Thursday, February 26, 2015

Trung Quốc 'hòa dịu nguy hiểm' trong tranh chấp biển đảo

TRUNG QUỐC - Sự thay đổi thái độ hiên nay của Trung Quốc trong vấn đề tranh chấp biển đảo chỉ nhằm thích ứng với tình thế, mục tiêu cuối cùng  của họ vẫn là bành trướng trên toàn khu vực Tây Thái Bình Dương.


Các tàu hải tuần Trung Quốc ngăn chặn một tàu cảnh sát biển Việt Nam đi đến gần giàn khoan HD-981 (bên phải phía xa). Vụ đối đầu kéo dài hai tháng năm ngoái  năm nay tạm thời chưa thấy tái diễn. (Hình: Hoàng Dinh Nam / AFP / Getty Images)

Khởi đầu từ 2012, đến nay Trung Quốc đang đẩy nhanh việc nạo vét đáy biển để xây dựng đảo nhân tạo trên các rạn san hô, mỏm đá. bãi ngầm mà họ đã cưỡng chiếm của Việt Nam và Philippines ở vùng quần đảo Trường Sa. Trên căn bản, khoan đào hay nạo vét chẳng có ý nghĩa khác nhau bao nhiêu trong sự xác định chủ quyền. Nhưng việc xây dưng căn cứ ở các bãi đá không gây ra đối đầu căng thẳng như khi việc giàn khoan nước sâu HD-981 hoạt động trong hai tháng năm ngoái tại khu vực đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam.

Trên biển Hoa Đông, số các vụ tàu Trung Quốc xâm nhập vùng biển quần đảo Sinkaku/Điếu Ngư thuộc Nhật Bản cũng đã giảm từ 28 lần tháng 8 năm 2013 xuống chỉ còn 6 lần tháng 6 năm 2014. Theo nhận định của ông Yanmei Xie thuộc International Crisis Group: “Sự giảm thiểu có thể dễ hiểu là để tránh rủi ro đụng độ với Nhật Bản. Tuy nhiên Trung Quốc đã có thể mặc nhiên xác định một thực trạng rằng có sự trùng lấp trên vùng biển này và Nhật Bản không là nước duy nhất có quyền tuần tiễu khu vực quần đảo.”

Sau những cuộc tiếp xúc bên lề hội nghị APEC tháng 11 năm ngoái ở Bắc Kinh giữa chủ tịch Trung Quốc, tổng thống Hoa Kỳ và thủ tướng Nhật Bản, tình hình biển Đông Nam Á cũng như Hoa Đông có vẻ đi đến một giai đoạn lắng dịu. Trung Quốc dường như ý thức được rằng thái độ hung hăng gặp nhiều bất lợi về mặt ngoại giao và nay họ muốn tiếp tục đi đến mục tiêu bằng đường lối cố hữu là lấn từng phần nhỏ trong một thời gian lâu dài.

Đường lối hòa dịu này thể hiện rõ qua việc Cơ Quan An Ninh Hàng Hải Trung Quốc đầu năm nay thông báo cho Việt Nam biết là giàn khoan HD-981 sẽ đi ngang EEZ Việt Nam để đến Singapore. Theo luật hàng hải, EEZ là hải phận quốc tế tàu bè mọi nước đều có quyền đi qua, thông báo minh bạch như vậy không phải là cần thiết và trái ngược hẳn sự vi phạm khoan dò trong EEZ năm ngoái gần Hoàng Sa.

Theo cơ quan phân tích quân sự tư nhân IHS Jane, trong vòng 9 tháng gần đây, Trung Quốc đã nạo vét đáy biển và tạo ra một đảo nhân tạo 63 hectares ở bãi đá Tư Nghĩa (Hughes Reef) cùng nhiều đảo nhân tạo khác trong quần đảo Trường Sa.

Nhiều giải thích khác nhau về mục đích của Trung Quốc trong việc làm này.

Các quan sát viên tin rằng ý đồ đầu tiên của Trung Quốc có liên quan đến mục tiêu quân sự. Bãi đá Tư Nghĩa được cải tạo thành một pháo đài nổi, có bãi đáp cho máy bay trực thăng, cầu cảng cho chiến hạm neo đậu và hữu dụng cho các chiến dịch săn chống tàu ngầm. Trên bãi đá Vành Khăn còn có phi đạo cho máy bay cánh thẳng và căn cứ đặt hỏa tiễn phòng không. Theo Peter Dutton, giám đốc Viện Nghiên Cứu Trung Quốc thuộc USNW thì với những căn cứ này Bắc Kinh có thể muốn thực hiện tham vọng thiết lập một vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) trên vùng Biển Đông.

Cựu cố vấn an ninh quốc gia Philippines, ông Roilo Golez, mô tả mỗi đảo nhân tạo này là một “hàng không mẫu hạm không thể đánh chìm.” Tuy vậy, nhận định này hơi quá đáng, bởi lẽ ở một vùng biển xa xôi hẻo lánh và trên một diện tích nhỏ bé, các căn cứ quân sự ấy không thể phòng thủ nếu xảy ra chiến tranh lớn. Vả lại nằm cách xa lục địa Trung Quốc trên 600 dặm, vấn đề tiếp liệu cho những căn cứ này rất phức tạp. Công dụng thực tế của các đảo nhân tạo này chỉ là trạm tiếp tế cho các tàu hải tuần và hải giám, những đội tàu đánh cá và khai thác hải sản.

Như vậy, nỗ lực chính trong việc tạo lập những đảo nhân tạo này có lẽ có một ý nghĩa khác. Các chuyên viên thuộc Trung Tâm Nghiên Cứu Chiến Lược và Quốc Tế đặt giả thuyết là Bắc Kinh đang tìm cách phủ nhận thách thức pháp lý mà Philippines nêu ra trong vụ kiện tại Tòa Án Trọng Tài The Hague, bằng cách xác định hiện diện thực tế của Trung Quốc ở vùng biển Trường Sa. Hành động này sẽ “gây nhiễu loạn” các bằng chứng mà tòa án có thể dùng làm căn cứ để phán định, bởi vì “vấn đề sẽ trở nên nan giải một khi các thực thể bị biến đổi vĩnh viễn,” chuyên viên Gregory Poling giải thích.

Về mặt công pháp quốc tế, chủ quyền trên biển căn cứ theo Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển UNCLOS. Nhưng UNCLOS  không đề ra vấn đề xác định chủ quyền hải đảo như thế nào mà chỉ quy định các quốc gia nên qua những thủ tục gì để giải quyết tranh chấp chủ quyền hải đảo.

Luật căn bản về vùng biển là “Đất xác định chủ quyền vùng biển chứ không phải ngược lại,” như vậy vùng biển trong Đường Lưỡi Bò do Trung Quốc tự đặt ra, vốn đã là trái phép, không xác định được chủ quyền của họ đối với những hải đảo trên Biển Đông.

Vùng biển gồm lãnh hải 12 hải lý và EEZ 200 hải lý, tính từ bờ biển. Lãnh hải thuộc chủ quyền của một quốc gia và các nước khác không được xâm phạm. Nhưng EEZ không hoàn toàn như vậy, tất cả mọi quốc gia đều có quyền tự do lưu thông hàng hải và bay qua không phận EEZ.

Đảo được định nghĩa là một thực thể thiên nhiên bao quanh bởi biển, không có giới hạn về diện tích lớn nhỏ, nếu có thể đủ điều kiện cho người cư trú với sinh hoạt thường xuyên thì cũng có lãnh hải và EEZ như đất liền. Nhưng những bãi đá chìm dưới mặt nước khi thủy triều dâng cao thì không được coi là đảo, kể cả trường hợp được cải biến thành đảo nhân tạo.

Về mặt pháp lý, các đảo nhân tạo mà Trung Quốc xây dựng ở Trường Sa không có giá trị để xác định chủ quyền về mặt pháp lý, cũng không xác định được chủ quyền vùng biển. Nhưng phán quyết về chuyện này sẽ rất lâu dài và không đủ giá trị cưỡng chế. Như nhiều trường hợp khác trong thực tế, lý thuộc về kẻ mạnh và nếu bên mạnh không tuân hành sự phân xử, dù là của tòa án quốc tế, thì bên yếu cũng phải đành chịu.

Trong chuyện tranh chấp ở Trường Sa, không chỉ riêng Trung Quốc mà Đài Loan và Việt Nam cũng cố gắng xây dựng những căn cứ, nhưng sử dụng được những căn cứ này vào mục đích gì thì mỗi bên có khả năng khác nhau. Người ta tin rằng Trung Quốc muốn bằng những đảo nhân tạo xác định sự hiện diện của họ và nới rộng thêm là tính cách hợp lý trên thực tế của Đường Lưỡi Bò mà họ tự tuyên bố.

Việt Nam và các quốc gia khác trong vùng Biển Đông không có một phương cách gì hiệu quả để đối phó với ý đồ của Trung Quốc, mà phải vận dụng phối hợp nhiều  khả năng, từ ngoại giao, chính trị, pháp lý đến quân sự. Việt Nam có thể tranh cãi về lý, viện dẫn những bằng cớ lịch sử dù chắc chắn là sẽ không thể dứt điểm, đồng thời hăm dọa có thể kiện trước tòa án quốc tế nhưng nên hiểu là sẽ chỉ có giá trị tinh thần hay nhiều nhất là về mặt chính trị và ngoại giao.

Điểm quan trọng nhất là Việt Nam phải ngăn chặn không để cho Trung Quốc chiếm thêm một khu vực nào như toàn thể Hoàng Sa năm 1974 hoặc một vài đảo Trường Sa năm 1988. Để làm được điều này Việt Nam cần có lực lượng đủ sức tự vệ với một cuộc đụng độ tương đối nhỏ trong thời gian ngắn để quốc tế có điều kiện kịp lên tiếng bênh vực. Sẽ không thể có trường hợp Hoa Kỳ, Ấn Độ, Nga, Liên Âu hay bất cứ một quốc gia nào trực tiếp can thiệp nếu như chưa xảy chiến tranh giữa những nước đó với Trung Quốc.

Tranh chấp ở Biển Đông là vấn đề sẽ còn lâu dài và đừng quên rằng thực tế tất cả các bên cho đến bây giờ đều theo một đường lối là nói và làm khác nhau. Việt Nam và Philippines tố cáo Trung Quốc đơn phương nghiên cứu Biển Đông, theo tin của Tân Hoa Xã, trái Nguyên Tắc Ứng Xử chung đã thỏa thuận năm 1992 và kế tiếp. Trong khi đó Pan Pacific Petroleum, Australia, cho biết đã hoàn thành nghiên cứu cùng thăm dò địa chấn ở lô 121 ngoài khơi Việt Nam và sẽ có thể quyết định việc khoan đào khai thác cuối năm nay. ExxonMobil khởi sự khoan một giếng thẩm định tại mỏ khí đốt Cá Voi Xanh vùng nước sâu ngoài khơi Phú Khánh. (HC)

No comments:

Post a Comment