Friday, March 2, 2018

Các lực lượng lãnh thổ (diện địa)

VNCH- Ngọc Trương (Danlambao) trích dịch - Phần tiếp theo của bài diễn thuyết do Tiến sĩ Lewis Sorley trình bày tại Vietnam Center, Đại học Texas Tech, Lubbock, Texas.

Sau cuộc tấn công Tết 1968, thay đổi Tư lịnh lực lượng Mỹ, tướng Creighton Abrams thay tướng Westmoreland, chuyển mục tiêu với quan điểm khác nhiều về bản chất và cách hành xử cuộc chiến.

Tướng Abrams nhấn mạnh "một cuộc chiến" gồm hành quân, bình định và gia tăng khả năng của quân đội Việt Nam. Hai yếu tố sau đã từng bị bỏ quên, nay được coi quan trọng và cũng ưu tiên như các cuộc hành quân.

Các hoạt động quân sự cũng có thay đổi lớn. Thay vì "tìm và diệt" giờ đây "quét và giữ", khi địch quân bị đẩy ra khỏi khu vực đông dân, các lực lượng đồng minh ở lại, đóng quân thường xuyên tại đó, không bỏ đi, không để địch quân tái chiếm vào một ngày khác. Có lẽ là sự phát triển quan trọng nhất của toàn bộ cuộc chiến, là sự bành trướng to lớn của Lực lượng diện địa của Nam Việt Nam.

Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh gọi "mở rộng và nâng cấp lực lượng Địa phương quân và Nghĩa quân (ĐPQ/NQ) là đóng góp quan trọng và nổi bật nhất của Hoa Kỳ" trong cuộc chiến.

Trung tướng Ngô Quang Trưởng lưu ý rằng những thành tựu trong việc bình định xã, ấp, gia tăng dân số sống trong vùng chính phủ kiểm soát, hay lưu thông đều hòa trên các trục lộ giao thông là công trạng chưa bao giờ được ca ngợi của ĐPQ/NQ.


Khi Tướng Abrams đến Việt Nam vào tháng 5 năm 1967, quân đội Nam Việt Nam gồm có Lục quân, Hải quân, Thủy quân lục chiến và các đơn vị Không quân. Lực lượng diện địa tách biệt và xa rời gồm ĐPQ và Nghĩa quân. Hai lực lượng nầy đảm trách an ninh địa phương, ĐPQ dưới quyền Tỉnh trường, Nghĩa quân dưới quyền Quận trưởng.

ĐPQ/NQ vẫn ở tại địa phương, đóng vai trò "giữ đất" trong chiến dịch "quét và giữ". Đến năm 1970, quân số ĐPQ/NQ tăng lên khoảng 550.000, và được sáp nhập vào quân đội chính-quy, chiếm hơn phân nửa sức mạnh toàn quận. 

Thật ngẫu nhiên, vừa qua Bing West và một khách mời tham gia "Giờ tin tức với Jim Lehrer" của truyền hình PBS để nói về hiện hình ở Irac. 

Một trong số họ đã trích dẫn "khái niệm" quét sạch và giữ "của Condeleeza Rice." 

Nếu ai quan tâm đến nguồn gốc của khái niệm đó, sẽ đi thẳng một đường từ ĐPQ/NQ ở Nam Việt Nam tới tướng Creighton Abrams tới tướng Harold K. Johnson và Nghiên cứu của PROVN, tới Đại tá Jasper Wilson.

William Colby, sớm được bổ nhiệm từ tháng 10 năm 1968, làm phó cho tướng Abrams đặc trách yểm trợ bình định, giải thích tầm quan trọng của các yếu tố: 

"Về an ninh lãnh thổ, trọng tâm chính là cải tiến ĐPQ/NQ, chiếm gần phân nửa quân đội bây giờ"

"Chúng tôi bắt đầu từ tháng 10 năm trước. Trong cuộc hội thảo tướng Abrams, xác định ba mươi bước cần thực hiện, bao gồm việc phái các nhóm cố vấn làm việc cạnh các đại đội ĐPQ và các trung đội Nghĩa quân. Chúng ta có khoảng 250 nhóm năm người rải rác khắp các vùng lãnh thổ. "

Ba tháng sau, Colby chú ý thấy việc huấn luyện gia tăng nhanh và ĐPQ/NQ được cung cấp võ khí tân tiến. 

“So với một năm trước đây, có thêm khoảng 91.000 quân" . 

Khoảng 100.000 quân có M16. Ba trăm năm mươi nhóm cố vấn sống và làm việc cạnh ĐPQ/NQ.

Huy hiệu Địa phương quân (trên nón beret xanh dương)

Ngày sau khi nắm quyền chỉ huy, tướng Abrams đã đưa khẩu súng trường mới thẳng tới các đơn vị này. Tháng 8 năm 1969, ông nói ĐPQ/NQ, được ưu tiên trước nhất. "Họ nhận súng M16 đầu tiên, trước cả QLVNCH. Họ được ưu tiên hàng đầu trong hơn một năm". 

“Tôi xin nói thẳng, giống như mọi thứ khác, bạn bỏ tiền vào quỹ tiết kiệm quân đội, bạn sẽ nhận 10% [tiền lãi] và cứ như thế. 

Chúng tôi đầu tư vào ĐPQ/NQ, ưu tiên phải là ở đây, trên cả các đơn vị khác trong nước!”

Khi ĐPQ/NQ được nâng cao về khả năng và hiệu năng- Abrams muốn thấy họ đạt uy tín cho công việc đang hoàn thành.

Ông nói tại WIEU: "Tôi lấy làm bực bội, khi tóm lược tình hình cho quan khách biết, vai trò ĐPQ/NQ bị nhận chìm.

Có khuynh hướng nói về QLVNCH, và trong một lúc nào đó ĐPQ/NQ chịu những tổn thất nặng nề so với thiệt hại của địch quân, và cho đó là nghiêm trọng. Nhưng nếu đề cập đến an ninh của dân chúng, phần to tát của mọi việc, đây mới thực sự là điều quan trọng.

Cùng khoảng thời gian đó, Abrams cũng ca ngợi thành quả tốt của các đơn vị này:

"Tôi không biết liệu tôi thực sự muốn thêm súng cho các đại đội của QLVNCH không. Nếu có nhân lực, tôi nghĩ rằng đầu tư vào ĐPQ/NQ sẽ có giá trị hay hơn."


Vào cuối năm 1969, tướng Abrams nhìn một biểu đồ cho thấy "chiều hướng việc xảy ra trong ba hay bốn tháng qua - xem đơn vị nào đóng góp về: tịch thu võ khí – KIA (killed in action), nói rằng: 

"Kết quả rất tốt về số địch quân bị giết, võ khi bị tịch thu, hầm võ khí bí mật bị tiêu hủy, phần của QLVNCH chính quy không thay đổi, ở mức: 26 phần trăm, 27 phần trăm. 

Tỷ lệ của Lực lượng Hoa Kỳ và Thế giới tự do giảm xuống vì bị ĐPQ/NQ đoạt phần kể từ tháng 8".

Có người nói: "Đó là bản chất của chiến tranh."

Abrams: "Vâng, đúng vậy. Tôi luôn luôn tự hỏi chúng ta sẽ đạt được cái thứ quỷ quái gì khi đổ vào 300.000 khẩu súng M16? 

Đúng, kết quả bắt đầu hiện ra rồi. "

ĐPQ/NQ giữ chặt lấy những thứ võ khí đó. Như Bill Colby đã chỉ ra vào tháng 7 năm 1970, hệ số tịch thu/thất thoát võ khí của ĐPQ/NQ là khoảng ba võ khí của đối phương bị tịch thu đổi lấy một võ khí bị mất; cách đây năm năm, hệ số đó ngược lại với hiện nay.

Bình luận của Abrams: 

"Lực lượng ĐPQ/NQ?" 

"Ah, những con thỏ này đang tiến rất tốt".

Và cuối cùng, trong một buổi thuyết trình trước các chỉ huy trưởng vào tháng 10 năm 1971, ông nói thêm: 

"Từ lâu lắm rồi, một trong những điều ĐPQ/NQ đã làm là gánh lấy trọng trách của cuộc chiến".

Các sĩ quan cao cấp của Việt Nam cũng đồng ý, Trung tướng Ngô Quang Trưởng cho biết: 

"Dần dần, hình dáng, tác phong, thành công trong tác chiến của ĐPQ/NQ đã đào thải gốc gác bán quân sự, để trọn vẹn trở thành người lính đúng nghĩa.

Tướng Trưởng kết luận: "Trong suốt thời kỳ chính của cuộc xung đột ở Việt Nam, ĐPQ/NQ xứng đáng được coi là trụ cột của guồng máy chiến tranh."

Mở rộng quân số, trang bị tốt hơn, được huấn luyện đầy đủ hơn, lực lượng ĐPQ/NQ tự mình đứng độc lập, đạt sự kính trọng của nhà phê bình khó tánh, thậm chí Trung Tướng Julian Ewell phải ngưỡng mộ:

"Họ là lực lượng sắc bén trong chiến tranh,"

Phần đã đăng:


2018.02.27


____________________________________

Chú thích của người dịch:

- Nguyễn Duy Hinh: Thiếu tướng, Tư lịnh Sư đoàn 3 Bộ binh VNCH, đóng tại Đà Nẵng.

- Ngô Quang Trưởng: Trung tướng, Tư lịnh Quân đoàn I - Huế/ Đà Nẵng.

- Bing West: cựu Phụ tá Bộ Trưởng Quốc Phòng, sĩ quan TQLC Mỹ khi tham chiến ở Việt Nam.

- WIEU: Bảng lượng định tình hình tình báo hàng tuần của quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam

- William Colby: Trưởng trạm tình báo CIA tại Việt Nam 1968.

- Condeleeza Rice: Ngoại trưởng Hoa Kỳ hai nhiệm kỳ thời Tổng thống George W. Bush.

- Julian Ewell: Thiếu tướng, Tư lịnh Sư đoàn 9 Bộ binh Hoa kỳ tại Việt Nam. Sau lên Trung tướng làm Tư lịnh Lực lượng dã chiến II của Hoa kỳ quanh vùng Sài gòn, phối hợp với Quân đoàn III VNCH hành quân sang Cambodia.

Tham khảo:


No comments:

Post a Comment