii) hoạt động buôn lậu hàng hoá từ Trung Quốc về
Việt Nam ngày
một phổ biến, (iii) làn sóng doanh nghiệp Trung Quốc thâu
tóm doanh nghiệp Việt Nam đang âm thầm diễn ra, (iv) các nhà đầu tư Trung
Quốc đang ráo riếtsăn
lùng bất động sản Việt Nam, và (v) người lao động Trung Quốc nhan nhản trên
khắp lãnh thổ Việt Nam – tất cả đều diễn ra dưới quyền cai quản của Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng. Thử hỏi, kể từ năm 1945 đến nay, liệu còn người Việt Nam
nào lập được nhiều “thành tích” cho Trung Quốc hơn ông ta?
Những phát biểu hùng hồn của ông ta nhằm vào
Trung Quốc và những
lời “cảnh cáo” mà Hoàn Cầu Thời Báo nhằm vào ông ta chẳng qua chỉ là trò
loè bịp dư luận do Trung Nam Hải giật dây, hòng tạo điều kiện cho con bài
đắc dụng nhất của họ “ghi điểm” trong mắt công chúng Việt Nam hầu tiến tới thâu
tóm ngôi vị tối cao tại kỳ Đại hội Đảng sắp đến.
Mặc dù đứng ở vị trí thứ ba hệ thống “ngôi
thứ” của bộ máy, nhưng ông
Tấn Dũng vẫn được đánh giá là nhân
vật quyền lực nhất VN nhiều năm qua
Ông Nguyễn Tấn Dũng đã khẳng định trước Quốc
hội hôm 19.11.2014 rằng quan điểm của ông ta trong quan hệ với Trung Quốc là “vừahợp
tác, vừa đấu tranh”.
Vậy ông ta sẽ “vừa hợp tác, vừa đấu tranh” với
Trung Quốc như thế nào một khi trở thành nhà lãnh đạo tối cao của Việt
Nam?
Xin thưa, quá trình “Hán hoá” Việt Nam sẽ còn
diễn ra nhanh hơn so với thời kỳ ông ta làm Thủ tướng, bởi lúc này chẳng còn thế
lực nào ở Việt Nam đủ sức thách thức quyền lực của ông ta cả.
Hãy nhìn lại 9 năm dưới “triều đại” của Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng xem Việt Nam đã bị “Hán hoá” đến thế nào để hình dung ra
bộ mặt Việt Nam 10 năm tới dưới “triều đại” của Tổng Bí thư/Tổng thống Nguyễn
Tấn Dũng./.[iii]
_________________________________
Ghi chú:
[i] Dĩ nhiên, nếu trở thành Tổng Bí thư khoá
tới, ông ta sẽ tiến hành cải cách thể chế “theo cách của 3X” vào cuối nhiệm kỳ
để dọn đường cho mình trở thành “Putin của Việt Nam”.
[ii]
Tác giả bài viết này là người vẫn
đang theo đuổi vụ tố cáo đối với PTT gốc Tàu Hoàng Trung Hải, Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng và (nguyên) TBT Nông Đức Mạnh kể từ năm 2008 đến nay, nhưng không
hề được giải quyết đúng pháp luật, trong bối cảnh ngay cả ĐBQH Dương Trung
Quốc, người tiếp nhận đơn thư của chúng tôi, cũng đã bị PTT
gốc Tàu Hoàng Trung Hải khống chế và thao túng, mặc dù vụ việc đã được truyền
thông quốc tế nhiều lần đưa tin.
Trong câu chuyện tố cáo, tác giả đã nêu rõ ông
Hoàng Trung Hải (và sau lưng ông ta là Trung Nam Hải) đã gài bẫy và khống chế
được ông Nguyễn Tấn Dũng. Vì thế, ông ta đã nhất quyết đặt ông Hoàng Trung Hải
vào vị trí PTT phụ trách kinh tế, và ra sức bảo vệ nhân vật đầy tai tiếng và mờ
ám này. Bản thân vợ tác giả, cô Lê Thị Phương Anh, nhân chứng sống của vụ án và
từng là một mắt xích quan trọng trong đường dây ma tuý của PTT Hoàng Trung Hải,
lại đang bị Công an Đồng Nai bắt
giam và truy tố trái phép từ ngày 15.5.2014.
Bộ Ngoại giao Mỹ từng nêu vụ Lê Anh Hùng, người
tố cáo cặp bài trùng Hoàng Trung Hải – Nguyễn Tấn Dũng, bị cưỡng chế vào trại
tâm thần từ ngày 24.1 ÷ 5.2.2013 như một
vụ vi phạm nhân quyền tiêu biểu của nhà cầm quyền Việt Nam trong năm
2013.
[iii]
Dưới áp lực của dư luận, ông Nguyễn Tấn Dũng vẫn điềm nhiên tuyên bố dự án khai
thác Bauxite ở Tây Nguyên là “chủ trương lớn của đảng và nhà nước”. Với dự án
khu du lịch nghỉ dưỡng quốc tế World Shine trên đèo Hải Vân thì mặc dù Bộ Quốc
phòng đã chính
thức có văn bản kiến nghị dừng dự án từ ngày 28.11.2014 song đến nay ông ta
vẫn chưa hề hé răng lấy nửa lời, dù trước đấy ông ta đã
hứa “sẽ xem xét lại”. Nếu đối thủ của ông ta không “xì” tin cho báo chí lên
tiếng thì sẽ chẳng bao giờ có chuyện ông ta “xem xét lại” ở đây cả.
Tương tự, nếu đối thủ của ông ta không “xì” ra
cho báo chí biết chuyện Cty Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh đòi
thành lập đặc khu kinh tế trực thuộc Văn phòng Chính phủ thì nay Formosa Hà
Tĩnh đã trở thành một “tiểu quốc” của Đại Hán trực thuộc PTT gốc Tàu Hoàng Trung
Hải rồi (dù trên thực tế nó đã trở thành đặc
khu Trung Quốc từ lâu).
Đặc biệt, nếu truyền thông quốc tế không kịp
thời loan tin thì âm
mưu lập căn cứ tại Cửa Việt của Trung Quốc cũng đã trở thành hiện
thực.
No comments:
Post a Comment