Theo BBC-16 tháng 1 2018
Một chuyên gia nói tin Việt Nam chính thức cho phá sản ngân hàng từ ngày 15/1 "hợp xu hướng quốc tế" trong lúc người khác cảnh báo "nguy cơ hiệu ứng dây chuyền."
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng chính thức có hiệu lực từ ngày 15/1, lần đầu tiên đưa ra phương án phá sản một ngân hàng để tái cấu trúc hệ thống.
Theo đó, Ngân hàng Nhà nước sẽ trình Chính phủ quyết định chủ trương phá sản ngân hàng được kiểm soát đặc biệt theo quy định tại Luật này.
'Tín hiệu tốt'
Hôm 16/1, trả lời BBC, ông Nguyễn Việt Khoa, giảng viên Khoa Luật, Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh, nói: "Việc cho phá sản ngân hàng là phù hợp với xu hướng quốc tế, nhưng quan trọng hiện là tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam trong một thời gian dài bị lợi ích nhóm chi phối."
"Một số ngân hàng không đủ chuẩn theo quy định của Ngân hàng Nhà nước hoặc kinh doanh không hiệu quả buộc phải hợp nhất, sáp nhập hoặc buộc phải phá sản bắt buộc."
"Về lâu dài, tôi cho rằng quy định này mang lại tín hiệu tốt cho nền kinh tế, xoá bỏ mục đích lập ngân hàng để phục vụ lợi ích riêng và làm sân sau cũng cấp vốn cho các ông chủ công ty, tập đoàn kinh tế."
Đề cập về những quan ngại của người đang gửi tiền tiết kiệm tại các ngân hàng Việt Nam, ông Việt Khoa cho biết: "Ban đầu, tin quy định này có hiệu lực ít nhiều ảnh hưởng đến tâm lý người gửi tiền. Tuy nhiên, hoạt động gửi tiền cũng được xem là một hoạt động kinh doanh, và ngân hàng thương mại cũng là một doanh nghiệp nên việc chịu rủi ro trong kinh doanh cũng là tất yếu."
"Vì vậy, người gửi tiền buộc phải lựa chọn hoặc phân tán số tiền gửi vào những ngân hàng thương mại làm sao để được an toàn nhất, đó cũng là động lực buộc các ngân hàng thương mại cải tiến đặc biệt là hệ thống quản lý rủi ro để tạo niềm tin cho khách hàng."
"Tôi cho rằng, với tình hình hiện nay tại Việt Nam, quy định cho phá sản ngân hàng thương mại chẳng ảnh hưởng nhiều đến nền kinh tế. Nền kinh tế không lo thiếu vốn khi đã có những ngân hàng nước ngoài và các quỹ đầu tư đã quen với thị trường Việt Nam."
"Trong hàng chục năm qua, có thể nói đây là giai đoạn khởi đầu cho việc điều hành hệ thống ngân hàng mà tôi cho là tốt nhất, đi đúng quỹ đạo của nền kinh tế, và là mạch máu đúng nghĩa của nền kinh tế."
'Vấn đề lớn'
Trái ngược ý kiến trên, Tiến sĩ Nguyễn Văn Phú nói với Ben Ngô của BBC Tiếng Việt từ Đại học Strasbourg, Pháp:
"Việc một tổ chức tín dụng (ngân hàng) bị thua lỗ đi đến phá sản là một hiện tượng bình thường của nền kinh tế, cũng như các doanh nghiệp khác được lập ra, lớn mạnh lên, và phá sản hoặc biến mất đi vào một thời điểm nào đó."
"Tuy nhiên, các tổ chức tín dụng lại có nhiều vai trò khác. Nó không chỉ là nơi nhận tiền gởi của khách hàng, mà có vai trò cung cấp vốn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, bảo hiểm."
"Nếu một tổ chức tín dụng bị phá sản, mà là một ngân hàng lớn thì sẽ có nguy cơ gây hiệu ứng dây chuyền, có thể gây ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế."
"Theo Luật Các tổ chức tín dụng, khi một ngân hàng bị phá sản, người dân sẽ chỉ được đền bù tối đa là 75 triệu đồng. Đó là về phía người dân. Tuy nhiên, việc phá sản này sẽ gây khó khăn cho các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp ký gởi tiền hoặc là chủ sở hữu/cổ đông ở đây. Ngoài ra, khi một ngân hàng bị phá sản, nguy cơ là các ngân hàng khác cũng bị liên đới, chẳng hạn vì có sở hữu chéo. Những điều này sẽ gây hiệu ứng dây chuyền và ảnh hưởng rộng lên các hoạt động kinh tế."
Ông Nguyễn Văn Phú nói thêm: "Tất nhiên, có luật về phá sản của các ngân hàng là tốt, nhưng cho phép một ngân hàng phá sản trên thực tế sẽ là vấn đề lớn trong tình hình hiện nay."
"Việt Nam nên nghiên cứu kỹ các kinh nghiệm trên thế giới. Ví dụ như qua cuộc khủng hoảng toàn cầu vừa qua, bắt đầu từ việc phá sản của ngân hàng Lehman Brothers năm 2008 ở Hoa Kỳ. Nền kinh tế Iceland bị khủng hoảng trầm trọng khi ba ngân hàng lớn bị phá sản và phải bị quốc hữu hóa, dẫn đến việc nước này nằm trên bờ vực phá sản."
"Trường hợp của Hy Lạp và Tây Ban Nha trong đợt khủng hoảng vừa qua cũng gần như vậy."
Theo ông Phú, "Trong trường hợp của Việt Nam, trong khi thông tin thiếu minh bạch, hay nói cách khác là thông tin bất đối xứng, tin đồn có ảnh hưởng rất lớn, việc cho một ngân hàng phá sản là việc phải rất cẩn thận. Cần phải xem xét quy mô của việc này, xem xét ảnh hưởng có thể có lên người dân và doanh nghiệp, nhất là trong môi trường thông tin thiếu minh bạch."
"Ngoài ra, cũng cần lưu ý là việc cho phá sản một ngân hàng nhiều khi không thực hiện được vì những lý do nêu trên, nên nhà nước phải can thiệp, như là quốc hữu hóa. Đã có tiền lệ là Ngân hàng Nhà nước mua ba ngân hàng GPBank, OceanBank và CBBank với giá 0 đồng. Do đó cần đánh giá hệ lụy có thể có lên ngân sách nhà nước và nợ công của việc quốc hữu hóa các ngân hàng này."
Liệu việc cho phá sản ngân hàng có thể giúp ngăn ngừa cuộc khủng hoảng ngành tài chính Việt Nam trong tương lai?
Ông Nguyễn Việt Khoa chia sẻ thêm với BBC: "Giá như, quy định cho phá sản ngân hàng có hiệu lực sớm hơn, nghĩa là nếu lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước cầu thị trước các ý kiến của các chuyên gia và không bị lợi ích nhóm chi phối thì hàng ngàn tổ chức, cá nhân đã không bị mất tiền oan trước quyết định mua ngân hàng thương mại không đồng, hay việc yêu cầu cổ đông phải ủy quyền không hủy ngang tất cả các cổ phần cho Ngân hàng Nhà nước."
"Có thể nói hai quyết định trước đây của Ngân hàng Nhà nước nằm ngoài khía cạnh luật pháp để lại hậu quả là hàng nghìn cán bộ, nhân viên ngân hàng thương mại phải đứng trước vành móng ngựa và ít nhiều góp phần làm quá tải nhà tù hiện nay."
"Và đây có thể nói là một bài học đắt giá trong việc điều hành chính sách, nhưng về lâu dài, Luật Các tổ chức tín dụng cần sửa đổi theo hướng đặt vị trí Ngân hàng Nhà nước độc lập với cơ quan hành pháp, nghĩa là thống đốc trực thuộc Quốc hội và không bị chi phối bởi việc điều hành kinh tế của Chính phủ."
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các Tổ chức tín dụng được Quốc hội Việt Nam thông qua hồi tháng 11/2017.
Luật này chính thức có hiệu lực thi hành kể từ 15/01/2018.
No comments:
Post a Comment