Công thư mà Việt Nam gửi Trung Quốc năm
1958 không hề đề cập đến các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; trên thực
tế chúng nằm dưới vĩ tuyến 17, thuộc quản lý của Việt Nam Cộng hòa khi
đó, vì thế công thư không thể là sự công nhận chủ quyền của Trung Quốc
với hai quần đảo như Bắc Kinh viện cớ vin vào.
Tàu của cảnh sát biển Việt Nam thực hiện nhiệm vụ tại khu vực quần
đảo Hoàng Sa. Phía xa là giàn khoan 981 mà Trung Quốc hạ đặt trái phép.
Ảnh: Nguyễn Đông
|
Bộ Ngoại giao Việt Nam hôm nay tổ chức họp công bố các diễn biến thực
địa ở khu vực mà Trung Quốc hạ đặt giàn khoan trái phép trong vùng biển
Việt Nam; các cơ sở pháp lý và bằng chứng chứng minh chủ quyền không thể
tranh cãi của Việt Nam đối với hai quần đảo.
Đây là lần thứ ba Bộ Ngoại giao tổ chức họp báo quốc tế kể từ khi
Trung Quốc hạ đặt giàn khoan trái phép trên bờ biển thuộc vùng đặc
quyền kinh tế của Việt Nam hồi đầu tháng. Sự kiện thu hút sự quan tâm
của hơn 200 phóng viên, nhà báo của các hãng thông tấn trong và ngoài
nước. Phòng họp chật kín phóng viên, nhiều người phải đứng.
Các quan chức Việt Nam chủ trì cuộc họp báo hôm nay cho thấy quyết tâm
bảo vệ chủ quyền. Khi được đề nghị bình luận về việc Thủ tướng Nguyễn
Tấn Dũng phát biểu rằng Việt Nam "không đổi chủ quyền lấy hữu nghị viển
vông" và về 16 chữ vàng trong mối quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc,
ông Trần Duy Hải, Phó chủ nhiệm Ủy ban Biên giới Quốc gia, nói:
"Vấn đề chủ quyền lãnh thổ là hết sức thiêng liêng và không gì đánh đổi
được. Vàng rất quý nhưng độc lập tự do và chủ quyền lãnh thổ còn quý
hơn vàng".
Ông Hải cho biết bất chấp sự giao thiệp nghiêm túc của Việt Nam
với phía Trung Quốc từ nhiều cấp, nhiều hình thức, mọi thiện chí của
Việt Nam không được đáp ứng.
Việt Nam đã nhiều lần yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan và tàu hộ tống
khỏi vùng biển Việt Nam, yêu cầu Trung Quốc không gây ảnh hưởng đến an
ninh an toàn hàng hải, và sau khi Trung Quốc rút giàn khoan đôi bên sẽ
trao đổi để kiềm chế và kiểm soát ổn định tình hình trên biển.
Tuy nhiên Trung Quốc vẫn tiếp tục các hành vi xâm phạm, thậm chí có nhiều tuyên bố sai lệch, ông Hải cho biết.
Phó chủ nhiệm Ủy ban Biên giới bác bỏ luận điệu sai trái của Trung Quốc
và nêu rõ quan điểm cũng như các bằng chứng của Việt Nam liên quan đến chủ quyền biển đảo. Ông Hải trình chiếu video cho thấy các tư liệu pháp lý lịch sử của Việt Nam liên quan đến quần đảo Hoàng Sa.
"Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý và lịch sử đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa", ông nói và nêu từng vấn đề.
Bản đồ mang tên Partie de la Cochinchie về nước An Nam với quần đảo Hoàng Sa.
|
"Từ rất nhiều thế kỷ nay, ít nhất là từ thế kỷ thứ 17 các nhà
nước Việt Nam đã xác lập và thực thi chủ quyền với hai quần đảo này từ
khi còn là đất vô chủ. Các Nhà nước phong kiến Việt Nam thực thi chủ
quyền của mình ở Trường Sa và Hoàng Sa một cách hòa bình, liên tục phù
hợp với luật pháp quốc tế và không bị quốc gia nào phản đối.
"Trong thời kỳ Pháp thuộc từ giữa thế kỷ thứ 19 và đầu thế kỷ 20
Pháp đã nhân danh Nhà nước Việt Nam để tiếp tục quản lý hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa, đồng thời phản đối các yêu sách của các nước liên
quan đối với hai quần đảo này.
"Chủ quyền của Việt Nam với hai quần đảo đã được khẳng định và
thừa nhận tại hội nghị San Francisco tháng 9/1951. Đây là hội nghị giải
quyết các vấn đề lãnh thổ sau Thế chiến thứ hai.
"Tại hội nghị này, phái đoàn Liên Xô có đề nghị trao hai quần đảo cho
Trung Quốc nhưng 46/51 nước đã bỏ phiếu chống, phản đối. Cũng tại hội
nghị này, trưởng phái đoàn của Chính phủ Bảo Đại đã khẳng định chủ quyền
của Việt Nam đối với hai quần đảo này và không gặp phải sự phản đối của
bất cứ ai.
"Sau Hiệp định Geneva 1954, Việt Nam Cộng hòa cũng đã ra nhiều tuyên bố
và có những hành vi trên thực tế để thực thi chủ quyền với hai quần đảo
này. Trung Quốc là một nước tham gia hội nghị quốc tế về Đông Dương
Geneva năm 1954, biết rất rõ điều này và phải có trách nhiệm tôn trọng
các văn kiện của hội nghị này.
"Năm 1974 Trung Quốc đã sử dụng vũ lực chiếm đóng toàn bộ quần đảo
Hoàng Sa của Việt Nam. Việt Nam Cộng hòa cũng như chính phủ Cách mạng
lâm thời của Cộng hòa miền Nam Việt Nam đều lên tiếng phản đối hành động
đó của Trung Quốc và khẳng định lại chủ quyền của Việt Nam với quần đảo
Hoàng Sa.
"Từ góc độ luật pháp quốc tế, việc chiếm đóng bằng vũ lực lãnh thổ của
một quốc gia có chủ quyền là một hành vi phi pháp và không thể đem lại
chủ quyền cho Trung Quốc với Hoàng Sa", ông Hải kết luận. "Thực tế là
cho đến nay không có một quốc gia nào trên thế giới công nhận chủ quyền
của Trung Quốc với quần đảo Hoàng Sa".
Về công thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958,
ông Hải phân tích văn bản này hoàn toàn không đề cập đến vấn đề lãnh
thổ, chủ quyền và không đề cập đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Nội dung công thư chỉ ghi nhận và tán thành việc Trung Quốc mở rộng lãnh
hải 12 hải lý, đồng thời chỉ thị cho các cơ quan Việt Nam tôn trọng
giới hạn 12 hải lý mà Trung Quốc tuyên bố mà thôi.
Việc công thư không đề cập đến hai quần đảo cũng phù hợp với thực tế
lúc đó: hai quần đảo nằm dưới vĩ tuyến 17 và thuộc quyền quản lý của
Việt Nam Cộng hòa, được Pháp giao lại năm 1956 phù hợp với Hiệp định
Geneva năm 1954 mà Trung Quốc có tham gia.
Ngoài ra, công thư phải đặt trong bối cảnh cụ thể thời điểm được gửi
cho Trung Quốc, khi đó Hoàng Sa thuộc quyền quản lý của chính quyền Việt
Nam Cộng hòa, theo Hiệp định Geneva, Trung Quốc là bên tham gia.
"Bạn không thể cho người khác cái bạn chưa có. Công thư của cố Thủ
tướng Phạm Văn Đồng không có giá trị gì với việc công nhận chủ quyền của
Trung Quốc đối với quần đảo Tây Sa hay Nam Sa theo cách gọi của Trung
Quốc", ông Hải khẳng định.
"Việt Nam sẽ sử dụng các biện pháp hòa bình, bao gồm khả năng sử dụng
cơ quan tài phán quốc tế mà Hiến chương Liên Hợp Quốc và UNCLOS khẳng
định. Việt Nam sẽ sử dụng các biện pháp phù hợp luật quốc tế, và sử dụng
các biện pháp này tốt hơn là để xảy ra xung đột vũ trang", bà Hà nói.
"Lãnh đạo Việt Nam khẳng định không loại trừ bất cứ biện pháp nào,
chúng tôi với tư cách cơ quan tư vấn pháp lý sẽ chuẩn bị mọi biện pháp
có thể sử dụng được", bà nói thêm.Việt Nam và Trung Quốc nhất trí giải quyết vấn đề bằng biện pháp hòa bình, các thông tin cho rằng Trung Quốc điều chuyển quân đến khu vực biên giới là chưa chính xác, ông Trần Duy Hải cho biết.
"Trong cuộc gặp của hai Thứ trưởng Ngoại giao, hai bên nhất trí không sử dụng biện pháp quân sự để giải quyết bất đồng. Tôi xin khẳng định như vậy", ông Hải nói, và cho biết thêm rằng hiện các hoạt động giao thương trên biên giới Việt - Trung diễn ra bình thường.
Theo các cơ quan chức năng của Việt Nam, trong các cuộc gây rối ở Hà
Tĩnh, có hai người Trung Quốc chết. Ở Bình Dương, các đối tượng xấu gây
xô xát, gây ra cái chết cho một người Trung Quốc.
Về việc công nhân Trung Quốc về nước sau các sự cố biểu tình, ông Lê
Hải Bình khẳng định những vụ gây rối tại một số địa phương là hết sức
đáng tiếc. Dưới sự chỉ đạo của của Thủ tướng chính phủ, tình hình đã trở
về bình thường, ổn định
"Hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam và nước ngoài đã khôi phục hoạt
động. Chính phủ Việt Nam sẽ sử dụng mọi biện pháp đảm bảo an toàn tính
mạng, tài sản, đồng thời đảm bảo không để tái diễn sự cố đáng tiếc như
vừa qua", ông Bình cho biết.
"Tuyệt đại đa số doanh nghiệp bị ảnh hưởng đều đánh giá cao nỗ lực của
chính phủ Việt Nam. Theo chúng tôi được biết, trừ Trung Quốc, không có
nước nào rút công dân về nước", ông Bình nói.
Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Hải Bình khẳng định, sau
một số vụ gây rối, tình hình đã trở lại hoàn toàn bình thường. Ảnh:
Nguyên Anh
|
Diễn biến thực địa tuần qua
Ông Ngô Ngọc Thu, Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Cảnh sát Biển Việt Nam,
bác bỏ thông tin mà Bộ Ngoại giao Trung Quốc đưa ra rằng phía Việt Nam
khiêu khích và đâm va tàu của Trung Quốc. Ông Thu khẳng định thông tin
đó là hết sức sai lệch, mang tính vu cáo.
"Chúng tôi hoàn toàn bác bỏ thông tin này. Thực tế hoạt động trên biển,
trong thời kỳ cao điểm ngày 20/5, Trung Quốc sử dụng tới 137 lượt chiếc
tàu thuyền để bảo vệ giàn khoan, trong đó có 4 tàu chiến và một số máy
bay.
"Tàu Trung Quốc dùng súng phun nước công suất lớn, dùng máy tạo sóng âm
tần gây khó chịu, ảnh hưởng thính giác ở khu vực xung quanh tàu Trung
Quốc khoảng 100 m. Phía Trung Quốc dùng đèn pha công suất lớn và các
phương tiện âm thanh khác tác động đến tàu Việt Nam, tiếp tục đâm va
ngăn cản tàu Việt Nam trên biển.
"Phía Việt Nam hoàn toàn không sử dụng công cụ trên tàu để đáp trả
Trung Quốc mà chỉ dùng loa tuyên truyền, yêu cầu Trung Quốc chấm dứt
hành hoạt động. Có 20 tàu cảnh sát biển và tàu kiểm ngư Việt Nam bị tàu
Trung Quốc đâm va, có tàu bị đâm va đến 3-4 lần.
"Việt Nam khẳng định hoàn toàn không tấn công khiêu khích tàu Trung Quốc", ông Thu kết luận.
Đại tá Ngô Ngọc Thu, Phó tư lệnh - tham mưu trưởng Cảnh sát biển Việt Nam.
|
Bác bỏ quan điểm của Trung Quốc về khai thác dầu khí
Ông Đỗ Văn Hậu, Tổng giám đốc Tập đoàn dầu khí Việt Nam cho biết từ năm 1996, sau khi quốc hội Việt Nam phê chuẩn Công ước Quốc tế về Luật biển (UNCLOS), hoạt
động dầu khí chỉ thực hiện trong vòng 200 hải lý thuộc vùng đặc quyền
kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Phía Việt Nam đã ký 99 hợp đồng với doanh nghiệp nước ngoài. 30 mỏ đang được khai thác trong vùng thềm lục địa vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, được quốc tế công nhận.
Ông Hậu bác bỏ tài liệu của phía Trung Quốc công bố hôm 16/5 cho rằng
"Việt Nam đã phân 57 lô dầu khí và có 37 giàn khoan tại vùng biển có
tranh chấp".
"Trung Quốc chỉ nêu ra mà không có cơ sở pháp lý nào chứng minh. Chúng tôi bác bỏ quan điểm của Trung Quốc".
Ông Hậu phân tích rằng quan điểm trên của phía Trung Quốc thực chất là
nhằm biến những khu vực không tranh chấp trên thềm lục địa Việt Nam
thành những khu vực tranh chấp, với ý đồ hiện thực hóa yêu sách đường
lưỡi bò đang bị cả cộng đồng quốc tế lên án.
Đánh giá trữ lượng dầu mỏ tại khu vực này, ông Hậu cho biết có các đánh
giá của Trung Quốc, Mỹ và các nước trong khu vực về trữ lượng hydro
carbon về toàn bộ khu vực Biển Đông, Việt Nam cũng có nhiều nghiên cứu
khảo sát, dự báo là từ 4 đến 6 tỷ tấn trong vùng thềm lục địa và vùng
đặc quyền kinh tế của Việt Nam. "Tại những khu vực đang khoan, chúng tôi
đánh giá triển vọng ở đây là không lớn", ông Hậu nói.
Ông Đỗ Văn Hậu khẳng định các lô dầu khí mà Việt Nam lập ra và khai
thác đều hợp pháp và được quốc tế công nhận. Ảnh: Nguyên Anh
|
Đấu tranh ngoại giao
Kể từ khi Công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc đưa giàn khoan
trái phép vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, chính phủ Việt Nam đã
20 lần yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan cùng tàu và máy bay khỏi khu
vực, đồng thời tố cáo hành vi vi phạm luật pháp quốc tế của Trung Quốc
tại các Hội nghị của khu vực ASEAN và các Diễn đàn quốc tế.
Trên kênh ngoại giao đa phương, Việt Nam đưa vụ việc này ra Hội nghị
thượng đỉnh ASEAN lần thứ 24 diễn ra ngày 11/5 tại Myanmar, Diễn đàn
kinh tế Thế giới về Đông Á tại Philippines, nhằm tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng yêu chuộng hòa bình thế giới.
Trên các diễn đàn này, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định chủ quyền
lãnh thổ, chủ quyền biển đảo là thiêng liêng, nhất định không chấp nhận
đánh đổi điều thiêng liêng này để nhận lấy một thứ hòa bình, hữu nghị
viển vông, lệ thuộc nào đó. Việt Nam khẳng định kiên quyết bảo vệ chủ
quyền bằng các biện pháp hòa bình và phù hợp luật pháp quốc tế.
Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh đã điện
đàm với người đồng cấp Trung Quốc Vương Nghị, nhằm đề nghị Bắc Kinh phản
hồi tích cực trước yêu cầu rút giàn khoan 981 ra khỏi vùng biển Việt
Nam. Ông cũng có các cuộc nói chuyện điện thoại với bộ
trưởng ngoại giao các nước Mỹ, Nga, Indonesia và Singapore để thông báo
những nỗ lực của Việt Nam nhằm giảm tình hình căng thẳng tại Biển Đông.
Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang
Thanh hôm 20/5 gặp với người đồng cấp Trung Quốc Thường Vạn Toàn bên lề
hội nghị quốc phòng các ASEAN (ADMM) tại Myanmar, yêu cầu Trung Quốc rút
giàn khoan khỏi khu vực.
Tại thực địa, các tàu kiểm ngư của Việt Nam vẫn kiên trì đấu tranh hòa
bình, triển khai khoảng 20 tàu, tiến sâu và áp sát giàn khoan hơn để
phát loa tuyên truyền, yêu cầu tàu Trung Quốc rời khỏi khu vực thuộc
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.
Trọng Giáp - Hoàng Thùy
Hầu hết chúng ta đều thấy copy bản Công Hàm do Phạm Văn Đồng thừa lệnh Hồ Chí Minh ký ngày 14 tháng 9, 1958, để gửi Chu Ân Lai. Một bằng chứng nữa để thấy rõ tội của tập đoàn Đảng Cộng Sản Việt Nam trước việc dâng Trường Sa và Hoàng Sa cho Trung Cộng.
Báo Nhân Dân là tiếng nói chính thức của Đảng Cộng Sản Việt Nam (vào 1959 được ẩn dưới danh xưng Đảng Lao Động).
Bản tin được phóng lớn
CHÍNH PHỦ NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ CÔNG NHẬN QUYẾT ĐỊNH VỀ HẢI PHẬN CỦA TRUNG-QUỐC
Sáng ngày 21.9.1958, đồng chí Nguyễn-Khang, Đại sứ nước Việt-nam dân chủ cộng hoà tại Trung-quốc, đã gặp đồng chí Cơ Bàng-phi, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao nước Cộng hoà nhân dân Trung-hoa và đã chuyển bức công hàm sau đây của Chính phủ ta:
Thưa đồng chí Chu Ân-lai,
Tổng lý Quốc vụ viện nước Cộng hoà nhân dân Trung-hoa,
Chúng tôi xin trân trọng thông báo tin để đồng chí Tổng lý rõ:
Chính phủ nước Việt-nam dân chủ cộng hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung-quốc.
Chính phủ nước Việt-nam dân chủ cộng hoà tôn trọng quyết định ấy và chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung-quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà nhân dân Trung-hoa trên mặt biển.
Chúng tôi xin kính gửi đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng.
Hà Nội, ngày 14 tháng 9 năm 1958
PHẠM VĂN ĐỒNG
Thủ tướng Chính phủ
nước Việt-nam dân chủ cộng hoà
The People's Republic of China hereby announces:
(1) This width of the territorial sea of the People's Republic of China is twelve national miles. This provision applies to all Territories of the People's Republic of China, including the mainland China and offshore islands, Taiwan (separated from the mainland and offshore islands by high seas) and its surrounding islands, the Penghu Archipelago, the Dongsha Islands, the Xisha islands, the Zhongsha Islands, the Nansha Islands and other islands belonging to China.
(2) The straight lines linking each basic point at the mainland's coasts and offshore outlying islands are regarded as base lines of the territorial sea of the mainland China and offshore islands. The waters extending twelve nautical miles away from the base lines are China's territorial sea. The waters inside the base lines, including Bohai Bay and Giongzhou Strait, are China's inland sea. The islands inside the base lines, including Dongyin Island, Gaodeng Island, Mazu Inland, Baiquan Island, Niaoqin Island, Big and Small Jinmen Islands, Dadam Island, Erdan Island and Dongding Island, are China's inland sea islands.
(3) Without the permit of the government of the People's Republic of China, all foreign aircrafts and military vessels shall not be allowed to enter China's territorial sea and the sky above the territorial sea.
Any foreign vessel sailing in China's territorial sea must comply with the relevant orders of the government of the People's Republic of China.
(4) The above provisions (2) and (3) also apply to Taiwan and its surrounding islands, the Penghu Islands, the Dongsha Islands, the Xisha Islands, the Zhongsha Islands, the Nansha Islands and other islands belonging to China.
Taiwan and Penghu are still occupied with force by the USA. This is an illegality violating the People's Republic of China's territorial integrity and sovereignty. Taiwan and Penghu are waiting for recapture. The People's Republic of China has rights to take all appropriate measures to recapture these places in due course. It is China's internal affairs which should not be interfered by any foreign country.
Trích từ nguồn: http://law.hku.hk/clsourcebook/10033.htm
Saigon - Hanoi - Paracels Islands Dispute – 1974
Frank Ching (Far Eastern Economic Review, Feb. 10, 1994)
Trước sự chiếm đóng bất hợp pháp của Trung Cộng bằng quân sự trên Quần đảo Hoàng Sa, nguyên là một phần đất thuộc lãnh thổ Việt Nam Cộng Hoà, Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà xét thấy cần thiết phải long trọng tuyên bố trước công luận thế giới, bạn cũng như thù, rằng:
Quần đảo Hoàng Sa và Quần đảo Trường Sa là một phần không thể cắt rời của lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa. Chính phủ và toàn dân Việt Nam Cộng Hòa sẽ không khuất phục trước bạo lực và bác bỏ tất cả hoặc một phần chủ quyền của họ trên những quần đảo này.
Chừng nào mà bất cứ một hòn đảo nào của phần lãnh thổ đó của Việt Nam Cộng Hòa vẫn bị một nước khác chiếm đóng bằng bạo lực, thì Chính phủ và toàn dân Việt Nam Cộng Hòa sẽ tiếp tục tranh đấu để lấy lại quyền lợi hợp pháp của mình.
Kẻ chiếm đóng bất hợp pháp sẽ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về bất cứ tình trạng căng thẳng nào bắt nguồn từ đó.
Nhân cơ hội này, Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cũng long trọng tái xác nhận chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa trên các hải đảo ngoài khơi miền Trung và Nam phần Việt Nam, đã luôn luôn được chấp nhận như một phần lãnh thổ của Việt Nam Cộng Hòa trên căn bản không thể chối cãi được về địa lý, lịch sử, chứng cứ hợp pháp và bởi vì những điều thực tế.
Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cương quyết bảo vệ chủ quyền quốc gia trên những quần đảo này bằng tất cả mọi phương tiện. Ðể gìn giữ truyền thống tôn trọng hoà bình, Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa sẵn sàng giải quyết, bằng sự thương lượng, về các tranh chấp quốc tế có thể bắt nguồn từ các quần đảo đó, nhưng điều đó không có nghĩa là Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa sẽ từ bỏ chủ quyền của mình trên bất cứ phần lãnh thổ nào của quốc gia.
Tuyên bố bởi Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa vào ngày 14 tháng 2 năm 1974
Ngày 14/9/1958, Trung Cộng ra một bản
tuyên bố và một bản đồ "9 gạch" tự ấn định chủ quyền trên một vùng
rộng lớn ở biển đông, trong đó có hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.
Phạm Văn Ðồng, lúc đó là thủ tướng Bắc Việt, đã vội vàng viết một công
hàm tán thành quyết định của Trung Cộng. Ðây là một công hàm bán nước
mà cho tới ngày nay, Trung Công vẫn tiếp tục dựa vào công hàm này để
khẳng định chủ quyền ở hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Dưới đây là
nguyên văn bản công hàm của Phạm Văn Ðồng.
THỦ TƯỚNG PHỦ NƯỚC
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
Thưa Ðồng chí Tổng lý,
Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Ðồng chí Tổng lý rõ :
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ
Cộng Hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4/9/58, của Chính phủ
nước Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa, quyết định về hải phận của Trung
Quốc.
Chính
phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ
thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải
phận 12 hải lý của Trung Quốc, trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa trên mặt bể
Chúng tôi xin kính gởi Ðồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng.
Hà-Nội, ngày 14 tháng 9 năm 1958
Phạm Văn Ðồng (ấn ký)
Thủ tướng Chính phủ
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa
Phạm Văn Ðồng (ấn ký)
Thủ tướng Chính phủ
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa
Kính gửi :
Ðồng chí Chu Ân Lai
Tổng lý Quân vụ viện
Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tại Bắc Kinh
Ðồng chí Chu Ân Lai
Tổng lý Quân vụ viện
Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tại Bắc Kinh
Báo Nhân Dân 1958 Đăng Tin Công Hàm Bán Nước
Hầu hết chúng ta đều thấy copy bản Công Hàm do Phạm Văn Đồng thừa lệnh Hồ Chí Minh ký ngày 14 tháng 9, 1958, để gửi Chu Ân Lai. Một bằng chứng nữa để thấy rõ tội của tập đoàn Đảng Cộng Sản Việt Nam trước việc dâng Trường Sa và Hoàng Sa cho Trung Cộng.
Báo Nhân Dân là tiếng nói chính thức của Đảng Cộng Sản Việt Nam (vào 1959 được ẩn dưới danh xưng Đảng Lao Động).
Nhìn kỹ vào trang báo trên một bản tin có ghi "Sáng qua, 21-9-1958, tại quảng trường..." Vậy tờ báo này ra ngày 22 tháng 9, 1958.
Phía dưới góc tay mặt có bản tin về Công Hàm (ngay mũi tên) liên quan tới việc Đảng Cộng Sản Việt Nam xác nhận chủ quyền của Trung Cộng trên vùng Hoàng Sa và Trường Sa.
Vào ngày 4 tháng 9, 1958, Bắc Kinh tuyên bố lãnh hải của Trung Cộng là 12 hải lý. Bản tuyên bố viết rằng "Điều khoản này áp dụng cho toàn thể lãnh thổ của Cộng Hoà Nhân Dân Trung Quốc, gồm các vùng đảo Hoàng Sa và Trường Sa và tất cả các đảo khác thuộc Trung Cộng."
Mười ngày sau, tức ngày 14 tháng 9, 1958, thủ tướng Việt Cộng Phạm Văn Đồng ký một Công Hàm chấp nhận điều khoản trên của Trung Cộng.
Như trên ta thấy, tám ngày sau, 22 tháng 9, 1958, báo Nhân Dân tại Hà Nội loan tin. Nhà báo đã đánh máy nguyên văn bản Công Hàm. Tuy nhiên khi nhìn kỹ lại thì thấy ngày tháng ký tên ở dưới thư đề bằng tay. Do vậy, ta có thể kết luận Đảng đã thảo sẵn văn thư này trước, và ngày ký là 14 tháng 9, 1958. Bản gửi cho báo Nhân Dân khác với bản chính thức gửi Chu Ân Lai. Chúng tôi xin ghi lại nguyên văn bản tin:
Phía dưới góc tay mặt có bản tin về Công Hàm (ngay mũi tên) liên quan tới việc Đảng Cộng Sản Việt Nam xác nhận chủ quyền của Trung Cộng trên vùng Hoàng Sa và Trường Sa.
Vào ngày 4 tháng 9, 1958, Bắc Kinh tuyên bố lãnh hải của Trung Cộng là 12 hải lý. Bản tuyên bố viết rằng "Điều khoản này áp dụng cho toàn thể lãnh thổ của Cộng Hoà Nhân Dân Trung Quốc, gồm các vùng đảo Hoàng Sa và Trường Sa và tất cả các đảo khác thuộc Trung Cộng."
Mười ngày sau, tức ngày 14 tháng 9, 1958, thủ tướng Việt Cộng Phạm Văn Đồng ký một Công Hàm chấp nhận điều khoản trên của Trung Cộng.
Như trên ta thấy, tám ngày sau, 22 tháng 9, 1958, báo Nhân Dân tại Hà Nội loan tin. Nhà báo đã đánh máy nguyên văn bản Công Hàm. Tuy nhiên khi nhìn kỹ lại thì thấy ngày tháng ký tên ở dưới thư đề bằng tay. Do vậy, ta có thể kết luận Đảng đã thảo sẵn văn thư này trước, và ngày ký là 14 tháng 9, 1958. Bản gửi cho báo Nhân Dân khác với bản chính thức gửi Chu Ân Lai. Chúng tôi xin ghi lại nguyên văn bản tin:
Bản tin được phóng lớn
CHÍNH PHỦ NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ CÔNG NHẬN QUYẾT ĐỊNH VỀ HẢI PHẬN CỦA TRUNG-QUỐC
Sáng ngày 21.9.1958, đồng chí Nguyễn-Khang, Đại sứ nước Việt-nam dân chủ cộng hoà tại Trung-quốc, đã gặp đồng chí Cơ Bàng-phi, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao nước Cộng hoà nhân dân Trung-hoa và đã chuyển bức công hàm sau đây của Chính phủ ta:
Thưa đồng chí Chu Ân-lai,
Tổng lý Quốc vụ viện nước Cộng hoà nhân dân Trung-hoa,
Chúng tôi xin trân trọng thông báo tin để đồng chí Tổng lý rõ:
Chính phủ nước Việt-nam dân chủ cộng hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung-quốc.
Chính phủ nước Việt-nam dân chủ cộng hoà tôn trọng quyết định ấy và chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung-quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà nhân dân Trung-hoa trên mặt biển.
Chúng tôi xin kính gửi đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng.
Hà Nội, ngày 14 tháng 9 năm 1958
PHẠM VĂN ĐỒNG
Thủ tướng Chính phủ
nước Việt-nam dân chủ cộng hoà
DECLARATION OF THE GOVERNMENT OF THE PEOPLE'S REPUBLIC OF CHINA ON THE TERRITORIAL SEA
(Approved
by the 100th Session of the Standing Committee of the
National People's Congress on 4th September, 1958)The People's Republic of China hereby announces:
(1) This width of the territorial sea of the People's Republic of China is twelve national miles. This provision applies to all Territories of the People's Republic of China, including the mainland China and offshore islands, Taiwan (separated from the mainland and offshore islands by high seas) and its surrounding islands, the Penghu Archipelago, the Dongsha Islands, the Xisha islands, the Zhongsha Islands, the Nansha Islands and other islands belonging to China.
(2) The straight lines linking each basic point at the mainland's coasts and offshore outlying islands are regarded as base lines of the territorial sea of the mainland China and offshore islands. The waters extending twelve nautical miles away from the base lines are China's territorial sea. The waters inside the base lines, including Bohai Bay and Giongzhou Strait, are China's inland sea. The islands inside the base lines, including Dongyin Island, Gaodeng Island, Mazu Inland, Baiquan Island, Niaoqin Island, Big and Small Jinmen Islands, Dadam Island, Erdan Island and Dongding Island, are China's inland sea islands.
(3) Without the permit of the government of the People's Republic of China, all foreign aircrafts and military vessels shall not be allowed to enter China's territorial sea and the sky above the territorial sea.
Any foreign vessel sailing in China's territorial sea must comply with the relevant orders of the government of the People's Republic of China.
(4) The above provisions (2) and (3) also apply to Taiwan and its surrounding islands, the Penghu Islands, the Dongsha Islands, the Xisha Islands, the Zhongsha Islands, the Nansha Islands and other islands belonging to China.
Taiwan and Penghu are still occupied with force by the USA. This is an illegality violating the People's Republic of China's territorial integrity and sovereignty. Taiwan and Penghu are waiting for recapture. The People's Republic of China has rights to take all appropriate measures to recapture these places in due course. It is China's internal affairs which should not be interfered by any foreign country.
Trích từ nguồn: http://law.hku.hk/clsourcebook/10033.htm
Tuyên Bố của Chính Phủ Nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc về Lãnh Hải
(Ðược thông qua trong kỳ họp thứ 100 của Ban Thường Trực Quốc Hội Nhân Dân ngày 4 tháng 9 năm 1958)
Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc nay tuyên bố:
(1) Bề rộng lãnh hải của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc là 12 hải lý. Ðiều lệ này áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, bao gồm
phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài
khơi, Ðài Loan (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo
khác bởi biển cả) và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu,
quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc.
(2) Các đường
thẳng nối liền mỗi điểm căn bản của bờ biển trên đất liền
và các đảo ngoại biên ngoài khơi được xem là các đường
căn bản của lãnh hải dọc theo đất liền Trung Quốc và các
đảo ngoài khơi. Phần biển 12 hải lý tính ra từ các đường
căn bản là hải phận của Trung Quốc. Phần biển bên trong
các đường căn bản, kể cả vịnh Bohai và eo biển Giongzhou,
là vùng nội hải của Trung Quốc. Các đảo bên trong các đường căn bản,
kể cả đảo Dongyin, đảo Gaodeng, đảo Mazu, đảo Baiquan,
đảo Niaoqin, đảo Ðại và Tiểu Jinmen, đảo Dadam, đảo Erdan,
và đảo Dongdinh, là các đảo thuộc nội hải Trung Quốc.
(3) Nếu không có
sự cho phép của Chính Phủ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc,
tất cả máy bay ngoại quốc và tàu bè quân sự không được
xâm nhập hải phận Trung Quốc và vùng trời bao trên hải
phận này. Bất cứ tàu bè ngoại quốc nào di chuyển trong
hải phận Trung Quốc đều phải tuyên thủ các luật lệ liên
hệ của Chính Phủ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc
(4) Ðiều (2) và
(3) bên trên cũng áp dụng cho Ðài Loan và các đảo phụ
cận, quần đảo Penghu, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa,
quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc
Trung Quốc.
Ðài Loan và
Penghu hiện còn bị cưỡng chiếm bởi Hoa Kỳ. Ðây là hành động
bất hợp pháp vi phạm sự toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền
của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc. Ðài Loan và Penghu đang
chờ được chiếm lại. Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc có
quyền dùng mọi biện pháp thích ứng để lấy lại các phần đất
này trong tương lai. Các nước ngoại quốc không nên xen
vào các vấn đề nội bộ của Trung Quốc
(Bản dịch của Trung Tâm Dữ Kiện)
Chú thích: Quần đảo Tây Sa (tên tiếng Tàu Xisha) = Quần đảo Hoàng Sa = Paracel Islands
Quần đảo Nam Sa (tên tiếng Tàu Nansha) = Quần đảo Trường Sa = Spratly Islands
Quần đảo Nam Sa (tên tiếng Tàu Nansha) = Quần đảo Trường Sa = Spratly Islands
Nghiên cứu của Todd Kelly đề cập đến Công Hàm Bán Nước
|
|
DRV = Democratic Republic of Vietnam - Viêt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Bắc Việt Nam)
PRC = People's Republic of China - Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa (Trung-quốc)
RVN = Republic of Vietnam - Việt Nam Cộng Hòa (Nam Việt Nam)
Bài viết của ký giả Frank Ching trên Tạp chí Kinh tế Viễn Ðông đề cập đến Công Hàm Bán Nước
Vấn đề Tranh chấp Chủ quyền trên Quần đảo Hoàng SaSaigon - Hanoi - Paracels Islands Dispute – 1974
Frank Ching (Far Eastern Economic Review, Feb. 10, 1994)
1) Tái thẩm định miền Nam Việt Nam
Chỉ có một số ít các chính phủ
sẵn sàng thú nhận rằng họ đã phạm phải sai lầm, ngay cả khi những
chính sách của họ cho thấy điều đó một cách rất rõ ràng. Lấy thí dụ
như Việt Nam chẳng hạn
Khi nước CHXHCN Việt Nam đã từ bỏ chủ nghĩa xã hội trên tất cả mọi mặt, ngoại trừ cái tên, thì họ vẫn ngần ngại không muốn thú nhận điều này. Chính sách kinh tế thị trường mà họ đang theo đuổi, dù sao, đã nói lên điều ngược lại.
Trong những năm chiến tranh, những trận đánh chống lại quân đội Mỹ và quân đội miền Nam Việt Nam, đã được chiến đấu dưới danh nghĩa của chủ nghĩa xã hội và nhận được sự ủng hộ của toàn thể thế giới cộng sản, đặc biệt là từ Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa.
Những trận đánh này đã đòi hỏi một sự hy sinh nặng nề về xương máu và tài nguyên của đất nước, là một cái giá mà người Việt Nam vẫn tiếp tục phải trả cho đến ngày hôm nay khi nhà nước CSVN đang cố gắng, một cách rất muộn màng, đặt việc phát triển kinh tế lên trên ý thức hệ chính trị. Cái ý thức hệ đó trong quá khứ đã buộc Hà Nội phải lựa chọn những chính sách mà khi nhìn lại thì không có vẻ gì là khôn ngoan cả. Và việc bóp méo ý thức hệ này đã gây cho họ nhiều thứ rắc rối khác hơn là chỉ đưa họ vào tình trạng khó xử với các đồng chí cộng sản đàn anh của họ ở Mạc Tư Khoa và Bắc Kinh. Ðôi khi nó cũng làm mờ mắt họ về những lập trường đứng đắn được khẳng định bởi kẻ thù của họ là chính phủ Sài Gòn .
Trong những ngày đó, chế độ Hà Nội rất hăng hái trong việc lên án chính quyền miền Nam, cho họ là những con rối của Mỹ, là những kẻ đã bán đứng quyền lợi của nhân dân Việt Nam. Ngay cả lúc đó, một điều rõ ràng là những lời cáo buộc này đã không có căn cứ. Bây giờ, 20 năm sau, cũng lại một điều rõ ràng là đã có những lúc mà chính quyền Sài Gòn đã thật sự đứng lên cho quyền lợi của dân tộc Việt Nam, một cách vô cùng mạnh mẽ, hơn xa cả cái chính quyền tại Hà Nội.
Một trường hợp để chứng minh cụ thể là vụ tranh chấp về quần đảo Hoàng Sa trên biển Nam Trung Hoa. Quần đảo Hoàng Sa, giống như quần đảo Trường Sa ở xa hơn về phía Nam, được tuyên bố chủ quyền bởi cả hai Trung Quốc và Việt Nam. Nhưng khi chế độ Hà Nội vẫn đang nhận viện trợ từ Bắc Kinh, thì họ im hơi lặng tiếng trong việc tuyên bố chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa. Quần đảo này đã bị chiếm đoạt bởi Trung Quốc sau một vụ đụng độ quân sự vào tháng Giêng năm 1974, lúc quân Trung Quốc đánh bại những người tự bảo vệ từ miền Nam Việt Nam. Từ đó, quần đảo này đã nằm dưới sự kiểm soát của Trung Quốc.
Sau khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt, có một sự bất đồng nhanh chóng giữa Bắc Kinh và Hà Nội, và chính quyền Hà Nội - vừa mới thống nhất với miền Nam - lại tái tuyên bố chủ quyền của mình trên quần đảo Hoàng Sa. Mặc dù đã có những cuộc đàm phán cao cấp giữa hai nước, nhưng vụ tranh chấp này vẫn chưa được giải quyết. Các chuyên gia của hai nước có hy vọng là sẽ gặp gỡ sớm sủa hơn để bàn thảo về những vấn đề chuyên môn, nhưng không chắc chắn là sẽ có một quyết định toàn bộ . Thật ra, một viên chức cao cấp của Việt Nam đã thú nhận rằng vấn đề sẽ được giải quyết bởi các thế hệ tương lai.
Dù không muốn phán đoán về những giá trị của lời tuyên bố chủ quyền của bất cứ bên nào, một điều rõ ràng là cương vị của phía Việt Nam đã bị yếu thế hơn vì sự im hơi lặng tiếng của Hà Nội khi quân đội Trung Quốc chiếm đoạt quần đảo Hoàng Sa. Sự thiếu sót của Hà Nội để phản đối trước hành động quân sự của nước ngoài bây giờ được dùng để quật ngược lại Việt Nam mỗi khi đề tài trên được nêu ra.
Giới thẩm quyền Việt Nam ngày hôm nay giải thích sự im lặng của họ vào thời điểm đó bằng cách nói rằng họ đã phải dựa vào viện trợ của Trung Quốc trong cuộc chiến chống Mỹ, vốn là kẻ thù chính yếu của họ lúc đó. Vậy thì một điều chắc chắn là, khi chiến tranh càng được chấm dứt sớm hơn thì quan hệ hữu nghị giữa Hà Nội và Bắc Kinh cũng như vậy .
Cộng thêm vào đó là những điều bị bóp méo mới toanh mà Hà Nội phải dùng đến để tăng thêm giá trị cho lời tuyên bố về chủ quyền của họ trên quần đảo Hoàng Sa. Bởi vì sự im lặng đồng ý ngầm trong quá khứ mà Hà Nội bó buộc phải tránh không dám dùng những lời tuyên bố chính thức của họ từ thập niên 1950 đến thập niên 1970, mà phải dùng những bản tuyên bố của chế độ Sài Gòn - tức là công nhận tính hợp pháp của của chính phủ miền Nam. Một cách rất sớm sủa, như vào năm 1956, chính phủ Sài Gòn đã công bố một thông cáo chính thức xác nhận chủ quyền của mình trên Hoàng Sa và Trường Sa.
Chế độ Sài Gòn cũng công bố một nghị định để bổ nhiệm nhân sự hành chánh cho quần đảo Hoàng Sa. Cho đến khi họ bị thất bại bởi lực lượng quân sự Trung Quốc vào năm 1974 (chỉ vài tháng trước khi miền Nam Việt Nam bị sụp đổ trước sự tấn công của cộng sản từ miền Bắc), thì chính phủ Sài Gòn vẫn tiếp tục tuyên bố chủ quyền của mình trên quần đảo Hoàng Sa.
Trong vài năm vừa qua, nước Nam Dương (Indonesia) đã bảo trợ cho các buổi hội thảo với tính cách phi chính phủ về vùng biển Nam Trung Hoa. Tại các buổi hội thảo lúc có lúc không này, phía Việt Nam một lần nữa lại thấy bối rối khi được yêu cầu giải thích về sự im lặng của họ hồi đó, khi Trung Quốc nắm giữ cái mà Việt Nam bây giờ tuyên bố là một phần của lãnh thổ họ. "Trong thời gian này", họ nói, "có những tình trạng rắc rối về chính trị và xã hội tại Việt Nam, cũng như trên thế giới, mà phía Trung Quốc đã lợi dụng, theo từng bước một, để dùng biện pháp quân sự chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa. Và Trung Quốc đã thu gọn toàn bộ Hoàng Sa vào năm 1974."
Với lợi thế của hai thập niên về lịch sử, bây giờ có thể thẩm định được những hành động của chính quyền miền Nam với một nhãn quan công minh hơn. Trong cái phúc lợi của việc hàn gắn vết thương chiến tranh, nếu không phải vì những chuyện khác, có lẽ điều khôn ngoan cho Hà Nội là nên xem xét lại quá khứ và trả lại cho Cesar những gì thuộc về Cesar. Và sự chống đỡ mãnh liệt của chính quyền Sài Gòn để bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa, đúng vào cái lúc mà chế độ Hà Nội đang bận rộn ve vuốt để nhận đặc ân từ Trung Quốc, là một hành động xuất sắc nên được công nhận.
Hồ Chí Minh đã có một lần được hỏi rằng ông ta ủng hộ Liên Sô hay ủng hộ Trung Quốc Ông ta đã trả lời rằng ông ta ủng hộ Việt Nam. Bây giờ là lúc để chế độ Hà Nội nhìn nhận rằng đã có lúc khi mà chính quyền Sài Gòn đã ủng hộ cho Việt Nam nhiều hơn là chính quyền của miền Bắc.
2) Ðằng sau những tuyên bố về chủ quyền trên hai quần đảo
Những gì đã xảy ra sau khi Hồ Chí Minh được quân đội của Mao Trạch Ðông và các đồng chí giúp nắm giữ quyền lực tại miền Bắc Việt Nam.
Việt Nam tuyên bố chủ quyền trên "quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa" dựa trên các tài liệu xưa cũ và đặc biệt là tập bút ký "Phủ Biên Tập Lục" của Lê Quý Ðôn. Việt Nam gọi hai quần đảo này là Hoàng Sa (Paracels) và Trường Sa (Spratlys); Trung Quốc gọi là Tây Sa (Xisha) và Nam Sa (Nansha). Người Việt Nam đã đụng độ với nước Cộng hoà Nhân dân Trung hoa vào ngày 19/1/1974 với kết qủa là một tàu lớn của Hải quân miền Nam cũ bị đắm và 40 thuỷ thủ bị bắt. Vào tháng 3/1988 nước Cộng hoà Nhân dân Trung hoa lại đến và đánh chìm 3 tàu của Việt Nam, 72 thuỷ thủ bị thiệt mạng và 9 bị bắt. Vào ngày 25/2/1992, nước Cộng hoà Nhân dân Trung hoa tuyên bố quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của họ.
Lý do chính để Trung Quốc làm như thế đã được biết đến trước đây như một phần của kế hoạch gọi là "Không gian sinh tồn", bởi vì tài nguyên thiên nhiên của hai vùng Mãn Châu và Tân Cương sẽ bị cạn kiệt sớm. Ðể làm điều này, Trung Quốc bắt đầu bằng phần dễ nhất – là cái mà cộng sản Việt Nam đã hứa trước đây. Có nghĩa là Trung Quốc căn cứ vào một sự thương lượng bí mật trong qúa khứ. Trong một bản tin của hãng thông tấn Reuters ngày 30/12/1993, thì cộng sản Việt Nam đã bác bỏ sự thương lượng bí mật này nhưng không đưa ra bất cứ lời giải thích nào. Lê Ðức Anh đi thăm Trung Quốc và làm chậm trễ vụ tranh chấp này đến 50 năm. Có phải là Trung Quốc có thái độ vì sự vô ơn và những hứa hẹn trong quá khứ của Lê Ðức Anh?
3) Cộng Sản Việt Nam bán Quần Đảo Hoàng sa và Trường sa, nhưng bây giờ muốn nói không.
Theo tài liệu "Chủ quyền tuyệt đối của Trung Quốc trên quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa" của Bộ Ngoại giao Trung Quốc (Beijing Review, 18/2/1980), thì Hà Nội đã "dàn xếp" vấn đề này trong quá khứ. Đại khái họ đã bảo rằng:
- Hồi tháng 6 năm 1956, hai năm sau ngày chính phủ của ông Hồ Chí Minh đã được tái lập tại Hà Nội, Thứ trưởng Ngoại giao Bắc Việt Ung Văn Khiêm nói với Li Zhimin, Xử lý Thường vụ Toà Đại Sứ Trung quốc tại Bắc Việt, rằng "theo những dữ kiện của Việt nam, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là môt bô phận lịch sử của lãnh thổ Trung quốc".
- Ngày 4 tháng 9 năm 1958, chính phủ Trung Quốc đã tuyên bố bề rộng của lãnh hải Trung Quốc là mười hai hải lý, được áp dụng cho tất cả các lãnh thổ của nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, "bao gồm ... Quần Đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa ...". Mười ngày sau đó, Phạm Văn Đồng đã ghi rõ trong bản công hàm gởi cho Chu An Lai, rằng "Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa về vấn đề lãnh hải".
Ðây là của văn bản của nhà nước Việt Nam do Phạm Văn Ðồng ký gởi cho Chu Ân Lai vào ngày 14/9/1958 để ủng hộ cho lời tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc như theo sau:
Khi nước CHXHCN Việt Nam đã từ bỏ chủ nghĩa xã hội trên tất cả mọi mặt, ngoại trừ cái tên, thì họ vẫn ngần ngại không muốn thú nhận điều này. Chính sách kinh tế thị trường mà họ đang theo đuổi, dù sao, đã nói lên điều ngược lại.
Trong những năm chiến tranh, những trận đánh chống lại quân đội Mỹ và quân đội miền Nam Việt Nam, đã được chiến đấu dưới danh nghĩa của chủ nghĩa xã hội và nhận được sự ủng hộ của toàn thể thế giới cộng sản, đặc biệt là từ Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa.
Những trận đánh này đã đòi hỏi một sự hy sinh nặng nề về xương máu và tài nguyên của đất nước, là một cái giá mà người Việt Nam vẫn tiếp tục phải trả cho đến ngày hôm nay khi nhà nước CSVN đang cố gắng, một cách rất muộn màng, đặt việc phát triển kinh tế lên trên ý thức hệ chính trị. Cái ý thức hệ đó trong quá khứ đã buộc Hà Nội phải lựa chọn những chính sách mà khi nhìn lại thì không có vẻ gì là khôn ngoan cả. Và việc bóp méo ý thức hệ này đã gây cho họ nhiều thứ rắc rối khác hơn là chỉ đưa họ vào tình trạng khó xử với các đồng chí cộng sản đàn anh của họ ở Mạc Tư Khoa và Bắc Kinh. Ðôi khi nó cũng làm mờ mắt họ về những lập trường đứng đắn được khẳng định bởi kẻ thù của họ là chính phủ Sài Gòn .
Trong những ngày đó, chế độ Hà Nội rất hăng hái trong việc lên án chính quyền miền Nam, cho họ là những con rối của Mỹ, là những kẻ đã bán đứng quyền lợi của nhân dân Việt Nam. Ngay cả lúc đó, một điều rõ ràng là những lời cáo buộc này đã không có căn cứ. Bây giờ, 20 năm sau, cũng lại một điều rõ ràng là đã có những lúc mà chính quyền Sài Gòn đã thật sự đứng lên cho quyền lợi của dân tộc Việt Nam, một cách vô cùng mạnh mẽ, hơn xa cả cái chính quyền tại Hà Nội.
Một trường hợp để chứng minh cụ thể là vụ tranh chấp về quần đảo Hoàng Sa trên biển Nam Trung Hoa. Quần đảo Hoàng Sa, giống như quần đảo Trường Sa ở xa hơn về phía Nam, được tuyên bố chủ quyền bởi cả hai Trung Quốc và Việt Nam. Nhưng khi chế độ Hà Nội vẫn đang nhận viện trợ từ Bắc Kinh, thì họ im hơi lặng tiếng trong việc tuyên bố chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa. Quần đảo này đã bị chiếm đoạt bởi Trung Quốc sau một vụ đụng độ quân sự vào tháng Giêng năm 1974, lúc quân Trung Quốc đánh bại những người tự bảo vệ từ miền Nam Việt Nam. Từ đó, quần đảo này đã nằm dưới sự kiểm soát của Trung Quốc.
Sau khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt, có một sự bất đồng nhanh chóng giữa Bắc Kinh và Hà Nội, và chính quyền Hà Nội - vừa mới thống nhất với miền Nam - lại tái tuyên bố chủ quyền của mình trên quần đảo Hoàng Sa. Mặc dù đã có những cuộc đàm phán cao cấp giữa hai nước, nhưng vụ tranh chấp này vẫn chưa được giải quyết. Các chuyên gia của hai nước có hy vọng là sẽ gặp gỡ sớm sủa hơn để bàn thảo về những vấn đề chuyên môn, nhưng không chắc chắn là sẽ có một quyết định toàn bộ . Thật ra, một viên chức cao cấp của Việt Nam đã thú nhận rằng vấn đề sẽ được giải quyết bởi các thế hệ tương lai.
Dù không muốn phán đoán về những giá trị của lời tuyên bố chủ quyền của bất cứ bên nào, một điều rõ ràng là cương vị của phía Việt Nam đã bị yếu thế hơn vì sự im hơi lặng tiếng của Hà Nội khi quân đội Trung Quốc chiếm đoạt quần đảo Hoàng Sa. Sự thiếu sót của Hà Nội để phản đối trước hành động quân sự của nước ngoài bây giờ được dùng để quật ngược lại Việt Nam mỗi khi đề tài trên được nêu ra.
Giới thẩm quyền Việt Nam ngày hôm nay giải thích sự im lặng của họ vào thời điểm đó bằng cách nói rằng họ đã phải dựa vào viện trợ của Trung Quốc trong cuộc chiến chống Mỹ, vốn là kẻ thù chính yếu của họ lúc đó. Vậy thì một điều chắc chắn là, khi chiến tranh càng được chấm dứt sớm hơn thì quan hệ hữu nghị giữa Hà Nội và Bắc Kinh cũng như vậy .
Cộng thêm vào đó là những điều bị bóp méo mới toanh mà Hà Nội phải dùng đến để tăng thêm giá trị cho lời tuyên bố về chủ quyền của họ trên quần đảo Hoàng Sa. Bởi vì sự im lặng đồng ý ngầm trong quá khứ mà Hà Nội bó buộc phải tránh không dám dùng những lời tuyên bố chính thức của họ từ thập niên 1950 đến thập niên 1970, mà phải dùng những bản tuyên bố của chế độ Sài Gòn - tức là công nhận tính hợp pháp của của chính phủ miền Nam. Một cách rất sớm sủa, như vào năm 1956, chính phủ Sài Gòn đã công bố một thông cáo chính thức xác nhận chủ quyền của mình trên Hoàng Sa và Trường Sa.
Chế độ Sài Gòn cũng công bố một nghị định để bổ nhiệm nhân sự hành chánh cho quần đảo Hoàng Sa. Cho đến khi họ bị thất bại bởi lực lượng quân sự Trung Quốc vào năm 1974 (chỉ vài tháng trước khi miền Nam Việt Nam bị sụp đổ trước sự tấn công của cộng sản từ miền Bắc), thì chính phủ Sài Gòn vẫn tiếp tục tuyên bố chủ quyền của mình trên quần đảo Hoàng Sa.
Trong vài năm vừa qua, nước Nam Dương (Indonesia) đã bảo trợ cho các buổi hội thảo với tính cách phi chính phủ về vùng biển Nam Trung Hoa. Tại các buổi hội thảo lúc có lúc không này, phía Việt Nam một lần nữa lại thấy bối rối khi được yêu cầu giải thích về sự im lặng của họ hồi đó, khi Trung Quốc nắm giữ cái mà Việt Nam bây giờ tuyên bố là một phần của lãnh thổ họ. "Trong thời gian này", họ nói, "có những tình trạng rắc rối về chính trị và xã hội tại Việt Nam, cũng như trên thế giới, mà phía Trung Quốc đã lợi dụng, theo từng bước một, để dùng biện pháp quân sự chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa. Và Trung Quốc đã thu gọn toàn bộ Hoàng Sa vào năm 1974."
Với lợi thế của hai thập niên về lịch sử, bây giờ có thể thẩm định được những hành động của chính quyền miền Nam với một nhãn quan công minh hơn. Trong cái phúc lợi của việc hàn gắn vết thương chiến tranh, nếu không phải vì những chuyện khác, có lẽ điều khôn ngoan cho Hà Nội là nên xem xét lại quá khứ và trả lại cho Cesar những gì thuộc về Cesar. Và sự chống đỡ mãnh liệt của chính quyền Sài Gòn để bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa, đúng vào cái lúc mà chế độ Hà Nội đang bận rộn ve vuốt để nhận đặc ân từ Trung Quốc, là một hành động xuất sắc nên được công nhận.
Hồ Chí Minh đã có một lần được hỏi rằng ông ta ủng hộ Liên Sô hay ủng hộ Trung Quốc Ông ta đã trả lời rằng ông ta ủng hộ Việt Nam. Bây giờ là lúc để chế độ Hà Nội nhìn nhận rằng đã có lúc khi mà chính quyền Sài Gòn đã ủng hộ cho Việt Nam nhiều hơn là chính quyền của miền Bắc.
2) Ðằng sau những tuyên bố về chủ quyền trên hai quần đảo
Những gì đã xảy ra sau khi Hồ Chí Minh được quân đội của Mao Trạch Ðông và các đồng chí giúp nắm giữ quyền lực tại miền Bắc Việt Nam.
Việt Nam tuyên bố chủ quyền trên "quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa" dựa trên các tài liệu xưa cũ và đặc biệt là tập bút ký "Phủ Biên Tập Lục" của Lê Quý Ðôn. Việt Nam gọi hai quần đảo này là Hoàng Sa (Paracels) và Trường Sa (Spratlys); Trung Quốc gọi là Tây Sa (Xisha) và Nam Sa (Nansha). Người Việt Nam đã đụng độ với nước Cộng hoà Nhân dân Trung hoa vào ngày 19/1/1974 với kết qủa là một tàu lớn của Hải quân miền Nam cũ bị đắm và 40 thuỷ thủ bị bắt. Vào tháng 3/1988 nước Cộng hoà Nhân dân Trung hoa lại đến và đánh chìm 3 tàu của Việt Nam, 72 thuỷ thủ bị thiệt mạng và 9 bị bắt. Vào ngày 25/2/1992, nước Cộng hoà Nhân dân Trung hoa tuyên bố quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của họ.
Lý do chính để Trung Quốc làm như thế đã được biết đến trước đây như một phần của kế hoạch gọi là "Không gian sinh tồn", bởi vì tài nguyên thiên nhiên của hai vùng Mãn Châu và Tân Cương sẽ bị cạn kiệt sớm. Ðể làm điều này, Trung Quốc bắt đầu bằng phần dễ nhất – là cái mà cộng sản Việt Nam đã hứa trước đây. Có nghĩa là Trung Quốc căn cứ vào một sự thương lượng bí mật trong qúa khứ. Trong một bản tin của hãng thông tấn Reuters ngày 30/12/1993, thì cộng sản Việt Nam đã bác bỏ sự thương lượng bí mật này nhưng không đưa ra bất cứ lời giải thích nào. Lê Ðức Anh đi thăm Trung Quốc và làm chậm trễ vụ tranh chấp này đến 50 năm. Có phải là Trung Quốc có thái độ vì sự vô ơn và những hứa hẹn trong quá khứ của Lê Ðức Anh?
3) Cộng Sản Việt Nam bán Quần Đảo Hoàng sa và Trường sa, nhưng bây giờ muốn nói không.
Theo tài liệu "Chủ quyền tuyệt đối của Trung Quốc trên quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa" của Bộ Ngoại giao Trung Quốc (Beijing Review, 18/2/1980), thì Hà Nội đã "dàn xếp" vấn đề này trong quá khứ. Đại khái họ đã bảo rằng:
- Hồi tháng 6 năm 1956, hai năm sau ngày chính phủ của ông Hồ Chí Minh đã được tái lập tại Hà Nội, Thứ trưởng Ngoại giao Bắc Việt Ung Văn Khiêm nói với Li Zhimin, Xử lý Thường vụ Toà Đại Sứ Trung quốc tại Bắc Việt, rằng "theo những dữ kiện của Việt nam, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là môt bô phận lịch sử của lãnh thổ Trung quốc".
- Ngày 4 tháng 9 năm 1958, chính phủ Trung Quốc đã tuyên bố bề rộng của lãnh hải Trung Quốc là mười hai hải lý, được áp dụng cho tất cả các lãnh thổ của nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, "bao gồm ... Quần Đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa ...". Mười ngày sau đó, Phạm Văn Đồng đã ghi rõ trong bản công hàm gởi cho Chu An Lai, rằng "Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa về vấn đề lãnh hải".
Ðây là của văn bản của nhà nước Việt Nam do Phạm Văn Ðồng ký gởi cho Chu Ân Lai vào ngày 14/9/1958 để ủng hộ cho lời tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc như theo sau:
Thưa Đồng chí Tổng lý,
Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý rõ:
Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố , ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng Hoà Nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung-quốc.
Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung-quốc, trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa trên mặt bể.
Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng.
Hà-nội, ngày 14 tháng 9 năm 1958
PHẠM VĂN ĐỒNG
Thủ tướng Chính Phủ
Nước Việt-nam Dân chủ Cộng Hòa
Thêm một điều cần ghi nhận là Cộng Hoà
Nhân Dân Trung Hoa (PRC) đã chỉ đe dọa những lãnh thổ mà Việt
Nam đã tuyên bố là của mình, và để yên cho các nước khác. Rõ ràng
là ông Hồ Chí Minh qua Phạm Văn Đồng, đã tặng cho Cộng Hoà Nhân
Dân Trung Hoa "một cái bánh bao lớn"
bởi vì lúc đó ông Hồ Chí Minh đang chuẩn bị cho công cuộc xâm
lăng miền Nam Việt Nam. Ông Hồ cần sự viện trợ khổng lồ và đã
nhắm mắt để nhận tất cả những điều kiện của Bắc Kinh. Đối với ông
ta, việc bán "trên giấy tờ" hai quần đảo lúc đó vẫn thuộc về miền Nam Việt Nam là một điều dễ dàng.
Vì sự việc này mà Cộng sản Việt Nam đã chờ một buổi họp của các quốc gia khối ASEAN tại Manila, để dùng cơ hội này như một cái phao an toàn và ký ngay một văn kiện đòi hỏi những quốc gia này giúp Việt Nam giải quyết vấn đề "một cách công bình"
Về phía Trung Quốc, sau khi đã lấy được những đảo của Cộng sản Việt Nam, họ đã tỏ thái độ ôn hòa đối với Mã Lai Á và Phi Luật Tân, và bảo rằng Trung Quốc sẵn sàng thương lượng các khu vực tài nguyên với các quốc gia này, và gạt Việt Nam qua một bên. Trung Quốc đã nói họ sẽ không tán thành bất cứ quốc gia nào can thiệp vào vấn đề giữa họ và Cộng sản Việt Nam.
Sau đó, Phạm Văn Đồng đã chối bỏ việc làm sai lầm của ông ta trong quá khứ, trong một ấn bản của Tạp chí Kinh tế Viễn Đông ngày 16/3/1979. Đại khái, ông ấy nói lý do mà ông ấy đã làm bởi vì lúc đó là "thời kỳ chiến tranh". Đây là một đoạn văn trích từ bài báo này ở trang số 11:
"Theo ông Li (Phó Thủ tướng Trung quốc Li Xiannian), Trung quốc đã sẵn sàng chia chác vùng vịnh "mỗi bên một nửa" với Việt Nam, nhưng trên bàn thương lượng, Hà Nội đã vẽ đường kiểm soát của Việt Nam đến gần Đảo Hải Nam. Ông Li cũng đã nói rằng vào năm 1956 (hay 1958 ?), Thủ tướng Việt Nam Phạm văn Đồng đã ủng hộ một bản tuyên bố của Trung Quốc về chủ quyền của họ trên Quần Đảo Trường Sa Và Hoàng Sa, nhưng từ cuối năm 1975, Việt Nam đã kiểm soát một phần của nhóm đảo Trường Sa - nhóm đảo Hoàng Sa thì đã nằm dưới sự kiểm soát bởi Trung Quốc. Năm 1977, theo lời tường thuật thì ông Đồng đã biện hộ cho lập trường của ông ấy hồi năm 1956: "Lúc đó là thời kỳ chiến tranh và tôi đã phải nói như vậy"."
Vì hăng hái muốn tạo ra một cuộc chiến thê thảm cho cả hai miền Nam Bắc, và góp phần vào phong trào quốc tế cộng sản, ông Hồ Chí Minh đã hứa, mà không có sự tự trọng, một phần đất "tương lai" để cho Trung Quốc nắm lấy, mà không biết chắc chắn là có thể nào sẽ nuốt được miền Nam Việt Nam hay không.
Như ông Đồng đã nói, "Lúc đó là thời kỳ chiến tranh và tôi đã phải nói như vậy". Vậy thì ai đã tạo ra cuộc chiến Việt Nam và sẵn sàng làm tất cả mọi sự có thể làm được để chiếm miền Nam, ngay cả việc bán đất ? Bán đất trong thời chiến và khi cuộc chiến đã chấm dứt, Phạm Văn Đồng lại chối bỏ điều đó bằng cách bịa đặt ra việc đổ thừa cho chiến tranh.
4) Trong cuốn "Vấn đề tranh chấp lãnh thổ Hoa -Việt" của Pao-min-Chang thuộc tủ sách The Washington Papers, do Douglas Pike viết lời nói đầu, được Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và Quốc tế thuộc Ðại học Georgetown , Washington D.C. xuất bản
Ngoài cái khoảng cách về địa lý, cả hai nhóm quần đảo này nằm ngoài phía bờ biển của miền Nam Việt Nam và vẫn dưới sự quản lý hành chánh của chế độ Sài Gòn vốn không thân thiện gì. Hà Nội đơn giản là không ở trong cái tư thế để đặt vấn đề với cả Trung Quốc lẫn sức mạnh của hải quân Mỹ cùng một lúc. Do đó, vào ngày 15/6/1956, Thủ tướng Phạm Văn Ðồng đã nóì với phía Trung Quốc: "Từ quan điểm của lịch sử, thì những quần đảo này thuộc về lãnh thổ Trung Quốc" (Beijing Review 30/3/1979, trang 20 – Cũng trong báo Far East Economic Review 16/3/1979, trang 11).
Hồi tháng 9 năm 1958, khi Trung Quốc, trong bản tuyên bố của họ về việc gia tăng bề rộng của lãnh hải của họ đến 12 hải lý, đã xác định rằng quyết định đó áp dụng cho tất cả các lãnh thổ của Trung Quốc, bao gồm cả Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, một lần nữa Hà Nội đã lên tiếng nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc trên 2 quần đảo đó. Ông Phạm Văn Đồng đã ghi nhận trong bản công hàm gởi cho lãnh tụ Trung Quốc Chu An Lai ngày 14/9/1958: "Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng Hoà Nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung-quốc" (xem Beijing Review 19/6/1958, trang 21 -- Beijing Review 25/8/1979, trang 25 -- Sự tồn tại của bản công hàm đó và tất cả nội dung đã được xác nhận tại Việt Nam trong BBC/FE, số 6189, ngày 9/8/1979, trang số 1.)
5) Tại sao ?
Theo ông Carlyle A Thayer, tác giả bài "Sự tái điều chỉnh chiến lược của Việt Nam" trong bộ tài liệu "Trung Quốc như một Sức mạnh Vĩ đại trong vùng Á châu Thái Bình Dương" của Stuart Harris và Gary Klintworth [Melbourne: Longman Cheshire Pty Ltd., forthcoming 1994] :
Phía Việt Nam, trong khi theo đuổi quyền lợi quốc gia, đã thực hiện nhiều hành động mà theo quan điểm của Trung Quốc thì có vẻ khiêu khích cao độ. Thí dụ như, trong công cuộc đấu tranh trường kỳ dành độc lập, Việt Nam đã không biểu lộ sự chống đối công khai nào khi Trung Quốc tuyên bố chủ quyền của họ trên biển Nam Trung Hoa và đúng ra lại tán thành họ. Nhưng sau khi thống nhất đất nước, Việt Nam đã đổi ngược lập trường. Năm 1975, Việt Nam đã chiếm đóng một số hải đảo trong quần đảo Trường Sa và sau đó đã tiến hành việc tuyên bố chủ quyền lãnh thổ trên toàn bộ biển Nam Trung Hoa.
Như Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm đã thú nhận:
"Các nhà lãnh đạo của chúng tôi đã có tuyên bố lúc trước về Hoàng Sa và Trường Sa dựa trên tinh thần sau: Lúc đó, theo Hiệp định Geneve 1954 về Đông Dương, các lãnh thổ từ vĩ tuyến 17 về phía nam, bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là đặt dưới sự kiểm soát của chính quyền miền Nam. Hơn nữa, Việt Nam đã phải tập trung tất cả các lực lượng quân sự cho mục tiêu cao nhất để chống lại cuộc chiến tranh hung hãn của Mỹ, nhằm bảo vệ nền độc lập quốc gia. Việt Nam đã phải kêu gọi sự ủng hộ của bè bạn trên toàn thế giới. Đồng thời, tình hữu nghị Hoa-Việt rất thân cận và hai nước tin tưởng lẫn nhau. Trung Quốc đã cho Việt Nam một sự ủng hộ rất vĩ đại và giúp đỡ vô giá. Trong tinh thần đó và bắt nguồn từ những đòi hỏi khẩn cấp nêu trên, tuyên bố của các nhà lãnh đạo của chúng tôi [ủng hộ Trung Quốc trong việc tuyên bố chủ quyền của họ trên Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa] là cần thiết vì nó trực tiếp phục vụ cho cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập và tự do cho tổ quốc."
Đặc biệt thêm nữa là cái tuyên bố đó để nhắm vào việc đạt yêu cầu cho những nhu cầu cấp thiết vào lúc bấy giờ để ngăn ngừa bọn tư bản Mỹ dùng những hải đảo này để tấn công chúng tôi. Nó không có dính dáng gì đến nền tảng lịch sử và pháp lý trong chủ quyền của Việt Nam về hai quần đảo Hoàng Sa Và Trường Sa" (Tuyên bố trong một buổi họp báo tại Hà Nội ngày 2/12/1992, được loan tải bởi Thông Tấn Xã Việt Nam ngày 3/12/1992)
Những ghi nhận này cho thấy rằng tất cả những điều mà Trung Quốc đã tố cáo phía trên là sự thật. Những gì xảy ra ngày hôm nay mà có liên hệ đến hai quần đảo này chỉ là những hậu quả của sự dàn xếp mờ ám của hai người cộng sản anh em trong qúa khứ.
Không một ai trong cộng đồng thế giới muốn bước vào để dàn xếp sự bất đồng giữa Cộng sản Việt Nam và Trung Quốc. Lý do rất rõ ràng: cái công hàm ngoại giao và sự nhìn nhận của Cộng sản Việt Nam không thể nào xoá bỏ được bởi một nước nhỏ như Việt Nam, kẻ đã muốn chơi đểu để lừa dối Trung Quốc. Hơn nữa, Cộng sản Việt Nam không thể nào tránh được Trung Quốc trong khi họ phải bắt chước theo chính sách "đổi mới" của Trung Quốc để tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Vì sự việc này mà Cộng sản Việt Nam đã chờ một buổi họp của các quốc gia khối ASEAN tại Manila, để dùng cơ hội này như một cái phao an toàn và ký ngay một văn kiện đòi hỏi những quốc gia này giúp Việt Nam giải quyết vấn đề "một cách công bình"
Về phía Trung Quốc, sau khi đã lấy được những đảo của Cộng sản Việt Nam, họ đã tỏ thái độ ôn hòa đối với Mã Lai Á và Phi Luật Tân, và bảo rằng Trung Quốc sẵn sàng thương lượng các khu vực tài nguyên với các quốc gia này, và gạt Việt Nam qua một bên. Trung Quốc đã nói họ sẽ không tán thành bất cứ quốc gia nào can thiệp vào vấn đề giữa họ và Cộng sản Việt Nam.
Sau đó, Phạm Văn Đồng đã chối bỏ việc làm sai lầm của ông ta trong quá khứ, trong một ấn bản của Tạp chí Kinh tế Viễn Đông ngày 16/3/1979. Đại khái, ông ấy nói lý do mà ông ấy đã làm bởi vì lúc đó là "thời kỳ chiến tranh". Đây là một đoạn văn trích từ bài báo này ở trang số 11:
"Theo ông Li (Phó Thủ tướng Trung quốc Li Xiannian), Trung quốc đã sẵn sàng chia chác vùng vịnh "mỗi bên một nửa" với Việt Nam, nhưng trên bàn thương lượng, Hà Nội đã vẽ đường kiểm soát của Việt Nam đến gần Đảo Hải Nam. Ông Li cũng đã nói rằng vào năm 1956 (hay 1958 ?), Thủ tướng Việt Nam Phạm văn Đồng đã ủng hộ một bản tuyên bố của Trung Quốc về chủ quyền của họ trên Quần Đảo Trường Sa Và Hoàng Sa, nhưng từ cuối năm 1975, Việt Nam đã kiểm soát một phần của nhóm đảo Trường Sa - nhóm đảo Hoàng Sa thì đã nằm dưới sự kiểm soát bởi Trung Quốc. Năm 1977, theo lời tường thuật thì ông Đồng đã biện hộ cho lập trường của ông ấy hồi năm 1956: "Lúc đó là thời kỳ chiến tranh và tôi đã phải nói như vậy"."
Vì hăng hái muốn tạo ra một cuộc chiến thê thảm cho cả hai miền Nam Bắc, và góp phần vào phong trào quốc tế cộng sản, ông Hồ Chí Minh đã hứa, mà không có sự tự trọng, một phần đất "tương lai" để cho Trung Quốc nắm lấy, mà không biết chắc chắn là có thể nào sẽ nuốt được miền Nam Việt Nam hay không.
Như ông Đồng đã nói, "Lúc đó là thời kỳ chiến tranh và tôi đã phải nói như vậy". Vậy thì ai đã tạo ra cuộc chiến Việt Nam và sẵn sàng làm tất cả mọi sự có thể làm được để chiếm miền Nam, ngay cả việc bán đất ? Bán đất trong thời chiến và khi cuộc chiến đã chấm dứt, Phạm Văn Đồng lại chối bỏ điều đó bằng cách bịa đặt ra việc đổ thừa cho chiến tranh.
4) Trong cuốn "Vấn đề tranh chấp lãnh thổ Hoa -Việt" của Pao-min-Chang thuộc tủ sách The Washington Papers, do Douglas Pike viết lời nói đầu, được Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và Quốc tế thuộc Ðại học Georgetown , Washington D.C. xuất bản
Ngoài cái khoảng cách về địa lý, cả hai nhóm quần đảo này nằm ngoài phía bờ biển của miền Nam Việt Nam và vẫn dưới sự quản lý hành chánh của chế độ Sài Gòn vốn không thân thiện gì. Hà Nội đơn giản là không ở trong cái tư thế để đặt vấn đề với cả Trung Quốc lẫn sức mạnh của hải quân Mỹ cùng một lúc. Do đó, vào ngày 15/6/1956, Thủ tướng Phạm Văn Ðồng đã nóì với phía Trung Quốc: "Từ quan điểm của lịch sử, thì những quần đảo này thuộc về lãnh thổ Trung Quốc" (Beijing Review 30/3/1979, trang 20 – Cũng trong báo Far East Economic Review 16/3/1979, trang 11).
Hồi tháng 9 năm 1958, khi Trung Quốc, trong bản tuyên bố của họ về việc gia tăng bề rộng của lãnh hải của họ đến 12 hải lý, đã xác định rằng quyết định đó áp dụng cho tất cả các lãnh thổ của Trung Quốc, bao gồm cả Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, một lần nữa Hà Nội đã lên tiếng nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc trên 2 quần đảo đó. Ông Phạm Văn Đồng đã ghi nhận trong bản công hàm gởi cho lãnh tụ Trung Quốc Chu An Lai ngày 14/9/1958: "Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng Hoà Nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung-quốc" (xem Beijing Review 19/6/1958, trang 21 -- Beijing Review 25/8/1979, trang 25 -- Sự tồn tại của bản công hàm đó và tất cả nội dung đã được xác nhận tại Việt Nam trong BBC/FE, số 6189, ngày 9/8/1979, trang số 1.)
5) Tại sao ?
Theo ông Carlyle A Thayer, tác giả bài "Sự tái điều chỉnh chiến lược của Việt Nam" trong bộ tài liệu "Trung Quốc như một Sức mạnh Vĩ đại trong vùng Á châu Thái Bình Dương" của Stuart Harris và Gary Klintworth [Melbourne: Longman Cheshire Pty Ltd., forthcoming 1994] :
Phía Việt Nam, trong khi theo đuổi quyền lợi quốc gia, đã thực hiện nhiều hành động mà theo quan điểm của Trung Quốc thì có vẻ khiêu khích cao độ. Thí dụ như, trong công cuộc đấu tranh trường kỳ dành độc lập, Việt Nam đã không biểu lộ sự chống đối công khai nào khi Trung Quốc tuyên bố chủ quyền của họ trên biển Nam Trung Hoa và đúng ra lại tán thành họ. Nhưng sau khi thống nhất đất nước, Việt Nam đã đổi ngược lập trường. Năm 1975, Việt Nam đã chiếm đóng một số hải đảo trong quần đảo Trường Sa và sau đó đã tiến hành việc tuyên bố chủ quyền lãnh thổ trên toàn bộ biển Nam Trung Hoa.
Như Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm đã thú nhận:
"Các nhà lãnh đạo của chúng tôi đã có tuyên bố lúc trước về Hoàng Sa và Trường Sa dựa trên tinh thần sau: Lúc đó, theo Hiệp định Geneve 1954 về Đông Dương, các lãnh thổ từ vĩ tuyến 17 về phía nam, bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là đặt dưới sự kiểm soát của chính quyền miền Nam. Hơn nữa, Việt Nam đã phải tập trung tất cả các lực lượng quân sự cho mục tiêu cao nhất để chống lại cuộc chiến tranh hung hãn của Mỹ, nhằm bảo vệ nền độc lập quốc gia. Việt Nam đã phải kêu gọi sự ủng hộ của bè bạn trên toàn thế giới. Đồng thời, tình hữu nghị Hoa-Việt rất thân cận và hai nước tin tưởng lẫn nhau. Trung Quốc đã cho Việt Nam một sự ủng hộ rất vĩ đại và giúp đỡ vô giá. Trong tinh thần đó và bắt nguồn từ những đòi hỏi khẩn cấp nêu trên, tuyên bố của các nhà lãnh đạo của chúng tôi [ủng hộ Trung Quốc trong việc tuyên bố chủ quyền của họ trên Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa] là cần thiết vì nó trực tiếp phục vụ cho cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập và tự do cho tổ quốc."
Đặc biệt thêm nữa là cái tuyên bố đó để nhắm vào việc đạt yêu cầu cho những nhu cầu cấp thiết vào lúc bấy giờ để ngăn ngừa bọn tư bản Mỹ dùng những hải đảo này để tấn công chúng tôi. Nó không có dính dáng gì đến nền tảng lịch sử và pháp lý trong chủ quyền của Việt Nam về hai quần đảo Hoàng Sa Và Trường Sa" (Tuyên bố trong một buổi họp báo tại Hà Nội ngày 2/12/1992, được loan tải bởi Thông Tấn Xã Việt Nam ngày 3/12/1992)
Những ghi nhận này cho thấy rằng tất cả những điều mà Trung Quốc đã tố cáo phía trên là sự thật. Những gì xảy ra ngày hôm nay mà có liên hệ đến hai quần đảo này chỉ là những hậu quả của sự dàn xếp mờ ám của hai người cộng sản anh em trong qúa khứ.
Không một ai trong cộng đồng thế giới muốn bước vào để dàn xếp sự bất đồng giữa Cộng sản Việt Nam và Trung Quốc. Lý do rất rõ ràng: cái công hàm ngoại giao và sự nhìn nhận của Cộng sản Việt Nam không thể nào xoá bỏ được bởi một nước nhỏ như Việt Nam, kẻ đã muốn chơi đểu để lừa dối Trung Quốc. Hơn nữa, Cộng sản Việt Nam không thể nào tránh được Trung Quốc trong khi họ phải bắt chước theo chính sách "đổi mới" của Trung Quốc để tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Palawan Sun: Bắc Việt Nam ủng hộ Tuyên bố 1958 của Trung Quốc
|
|
Tuyên bố của Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà (1974)
Nhiệm vụ cao cả và cần thiết của một
chính phủ là bảo vệ chủ quyền, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ quốc
gia. Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà cương quyết thi hành nhiệm vụ
này, bất kể những khó khăn có thể sẽ gặp phải và bất kể những cáo
buộc vô căn cứ có thể sẽ đến bất cứ từ đâu.Trước sự chiếm đóng bất hợp pháp của Trung Cộng bằng quân sự trên Quần đảo Hoàng Sa, nguyên là một phần đất thuộc lãnh thổ Việt Nam Cộng Hoà, Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà xét thấy cần thiết phải long trọng tuyên bố trước công luận thế giới, bạn cũng như thù, rằng:
Quần đảo Hoàng Sa và Quần đảo Trường Sa là một phần không thể cắt rời của lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa. Chính phủ và toàn dân Việt Nam Cộng Hòa sẽ không khuất phục trước bạo lực và bác bỏ tất cả hoặc một phần chủ quyền của họ trên những quần đảo này.
Chừng nào mà bất cứ một hòn đảo nào của phần lãnh thổ đó của Việt Nam Cộng Hòa vẫn bị một nước khác chiếm đóng bằng bạo lực, thì Chính phủ và toàn dân Việt Nam Cộng Hòa sẽ tiếp tục tranh đấu để lấy lại quyền lợi hợp pháp của mình.
Kẻ chiếm đóng bất hợp pháp sẽ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về bất cứ tình trạng căng thẳng nào bắt nguồn từ đó.
Nhân cơ hội này, Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cũng long trọng tái xác nhận chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa trên các hải đảo ngoài khơi miền Trung và Nam phần Việt Nam, đã luôn luôn được chấp nhận như một phần lãnh thổ của Việt Nam Cộng Hòa trên căn bản không thể chối cãi được về địa lý, lịch sử, chứng cứ hợp pháp và bởi vì những điều thực tế.
Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cương quyết bảo vệ chủ quyền quốc gia trên những quần đảo này bằng tất cả mọi phương tiện. Ðể gìn giữ truyền thống tôn trọng hoà bình, Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa sẵn sàng giải quyết, bằng sự thương lượng, về các tranh chấp quốc tế có thể bắt nguồn từ các quần đảo đó, nhưng điều đó không có nghĩa là Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa sẽ từ bỏ chủ quyền của mình trên bất cứ phần lãnh thổ nào của quốc gia.
Tuyên bố bởi Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa vào ngày 14 tháng 2 năm 1974
Tuyên bố của Bộ Ngoại giao nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam về Quần đảo Hoàng Sa và Quần đảo Trường Sa (1979)
Vào ngày 30/7/1979, Trung Quốc đã công khai công bố tại Bắc Kinh một số tài liệu với ý định để minh chứng cho việc tuyên bố chủ quyền của họ trên quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Về vấn đề này, Bộ Ngoại giao nước Cộng hoà Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam tuyên bố:
1. Quần đảo Hoàng Sa và Quần đảo Trường Sa là một phần của lãnh thổ Việt Nam. Các Sứ quân Việt Nam đã là những người đầu tiên trong lịch sử đến chiếm đóng, tổ chức, kiểm soát và khai phá các quần đảo này trong chức năng của họ như là các lãnh chúa. Quyền sở hữu này có hiệu quả và phù hợp với luật pháp quốc tế. Chúng tôi có đầy đủ các tài liệu lịch sử và luật pháp để chứng minh chủ quyền tuyệt đối trên hai quần đảo này.
2. Sự diễn giải của Trung quốc về văn bản ngày 14 tháng 9 năm 1958 của Thủ tướng nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà như một sự công nhận chủ quyền của phiá Trung quốc trên các quần đảo là một sự xuyên tạc trắng trợn khi tinh thần và ý nghĩa của bản văn chỉ có ý định công nhận giới hạn 12 hải lý của lãnh hải Trung quốc.
3. Năm 1965, Hoa Kỳ gia tăng cuộc chiến tranh xâm lược tại miền Nam Việt Nam và phát động một cuộc chiến huỷ diệt bằng không quân và hải quân chống lại miền Bắc Việt Nam. Họ đã tuyên bố rằng khu vực chiến trường của quân đội Hoa Kỳ bao gồm Việt Nam và vùng lân cận của khu vực khoảng 100 hải lý tính từ bờ biển Việt Nam. Vào lúc đó, trong cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước, nhân dân Việt Nam đã phải chiến đấu trong mọi tình huống để bảo vệ chủ quyền đất nước. Thêm nữa, Việt Nam và Trung Quốc lúc đó vẫn duy trì quan hệ hữu nghị. Bản tuyên bố ngày 9/5/1965 của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã đưa ra lý do để tồn tại chỉ với quá trình lịch sử này.
4. Từ năm 1972, theo sau Bản Thông cáo chung Thượng Hải, những kẻ cai trị Trung Quốc đã âm mưu với bọn hiếu chiến Mỹ để phản bội nhân dân Việt Nam, gây ra biết bao nhiêu trở ngại cho cuộc chiến tranh tự vệ của Việt Nam. Ðầu Tháng Giêng 1974, chỉ trước khi nhân dân Việt Nam toàn thắng vào mùa Xuân 1975, Trung Quốc đã chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa bằng biện pháp quân sự, lúc đó vẫn dưới sự quản lý của chính quyền Sài Gòn.
Việt Nam Cộng Hòa lúc đó đã tuyên bố rõ ràng cương vị của họ như sau đây:
- Chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là những câu hỏi thiêng liêng cho tất cả mọi quốc gia.
- Những khó khăn về biên giới lãnh thổ, thường tồn tại trong các cuộc tranh chấp giữa các nước láng giềng do lịch sử để lại, có thể vô cùng rắc rối và nên được nghiên cứu kỹ càng.
- Các quốc gia quan tâm nên cứu xét vấn đề này trong tinh thần công bằng, tôn trọng lẫn nhau, hòa nhã, láng giềng tốt và giải quyết vấn đề bằng sự thương lượng.
5. Tại các cuộc thảo luận tổ chức vào ngày 24/9/1975 với phái đoàn Ðảng và Nhà nước Việt Nam trong chuyến thăm viếng Trung Quốc, Phó Thủ tướng Ðặng Tiểu Bình đã thú nhận rằng có sự tranh chấp giữa hai bên về vấn đề quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và hai bên sau đó nên bàn thảo với nhau để giải quyết vấn đề
Vào ngày 30/7/1979, Trung Quốc đã công khai công bố tại Bắc Kinh một số tài liệu với ý định để minh chứng cho việc tuyên bố chủ quyền của họ trên quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Về vấn đề này, Bộ Ngoại giao nước Cộng hoà Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam tuyên bố:
1. Quần đảo Hoàng Sa và Quần đảo Trường Sa là một phần của lãnh thổ Việt Nam. Các Sứ quân Việt Nam đã là những người đầu tiên trong lịch sử đến chiếm đóng, tổ chức, kiểm soát và khai phá các quần đảo này trong chức năng của họ như là các lãnh chúa. Quyền sở hữu này có hiệu quả và phù hợp với luật pháp quốc tế. Chúng tôi có đầy đủ các tài liệu lịch sử và luật pháp để chứng minh chủ quyền tuyệt đối trên hai quần đảo này.
2. Sự diễn giải của Trung quốc về văn bản ngày 14 tháng 9 năm 1958 của Thủ tướng nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà như một sự công nhận chủ quyền của phiá Trung quốc trên các quần đảo là một sự xuyên tạc trắng trợn khi tinh thần và ý nghĩa của bản văn chỉ có ý định công nhận giới hạn 12 hải lý của lãnh hải Trung quốc.
3. Năm 1965, Hoa Kỳ gia tăng cuộc chiến tranh xâm lược tại miền Nam Việt Nam và phát động một cuộc chiến huỷ diệt bằng không quân và hải quân chống lại miền Bắc Việt Nam. Họ đã tuyên bố rằng khu vực chiến trường của quân đội Hoa Kỳ bao gồm Việt Nam và vùng lân cận của khu vực khoảng 100 hải lý tính từ bờ biển Việt Nam. Vào lúc đó, trong cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước, nhân dân Việt Nam đã phải chiến đấu trong mọi tình huống để bảo vệ chủ quyền đất nước. Thêm nữa, Việt Nam và Trung Quốc lúc đó vẫn duy trì quan hệ hữu nghị. Bản tuyên bố ngày 9/5/1965 của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã đưa ra lý do để tồn tại chỉ với quá trình lịch sử này.
4. Từ năm 1972, theo sau Bản Thông cáo chung Thượng Hải, những kẻ cai trị Trung Quốc đã âm mưu với bọn hiếu chiến Mỹ để phản bội nhân dân Việt Nam, gây ra biết bao nhiêu trở ngại cho cuộc chiến tranh tự vệ của Việt Nam. Ðầu Tháng Giêng 1974, chỉ trước khi nhân dân Việt Nam toàn thắng vào mùa Xuân 1975, Trung Quốc đã chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa bằng biện pháp quân sự, lúc đó vẫn dưới sự quản lý của chính quyền Sài Gòn.
Việt Nam Cộng Hòa lúc đó đã tuyên bố rõ ràng cương vị của họ như sau đây:
- Chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là những câu hỏi thiêng liêng cho tất cả mọi quốc gia.
- Những khó khăn về biên giới lãnh thổ, thường tồn tại trong các cuộc tranh chấp giữa các nước láng giềng do lịch sử để lại, có thể vô cùng rắc rối và nên được nghiên cứu kỹ càng.
- Các quốc gia quan tâm nên cứu xét vấn đề này trong tinh thần công bằng, tôn trọng lẫn nhau, hòa nhã, láng giềng tốt và giải quyết vấn đề bằng sự thương lượng.
5. Tại các cuộc thảo luận tổ chức vào ngày 24/9/1975 với phái đoàn Ðảng và Nhà nước Việt Nam trong chuyến thăm viếng Trung Quốc, Phó Thủ tướng Ðặng Tiểu Bình đã thú nhận rằng có sự tranh chấp giữa hai bên về vấn đề quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và hai bên sau đó nên bàn thảo với nhau để giải quyết vấn đề
6. Chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa một cách
bất hợp pháp bằng quân sự, Trung Quốc đã xâm phạm vào sự toàn
vẹn lãnh thổ của Việt Nam và dẫm chân lên làm cản trở tinh thần
của Hiến chương Liên Hiệp Quốc kêu gọi giải quyết tất cả các
tranh chấp bằng thương lượng hoà bình. Sau khi phát động một cuộc
chiến xâm lược Việt Nam với tầm vóc to lớn, phía Trung Quốc lại nêu
ra vấn đề quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, trong khi tạo ra một
tình trạng càng ngày càng căng thẳng dọc theo biên giới Việt Nam
và từ chối việc thảo luận những giải pháp cấp thiết để bảo đảm
hoà bình và ổn định trong khu vực biên giới giữa hai nước. Ðiều
rõ ràng là những kẻ cai trị Trung Quốc vẫn không từ bỏ ý định tấn
công Việt Nam một lần nữa. Hành động của họ là một sự đe doạ
nghiêm trọng cho hoà bình và ổn định trong vùng Ðông Nam Á và làm lộ
rõ hơn tham vọng bành trướng, với bản chất bá quyền hiếu chiến của
một nước lớn, bộ mặt xảo trá lật lọng và phản bội của họ.
Hà Nội, ngày 7 tháng 8 năm 1979
Hà Nội, ngày 7 tháng 8 năm 1979
Bộ Ngoại giao Trung Quốc diễn giải về Công Hàm Bán Nước
|
Công nhận của thế giới về chủ quyền của Trung Quốc trên Quần đảo Trường Sa
5. Việt Nam
a) Thứ trưởng
ngoại giao Ðồng văn Khiêm của Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hòa khi tiếp ông Li Zhimin, xử lý thường vụ
Toà Ðại Sứ Trung quốc tại Việt Nam đã nói rằng
"theo những dữ kiện của Việt nam, hai quần đảo
Hoàng sa và Trường sa là môt bô phận lịch sử của lãnh thổ
Trung quốc". Ông Le Doc, quyền Vụ trưởng Á châu Sự vụ thuộc
Bộ Ngoại giao Việt nam, cũng có mặt lúc đó, đã nói
thêm rằng "xét về mặt lịch sử thì các quần đảo này
đã hoàn toàn thuộc về Trung quốc từ thời nhà
Tống"
b)
Báo Nhân Dân của Việt Nam đã tường thuật rất chi
tiết trong số xuất bản ngày 6/9/1958 về Bản
Tuyên Bố ngày 4/9/1958 của Nhà nước Trung quốc,
rằng kích thước lãnh hải của nước Cộng Hoà Nhân
dân Trung Hoa là 12 hải lý và điều này được áp dụng
cho tất cả các lãnh thổ của phía Trung quốc, bao gồm tất cả
các quần đảo trên biển Nam Trung Hoa. Ngày 14/9 cùng
năm đó, Thủ tướng Phạm Văn Ðồng của phía nhà nước
Việt Nam, trong bản công hàm gởi cho Thủ tướng
Chu An Lai, đã thành khẩn tuyên bố rằng Việt Nam
"nhìn nhận và ủng hộ Bản Tuyên Bố của Nhà nước
Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa trong vấn đề lãnh
hải"
c)
Bài học về nước CHND Trung Hoa trong giáo trình
cơ bản của môn địa lý của Việt Nam xuất bản năm
1974, đã ghi nhận rằng các quần đảo từ Trường Sa
và Hoàng Sa đến đảo Hải Nam và Ðài Loan hình
thành một bức tường phòng thủ vĩ đại cho lục địa
Trung Hoa .
Trích và lược dịch từ trang nhà của Bộ Ngoại Giao Trung Quốc
No comments:
Post a Comment