Monday, October 31, 2016

Hãy để sự thật chiến thắng

Yên Tánh (Danlambao) - Có những điều cần phải được nhắc đi nhắc lại nhiều lần bởi trí óc con người dễ quên. Và cho dù con người có muốn nhớ, cuộc sống luôn mang đến những lo toan, bận bịu làm xao lãng điều mong muốn đó, việc nhắc nhở vì thế là một điều cần thiết. Lịch sử của một dân tộc cũng có những nét tương tự như thăng trầm, thịnh suy, vẻ vang, ô nhục, may mắn, bất hạnh,… đất nước là chứng tích của một cuộc đời đã được sống bởi cha ông thuở trước, hôm nay bởi thế hệ đương thời và mai sau bởi lớp hậu duệ. Cái sinh mệnh đó tuy to lớn hơn cuộc sống của mỗi cá nhân của dân tộc rất nhiều nhưng...
Chúng ta không thể thay đổi được lịch sử của quá khứ vì không ai có khả năng trở về với quá khứ để sống, nhưng chúng ta có thể học hỏi nhiều từ lịch sử của quá khứ để rút ra những bài học quí giá giúp chúng ta phần nào đó trong việc cố gắng sống tốt ngày hôm nay, để rồi trao lại cho thế hế mai sau di sản của những điều tốt đẹp nhất mà chúng ta có thể làm cho đất nước và dân tộc.
Để làm tròn được sứ mạng đề cập ở trên, thiết tưởng lịch sử cần phải được bảo vệ tính chất khách quan và chân thật của nó. Con người chỉ có thể học được từ sự thật chứ chẳng bao giờ từ sự giả trá. Những điều mù mờ, khuất tất cần được làm sáng tỏ, những điều hoang tưởng, bịa đặt, thêu dệt cần được loại bỏ và những điều bị che dấu cần phải được phục hồi bởi ánh sáng của sự thật.
Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử của bốn ngàn năm dựng và giữ nước mà trong đó thời gian chiến đấu để giữ gìn và giành lại bờ cõi từ tay ngoại bang dài hơn thời gian xây dựng và phát triển đất nước, dân tộc. Đó không phải là lịch sử của một nền văn minh sáng chói với những triết lý sâu xa, nền học thuật uyên bác, chiến thắng lẫy lừng này đến chiến thắng lẫy lừng khác trong việc bình để thu thiên hạ về một mối mà dấu tích là những tàng thư đồ sộ, những viện bảo tàng văn hóa, nghệ thuật, lịch sử to lớn, những cung điện, thành quách nguy nga, tráng lệ, những kinh thành tràn đầy ánh sáng hay những khải hoàn môn uy nghi, lẫm liệt. 
Thế nhưng lịch sử của dân tộc Việt Nam lại là lịch sử hào hùng của một dân tộc không bao giờ khuất phục kẻ thù xâm lược dù chúng có mạnh đến thế nào hay quỉ quyệt đến đâu. Là người Việt Nam, ai lại không thấy hãnh diện về sự đấu tranh bền bỉ của cha ông từ thế hệ này sang thế hệ khác để giữ vững và truyền lại con cháu ngày hôm nay một đất nước xinh đẹp với bao tiềm năng chất chứa.
Những Hùng Vương, Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Trần Bình Trọng, Lê Lợi, Quang Trung và vô số những anh hùng có tên và không tên khác đã làm vẻ vang cổ sử Việt thì tên tuổi cua những anh hùng thờ đại mới như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học, Phạm Hồng Thái, Hoàng Hoa Thám, Cô Giang, Cô Bắc,… cũng làm đẹp thêm những trang sử theo sau.
Đề cao công trạng của những anh hùng, bậc hiền tài của đất nước trong sử nước nhà là một việc tất phải làm, việc vinh danh những vị ấy hàng năm cũng không kém phần quan trọng vì nó giúp cho giới hậu sinh chẳng những không quên được những đóng góp của tổ tiên mà còn học được từ họ tinh thần tranh đấu, lòng yêu nước và sự tận tụy với đồng bào. Việc tưởng niệm hàng năm là một việc nhắc nhở để những điều phải nhớ đừng bị lãng quên.
Ngày 2 tháng 11 hàng năm là ngày đánh dấu sự ra đi của một nhân vật lịch sử cận đại, Tổng Thống Ngô Đình Diệm, người thương mến thì coi ông như một bậc hiền tài có công xây dựng và bảo vệ nền độc lập đất nước cũng như đem an bình và no ấm cho người dân. Ngược lại, kẻ ghét bỏ ông thì cho ông là tay sai ngoại bang, bán nước hại dân. Thế thì vịn vào đâu để biết ông thuộc hạng người nào? Điều có thể làm được mà không mấy khó khăn:
Thứ nhất: đánh giá một người dựa trên những việc làm mà người đó thực hiện cùng với những hệ quả của việc thực hiện những việc làm đó.
Thứ hai là đánh giá những kẻ phản diện: những kẻ đối nghịch, phản bội, chống đối ông. Lớp người này có thể kể là Hồ Chí Minh và những kẻ thay thế y sau này, Hoa Kỳ, đám tướng lãnh phản loạn, bọn Việt Cộng đội lốt nhà sư cùng đám quần chúng nông nổi, con mồi bị lợi dụng bởi Cộng Sản. Bởi vì để đánh giá một người, ta có thể tìm hiểu bạn của người ấy là hạng người như thế nào, một cách tương đồng, nếu một người là tốt ắt kẻ thù của người ấy phải là kẻ xấu hay ngược lại.
Kẻ đối nghịch trực tiếp và đáng kể nhất là Hồ Chí Minh, kẻ đã cố gắng chiêu dụ ông về phía mình, sau khi cướp được chính quyền của Thủ Tướng Trần Trọng Kim, nhưng thất bại vì TT Diệm lúc bấy giờ đã không tham chức trọng quyền cao và sáng suốt nhìn rõ chân tướng của ác nhân, kẻ thù tiềm tàng của cả dân tộc. Hồ Chí Minh tham gia Quốc Tế Cộng Sản là để “dẫn năm châu đến đại đồng” chứ không phải mưu tìm thật sự nền độc lập, tự do, hạnh phúc cho toàn dân. Y đã đánh lừa dân Việt để lùa họ vào cái bẫy ma trong đó nhân dân tha hồ bị tiêu diệt, đấu tố, hãm hại, mọi quyền con người mà Tạo Hóa đã ban cho đều bị tước đoạt sạch để con người trở thành một con vật vô lương tri, vô đạo đức, chỉ biết gục đầu làm nô lệ cho kẻ cầm quyền. 
Chính bản thân Hồ Chí Minh là một ví dụ điển hình cho cái con vật đặc biệt đó: không giữ lại một chút tình yêu đất nước, đồng bào, áp dụng những chính sách vô nhân đạo từ Liên Xô, Trung Cộng như kiểm soát quyền tự do cư trú, đi lại, làm việc, học hành cùng các quyền cơ bản con người khác của công dân bằng hộ khẩu, dùng chế độ tem phiếu để giới hạn tối đa mức tiêu thụ các sản phẩm xã hội đi đến điều kiện hóa toàn bộ sinh hoạt của người dân, chính sách lý lịch để dùng những kẻ ngu ngốc, chỉ biết vâng lệnh cấp trên, gạt ra ngoài lề xã hội những người có chính kiến độc lập nhằm loại trừ từ gốc những thành phần đối kháng trong xã hội Cộng Sản, chính sách vô thần nhằm tiêu diệt lương tâm, đạo đức con người, làm cho họ không còn biết ghê sợ, ăn năn khi phạm tội ác tày trời, v.v…
Nếu Hồ Chí Minh thật sự yêu nước, thương dân thì dù ở bất cứ cương vị và tình huống nào, y cũng phải ra sức bảo vệ đất nước khỏi sự tàn phá của chiến tranh, tính mạng người dân khỏi chết chóc do bom đạn. Có nghĩa lý gì khi dùng người Việt giết người Việt? Có phải đó là một cách tự hủy diệt dân tộc Việt không? Nếu y hoàn toàn tự tin với chế độ chính trị mà mình đã chọn là ưu việt thì tự kết quả của nó sẽ là bằng chứng hùng hồn đủ sức thu phục nhân tâm một nửa miền Nam của đất nước. Đâu có cần phải dùng chiến cụ của Liên Xô, Trung Cộng tấn công miền Nam đề bắt miền Nam quy hàng! Cái chiêu bài giải phóng miền Nam chỉ để phục vụ âm mưu bành trướng của Quốc Tế Cộng Sản mà thôi. Hồ Chí Minh đã quá ngu dốt trong nhận thức hay quyền cao chức trọng được ban bố bởi ngoại bang đã làm loà mắt y? Hay cả hai?
Hồ Chí Minh đóng kịch thật tài trong vai trò của vị “cha già dân tộc”, trọn đời độc thân, sống giản dị, thanh bạch để dành thời gian phục vụ dân tộc, đất nước. Nhưng khi những bức màn nhung khép lại, y chỉ còn là kẻ gian manh, xảo quyệt, thủ đoạn, kẻ chịu trách nhiệm những vụ bắt bớ, thủ tiêu những nhân vật yêu nước, con qủy dâm dục đã hại biết bao đời người con gái mà tuổi tác chỉ đáng con cháu y, sẵn sàng giết người chung chăn gối sau khi thỏa mãn thú tính, không nhận trách nhiệm của người cha đối với những đứa con mà mình tạo ra.
Chủ đã thế thì chẳng trách gì bọn một đồng một cốt theo đuôi, đám hầu cận và cái đảng Cộng Sản Việt Nam thối tha do y sinh thành và dưỡng dục. Cũng một phường gian dối, lừa lọc khi đưa ra bất cứ chính sách văn hóa, xã hội, kinh tế, chính trị nào. 
Văn hóa vong thân, phi nhân bản và bế tắc dựa vào học thuyết Marxisme-Leniniste đã làm văn hóa Việt Nam xa rời nguồn cội và không tương thông được với các nền văn hóa tiến bộ trên thế giới. Chủ trương bịp bợm dùng chuyên chính vô sản (bạo lực) để chống lại các thế lực thù địch cho phép nhà cầm quyền ở mọi cấp được tiêu diệt thẳng tay những thành phần chống đối chế độ, con người đối với nhau như kẻ thù, không hề có một sự cảm thông nào. Văn hóa thoát ly nguồn cội tạo một xã hội bát nháo, vô truyền thống, không tôn ti trật tự. Con người dẫm đạp lên nhau mà sống. Vì vong bản nên con người trở nên lai căng với sự thâu nạp một cách hổ lốn các kiểu ứng xử, lối sống phóng túng, thác loạn qua phim ảnh, sách báo. Không còn một chuẩn mực nào để bảo toàn và phát triển văn hóa, xã hội Việt Nam nữa. Người dân bây giờ có thể bị bóc lột ở mọi nơi, mọi lúc như ở bệnh viện trong cảnh thập tử, nhất sinh, ở ngoài đường khi đang lái xe, trong trường học khi muốn có một mảnh bằng, ở ngay mảnh đất tổ tiên nếu có quy hoạch của nhà nước, ở đồn công an với sinh mạng của mình nếu bị quy là phạm lỗi.
Qua bao cuộc cải cách kinh tế dọ dẫm như người mù sờ voi, Đảng Cộng Sản đã dẫn dắt dân tộc này hết lọt hố này, mai lại lọt hố khác, để đến bây giờ lúng túng trong cái hố gọi là kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, một dạng quái thai của kinh tế. Với cách làm kinh tế này, người chỉ cần có chức quyền cao thì không phải làm gì mà bao nhiêu tiền của đầu tư của nhân dân lọt vào tay họ, còn công nhân và nông dân (giai cấp mà họ có lúc phỉnh nịnh gọi là rường cột của chế độ) thì người thì không có đủ tiền sống qua ngày, kẻ thì không còn mảnh đất để canh tác. Những chính sách kinh tế của nhà đương quyền không cải thiện đời sống người dân mà còn đem lại những hiểm họa cận kề vì môi sinh bị tàn phá và tài nguyên đất nước bị cạn kiệt. Những vụ tham nhũng Vinashin, Vinalines, Bauxite Tây Nguyên, Formosa là những thảm họa to lớn cho người dân mà nhà cầm quyền Cộng Sản cố làm ngơ như không có gì xảy ra, lại còn ra tay trấn áp những người đi đòi hỏi công bằng, lẽ phải, sự thật.
Về mặt chính trị, nếu có ai nói Việt Nam đã mất vào tay Tàu rồi thì điều đó chẳng sai. 
Nếu không mất vào tay giặc thì cớ gì sau khi khối Đông Âu sụp đổ, bọn lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam lại muối mặt khấu đầu giặc ở Thành Đô. Sau bao năm dài rỉ rả trên các phương tiện thông tin đại chúng “bọn bành trướng Trung Quốc là kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Việt Nam” thì nay ghê thay cho cái lưỡi không xương nhiều đường lắt léo của Đảng, Trung Quốc là người bạn, người đồng chí bốn tốt, tình hữu nghị (hay tình mẫu quốc-thuộc quốc?) được xây trên 16 chữ vàng (!) Cộng Sản có cái tài đổi trắng thay đen, trở mặt như trở bàn tay trong phút chốc khiến cho bọn lường gạt, bất lương chuyên nghiệp cũng phải thẹn thùng!
Nếu không mất nước sao Việt Nam tự nguyện trở thành một tỉnh tự trị của Tàu vào năm 2020 mà ngôi sao thứ năm gắn thêm vào lá cờ Tàu mỗi khi có phái đoàn nước mẹ sang an dân ở phương nam là một minh chứng cho cái tinh thần tự nguyện này?
Nếu không mất nước sao Tàu được phép đi lại tự do trên đất nước Việt Nam không cần giấy phép mà người trong nước và Việt kiều không có quyền đó? Sao Tàu có thể lập các nhà máy, cơ xưởng chỉ sử dụng nhân công Tàu trên khắp miền đất nước từ Nam chí Bắc và người Việt bị cấm vào những nơi đó?
Nếu không mất nước sao Tàu ngang nhiên xây dựng những khu phố riêng của chúng từ Nam chí Bắc mà người Việt nếu héo lánh vào có thể bị ăn đòn?
Nếu không mất nước sao người Việt phải học tiếng Tàu mà Tàu không phải học tiếng Việt trong trao đổi hàng ngày? Sao người Tàu có thể dùng tiền của họ mà không phải tiền Việt trên đất nước Việt Nam?
Nếu không mất nước sao người lính Gạc Ma phải tự động buông súng để nhận thảm sát từ Tàu?
Nếu không mất nước sao các vụ hủy hoại môi trường do Tàu gây ra ở Đồng bằng sông Cửu Long, cao nguyên trung phần, bờ biển miền Trung, các dòng sông khắp nước được nhà cầm quyền Việt Nam giúp tay che giấu và đàn áp kẻ đòi công lý và sự thật?
Nếu không mất nước sao các thuyền cá của ngư dân Việt Nam bị tàu của Tàu đâm chìm nhằm cướp ngư trường truyền thống của ngư dân nói riêng và nguồn lợi Biển Đông nói chung mà nhà cầm quyền Việt Nam không có biện pháp ngăn chận?
Nếu không mất nước sao Cộng Sản Việt Nam phải sang Tàu khấu đầu chờ lệnh mỗi khi bầu bán nhân sự Đảng hay chính quyền, hoặc mỗi khi giao tiếp với các nước trên thế giới?
Tàu không cần chường mặt ra để cai trị dân Việt vì đã có đám thái thú địa phương cun cút tận tụy với công việc này.
Với những gì mà Hồ Chí Minh, những kẻ kế thừa và Đảng Cộng Sản đã làm, rõ ràng là không có gì biện bạch được cho những tội ác tày trời mà chúng đã gây ra cho đất nước và dân tộc Việt Nam.
Ta hãy đánh giá tiếp đối thủ thứ hai của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Hoa Kỳ.
Ngay từ đầu, Tổng thống Diệm đã nhận thấy chỉ có Hoa Kỳ mới có thể là đồng minh của Việt Nam trong giai đoạn sau hiệp định Geneve vì Hoa Kỳ là một cường quốc với đủ sức mạnh cần thiết để chống lại một khối cộng sản quốc tế mạnh mẽ. Điểm chung của Việt Nam và Hoa Kỳ tại thời điểm đó là cả hai cùng có một kẻ thù: cộng sản. Nhưng Tổng thống Diệm luôn luôn duy trì mối quan hệ đó ở mức độ đồng minh, nghiã là có sự tương kính đôi bên, không ai có thể dẫn dắt ai trong chính sách riêng của mỗi nước. Nhưng Hoa Kỳ đã tỏ ra ngạo mạn vì họ ỷ vào tiền của bỏ ra. Do biết không thể nào lay chuyển ý chí sắt đá tự túc, tự cường, không ỷ vào ngoại bang mà nhượng bộ chủ quyền, quyền tự quyết của quốc gia dân tộc, nên Hoa Kỳ đã không sáng suốt trong việc âm mưu đảo chánh và sát hại Tổng thống Diệm và bào đệ là ông Ngô Đình Nhu. Kết quả là chính sách chống cộng của Hoa Ky đi vào bế tắc. Bên cạnh việc phô bày bộ mặt phản bội, gian trá ra cho thế giới thấy mà khinh khi, bất tín nhiệm, Hoa Kỳ còn tổn hao nhiều về nhân mạng và tiền cuả trong công việc chống cộng sau này mà không đem lại kết quả mỹ mãn. Giải pháp bắt tay với Trung Cộng chỉ là giải pháp đoản kỳ, tốt để làm suy yếu khối Cộng Sản, nhưng không phải là giải pháp duy nhất và trường kỳ. Hiểm họa Trung cộng do sự trỗi dậy không hoà bình của nó đang và sẽ đem lại nhiều bất ổn, tai ương cho Hoa Kỳ và thế giới trong tương lai.
Nào, hãy bàn đến đám tướng lãnh phản loạn, bọn Việt cộng đội lốt nhà sư cùng đám quần chúng nông nổi, dễ bị lợi dụng bởi cộng sản.
Rõ ràng đám tướng lãnh phản loạn đã lợi dụng lòng tin của Tổng thống Diệm để làm chuyện phản trắc, thông đồng với ngoại bang mà lật đổ vị Tổng thống hợp pháp của nền Đệ Nhất Cộng Hòa miền Nam Việt Nam, nhằm mưu lợi cá nhân mà không nghĩ gì đến quyền lợi quốc gia, dân tộc. Dưới con mắt Hoa Kỳ, kẻ đã thuê họ làm chuyện giết người, họ chỉ là đám côn đồ đáng khinh bỉ, đã nhúng tay vào một chuyện nhơ bẩn. Đám tướng lãnh này, dẫu về sau có được quyền bính trong tay, không có khả năng lèo lái con thuyền đất nước vì kém hẳn lòng yêu nước, thương dân. Kém hẳn sự sáng suốt trong việc nhận diện bạn - thù, nhận định cục diện Việt Nam trong mối tương quan với tình hình thế giới. Hậu quả là họ đã đánh mất tất cả: danh dự, quê hương của riêng họ, đất nước của cả dân tộc. Có lẽ họ không ít hơn một lần đau khổ vì lương tâm dằn vặt.
Nếu người thế tục phạm tội chịu sự hành hạ cuả lương tâm một, thì người xuất gia phạm cùng lỗi ấy ắt phải chịu sự hành hạ của lương tâm mười. Là kẻ tu hành sao lại tham lam quyền lực, bổng lộc thế gian để làm điều gian ác, vu vạ cho người? Đã tu hành phải là kẻ tu hành, nếu không chỉ là phường đội lốt thầy tu để che mặt thiên hạ, làm điều giảo trá. Hạng người này không được ai tin nữa, ngay kẻ đã lợi dụng họ. Bằng chứng là sau khi cộng sản chiếm miền Nam, hạng người này không được tin dùng, trái lại còn bị theo dõi và quản thúc.
Đối với đám quần chúng nông nổi, việc mất miền Nam vào tay cộng sản cũng là một hậu quả nặng nề mà họ phải chịu, những gì họ được hưởng dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa cho đến hôm nay vẫn chưa tìm lại được. Bài học rút ra cho họ là đừng bao giờ tin vào hứa hẹn suông, luôn cảnh giác với những xách động của kẻ xấu, cần nâng cao nhận thức về lịch sử, xã hội, chính trị và vai trò công dân, ý thức được hành vi chính trị phải được thực hiện bởi chính mình với trách nhiệm, hoặc được ủy thác qua những vị dân cử có năng lực và làm tròn trách nhiệm được giao. Chính trị không là đặc quyền của bất cứ ai hay một tầng lớp nào mà phải là mối quan tâm và tham gia của mọi công dân Việt Nam.
Những điều mà Tổng thống Ngô Đình Diệm đã làm cho đất nước và dân tộc hơn nửa thế kỷ qua, dầu có bị kẻ thù của ông xuyên tạc, bôi nhọ, đặt điều thì nhiều thế hệ miền Nam vẫn đánh giá cao và biết ơn ông. Ông đã khép lại trang sử của thời thực dân, phong kiến, mở ra trang sử Việt Nam Cộng Hòa rạng ngời tinh thần bất khuất, tự lực, tự cường với ý chí xây dựng đất nước phát triển theo trào lưu tiến bộ của nhân loại. Chỉ trong vòng chín năm ngắn ngủi, Tổng thống Ngô Đình Diệm đã định hình được một nền Cộng Hoà do dân và vì dân, mọi thành viên trong xã hội đều được tôn trọng và cò điều kiện thi thố khả năng của mình trong công cuộc xây dựng đất nước. Nền Cộng Hòa này đã đem thanh bình, cơm no áo ấm, tương lai cho một nửa đất nước, hiện vẫn còn là niềm mơ ước cho bao người.
Vinh danh Tổng Thống Ngô Đình Diệm để cảm ơn ông về những việc làm tốt đẹp của ông dành cho đất nước, dân tộc và cũng để sự thật chiến thắng giả dối, để những trang sử vẻ vang của quá khứ là nguồn động viên cho tinh thần giới trẻ thế hệ hôm nay tiếp nối cha ông trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước Việt Nam thân yêu của tất cả chúng ta.
Hãy để sự thật chiến thắng!
1.11.2016

No comments:

Post a Comment