Lê Trung Tĩnh Quỹ Nghiên cứu Biển Đông
08:58 GMT - thứ ba, 6 tháng 5, 2014
Sự kiện Trung Quốc đưa giàn khoan HD 981 vào vùng gần Hoàng Sa và ngay trong EEZ Việt Nam cho thấy tham vọng của nước này trong việc dùng Hoàng Sa làm bàn đạp, kết hợp với yêu sách đường chữ U để không chỉ chiếm đảo, mà còn tham vọng áp đặt quyền chủ quyền lên các vùng biển quanh Hoàng Sa của Việt Nam.
Hành động này nối tiếp việc bắt giữ, xua đuổi, đối xử vô nhân đạo với ngư dân Việt Nam hoạt động trong ngư trường truyền thống hàng trăm năm nay ở quần đảo Hoàng Sa.
Tuy nhiên về trung và dài hạn, Việt Nam cần chính thức yêu cầu Trung Quốc đưa tranh chấp Hoàng Sa ra phân xử bởi một cơ quan trọng tài quốc tế. Rõ ràng việc giải quyết tranh chấp bằng con đường đàm phán song phương như lâu nay không mang lại kết quả, vì Trung Quốc không chấp nhận có tranh chấp trên quần đảo này. Nếu để lâu hiện trạng như vậy sẽ càng ngày bất lợi cho Việt Nam và các hành động như trên sẽ càng ngày càng lặp lại.Để đối phó, dĩ nhiên Việt Nam cần các phản ứng tức thì như phản đối ngoại giao và trên thực địa.
Một câu hỏi quan trọng mà chúng ta cần phải trả lời là : Trung Quốc sẽ trả đũa về kinh tế như thế nào nếu Việt Nam thách Trung Quốc ra trọng tài quốc tế về vấn đề Hoàng Sa?
Các trả đũa tức thì và ngắn hạn
Ngay sau khi Việt Nam tuyên bố yêu cầu Trung Quốc ra tòa về Hoàng Sa, có thể Trung Quốc sẽ có các trả đũa tức thì và ngắn hạn như việc ngưng nhập một số sản phẩm nào đó trong một khoảng thời gian.
Một ví dụ tiêu biểu cho kiểu phản ứng này là trả đũa của Trung Quốc khi có căng thẳng giữa hai nước này và Philippines trong vòng hai tháng trên vùng biển quanh Scarbourough Shoal.
Vào đỉnh điểm của căng thẳng, tức giữa tháng 5/2012 và sau ngày bắt đầu căng thẳng một tháng, Trung Quốc tuyên bố ngưng nhập 1.200 containers trái cây của Philippines, đang đậu ở các cảng. Đồng thời Trung Quốc cũng khuyến cáo ngừng du lịch vào Philippines. Việc này đã gây một số khó khăn cho nông dân Philippines và chính quyền tổng thống Philippines.
Tuy nhiên một điều thú vị là suốt thời gian căng thẳng này, mức độ ủng hộ của người dân và các đảng phái chính trị đối với tổng thống Philippines đã lên cao.
Toàn nước Philippines như đoàn kết lại một khối sau Tổng thống Aquino. Sau sự kiện này Philippines đã đệ đơn thưa Trung Quốc ra trọng tài lập bởi Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển.
Các trả đũa kiểu như trên là các điều mà Việt Nam từ chính phủ đến người dân phải chuẩn bị.
Lịch sử sống bên cạnh láng giềng phương Bắc có lẽ cũng làm người dân Việt Nam quen thuộc và có cách phản ứng tương ứng với các kiểu cách trả đũa hay hành xử tương tự từ Trung Quốc : mua móng trâu, ốc bươu vàng, bán hàng rẻ va kém chất lượng, thỉnh thoảng ách hàng tại biên giới…
Những đặc điểm bình thường là hạn chế của nền sản xuất công, nông nghiệp Việt Nam như nhỏ lẻ, hay xáo động, lại phần nào trở nên tích cực trong "thời chiến", ví dụ như có khả năng thích ứng cao và tự điều chỉnh linh hoạt trong nhiều tình huống khó khăn. Và cũng như Philippines, người dân Việt Nam, một khi được đặt trước vấn đề chủ quyền dân tộc thường có phản ứng kiên cường và chấp nhận hy sinh. Vấn đề là chính phủ phải phản ứng rõ ràng, minh bạch và tạo được niềm tin trong dân chúng.
Dài hạn và vĩ mô
Trung Quốc có thể tác động lên giao dịch thương mại, làm ngưng trệ giao thương, hợp tác, đầu tư giữa hai nước. Điều này trong ngắn hạn sẽ làm ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân Việt Nam. Tuy nhiên về trung hạn và dài hạn, các trả đũa này nếu kéo dài sẽ là liều thuốc quý để Việt Nam giải quyết dứt điểm các vấn đề, các điểm yếu trong mối quan hệ kinh tế với Trung Quốc.
Thứ nhất, hiện nay Việt Nam đang là nước nhập siêu đối với Trung Quốc, giá trị nhập khẩu gấp khoảng 2 - 3 lần giá trị xuất khẩu và không có dấu hiệu thu hẹp. Các trả đũa về thương mại dưới bất cứ hình thức nào của Trung Quốc, nếu có, cũng chỉ có thể làm Việt Nam nhập khẩu ít đi từ Trung Quốc, thương mại hai nước sẽ đi đến cân bằng hơn.
Thứ nhì, các mặt hàng Việt Nam nhập từ Trung Quốc có nhiều hàng nông sản, 40% là các hàng hóa cơ bản, thâm dụng tài nguyên và công nghệ thấp. Căng thẳng thương mại với Trung Quốc sẽ buộc Việt Nam quay về với các sản phẩm nông sản và cơ bản và của chính mình.
Việt Nam hơn bao giờ hết cần sớm đưa vấn đề ra ánh sáng, ra công lý quốc tế, bằng cách chính thức yêu cầu Trung Quốc đưa tranh chấp Hoàng Sa ra xử lý bởi một trọng tài quốc tế. "Ngoài ra việc Việt Nam phải nhập các sản phẩm như sắt thép, máy móc thiết bị từ Trung Quốc một phần lớn là do các nhà thầu EPC Trung Quốc hay các dự án FDI từ Trung Quốc không tuân thủ các chỉ tiêu sử dụng sản phẩm và nhà thầu Việt Nam. Việt Nam hoàn toàn có thể cái thiện và giảm thiểu nhập khẩu từ Trung Quốc các dạng sản phẩm này nếu quản lý nghiêm chỉnh các dự án FDI, các việc chấm thầu EPC.
Thứ ba, do đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam không nhiều, chiếm tỷ trọng FDI nhỏ so với các nước khác như Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc, trong trường hợp Việt Nam kiện Trung Quốc ra tòa, thì việc Trung Quốc (nếu có) cắt giảm các nguồn đầu tư cũng không thể tạo thành một sức ép đối với kinh tế Việt Nam.
Tuy đem đến Việt Nam không nhiều ngoại tệ, Trung Quốc lại có mức độ hưởng lợi cao hơn rất đáng kể so với các quốc gia khác. Các dự án FDI từ Trung Quốc thường đưa nhân công Trung Quốc tràn lan thành cả làng, cả phố Trung Quốc ngay trên lãnh thổ Việt Nam. Các công ty Trung Quốc lại kéo theo những máy móc thiết bị công nghệ cũ, lạc hậu sang làm việc.
"Căng thẳng" kinh tế nếu có với Trung Quốc sẽ buộc Việt Nam xử lý dứt điểm các vấn đề này, và đó là một điều tốt.
Trung Quốc là đối tác thương mại quan trọng của Việt Nam, nhưng không phải là đối tác thương mại duy nhất, và khó có thể là một đối tác tốt, ổn định, bình đẳng và tuân thủ các giá trị công bằng, bảo vệ môi trường, ít nhất nếu tình hình tiếp tục diễn tiến như hiện nay.
Việc Trung Quốc trả đũa kinh tế nếu Việt Nam yêu cầu họ ra tòa sẽ cho thấy nước này nhặp nhằng giữa kinh tế và chính trị, và đó là cơ hội để Việt Nam hướng đến những bạn hàng bình đẳng hơn, với cán cân thương mại thăng bằng hơn cho Việt Nam, ví dụ như Hoa Kỳ và EU, và giảm sự phụ thuộc về kinh tế của Việt Nam vào Trung Quốc.
Khả năng Trung Quốc trả đũa kinh tế trong dài hạn
Khác với căng thẳng Philippines và Trung Quốc diễn ra trong vòng hai tháng, việc Việt Nam đưa Trung Quốc ra tòa là một việc có thể diễn ra khá dài, vài tháng thậm chí vài năm.
Trong trường hợp đó, phản ứng của Trung Quốc sau khi Philippines kiện Trung Quốc trước Tòa Trọng tài Luật Biển là một ví dụ cần xem xét. Điểm thú vị đáng lưu ý là từ khi Philippines đệ đơn kiện vào tháng 1 năm 2013 đến nay, hầu như chúng ta không ghi nhận được một trả đũa kinh tế rõ ràng nào của Trung Quốc đối với Philippines. Khác hẳn với trường hợp căng thẳng trong hai tháng trên Scarborough Shoal.
Một ví dụ khác là phản ứng của Trung Quốc sau khi Việt Nam thông qua Luật Biển vào ngày 21/6/2012. Theo Carl Thayer, Trung Quốc đã biết về việc Việt Nam soạn thảo Luật Biển và đã nhiều lần can thiệp đề nghị Việt Nam dừng lại. Tuy nhiên, sau khi Việt Nam thông qua Luật Biển, gần như không có một động thái trả đũa kinh tế rõ ràng nào của Trung Quốc được ghi nhận.
Các ví dụ trên cho thấy Trung Quốc không dễ dàng, hoặc không thể sẵn sàng sử dụng các biện pháp trả đũa kinh tế.
Các mối quan hệ kinh tế, thương mại giữa các quốc gia và giữa quốc gia và các tổ chức kinh tế ngày càng gắn kết, chặt chẽ, và đòi hỏi một sự ổn định, hợp lý, và nhất quán trong cư xử. Nhất là Trung Quốc hiện giờ đang là nước với kim ngạch thương mại đứng đầu thế giới, một động thái nào của họ cũng đều được theo dõi và chỉ trích nếu quá đáng và kéo dài.
Đó là lý do Trung Quốc thường chọn cách tiếp cận gây sức ép chính trị ngấm ngầm, và cố gắng giữ sự việc trong tầm mơ hồ, xử lý nội bộ với nhau, trong khi đó vẫn tiếp tục các hành động lấn tới : chiếm đóng đảo, xua đuổi ngư dân, và đưa giàn khoan dầu vào thềm lục địa Việt Nam.
Hiểu được điều này, Việt Nam hơn bao giờ hết cần sớm đưa vấn đề ra ánh sáng, ra công lý quốc tế, bằng cách chính thức yêu cầu Trung Quốc đưa tranh chấp Hoàng Sa ra xử lý bởi một trọng tài quốc tế. Vì chủ quyền của quần đảo Hoàng Sa, vùng biển quanh đó, và vì tương lai của đất nước.
Bài phản ánh quan điểm riêng và văn phong của tác giả, thành viên Quỹ Nghiên cứu Biển Đông.
No comments:
Post a Comment