VIỆT NAM (NV) – Năm tới, một hàng không mẫu hạm của Hoa Kỳ sẽ ghé thăm Việt Nam. Trong bối cảnh như hiện nay, yếu tố này trở thành một sự kiện nhưng sự kiện đó sẽ vô nghĩa nếu còn “ba không.”
Hiểm họa tuy cũ nhưng hậu quả thì mới
Những thông tin liên quan đến cuộc hội đàm giữa ông James Mattis, bộ trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ và ông Ngô Xuân Lịch, bộ trưởng Quốc Phòng Việt Nam vào ngày 8 Tháng Tám, không có gì mới. Các thỏa thuận, cam kết mới nhất giữa hai bên đều là những điều đã được lập đi, lập lại suốt từ năm 2012 đến nay: Gia tăng hợp tác về quốc phòng-an ninh, gia tăng chia sẻ thông tin, hợp tác thực thi luật pháp quốc tế thông qua việc Hoa Kỳ gia tăng hỗ trợ Việt Nam nâng cao khả năng bảo vệ quyền tự do lưu thông ở Biển Ðông,…
Hàng không mẫu hạm thì chưa nhưng các chiến hạm Hoa Kỳ đã ghé thăm Việt Nam từ lâu và giờ thì chuyện giao lưu giữa hải quân hai bên, giữa quân nhân Hải Quân Hoa Kỳ với công chúng Việt Nam đã trở thành hoạt động thường niên. Không chỉ thăm hỏi lẫn nhau, Hải Quân Hoa Kỳ và Hải Quân Việt Nam còn tập luyện chung để gia tăng sự hiểu biết, khả năng phối hợp khi cần tìm kiếm-cứu nạn, đối phó với hỏa tai xảy ra trên các phương tiện hải hành, cách thức liên lạc lúc vô tình gặp nhau trên biển. Rồi vài năm gần đây, năm nào cũng có chiến hạm Hoa Kỳ ghé vào quân cảng Cam Ranh bảo trì và nhận tiếp liệu giữa các chuyến hải hành.
Sở dĩ người ta chú ý đến cuộc hội đàm giữa ông Lịch và ông Mattis vì ông Lịch sang Hoa Kỳ gặp ông Mattis sau khi Việt Nam đối diện với hàng loạt yếu tố bất lợi cho mình.
Việt Nam phải yêu cầu tập đoàn Respol của Tây Ban Nha ngưng hoạt động thăm dò-khai thác dầu khí trong vùng thềm lục địa Việt Nam. Thiên hạ đồn rằng Việt Nam phải đưa ra yêu cầu đó bởi Trung Quốc dọa sẽ tấn công các tiền đồn của Việt Nam ở Trường Sa nếu tập đoàn Respol không rời khỏi lô 136/3.
“Họa vô đơn chí,” sau sự kiện Respol, Việt Nam trở thành đơn độc tại Hội Nghị Ngoại Trưởng ASEAN lần thứ 50 (AMM 50). Theo tường thuật của truyền thông quốc tế thì lúc đầu, các ngoại trưởng ASEAN không đạt được sự đồng thuận để ra một “tuyên bố chung.” Hai ngày sau, “tuyên bố chung” của AMM 50 được công bố và các chuyên gia về Châu Á xem đó là một thất bại của Việt Nam. Ông Carl Thayer, một chuyên gia Úc, lập một bảng so sánh nội dung dự thảo “Tuyên bố chung,” theo đó, đề nghị của Việt Nam: Ðưa yếu tố ASEAN “đặc biệt lo ngại” về hoạt động của Trung Quốc ở Biển Ðông vào “Tuyên bố chung” đã bị các thành viên khác của ASEAN gạch bỏ. Ðể AMM 50 có “Tuyên bố chung,” Việt Nam phải theo đa số. Trả lời AFP, ông Bill Hayton, một chuyên gia người Anh, cảnh báo: Trung Quốc đã chi phối được nhiều thành viên ASEAN.
Tại AMM 50, ASEAN làm được một chuyện mà nhiều năm qua dù rất nỗ lực vẫn không xong bởi Trung Quốc tìm đủ cách tránh né: Cùng Trung Quốc thông qua “khung” cho Quy Tắc Ứng Xử ở Biển Ðông (COC Biển Ðông). Thiên hạ trông chờ COC Biển Ðông vì nó có tính chất cưỡng hành – một thứ luật chứ không như tuyên bố về cách ứng xử tại Biển Ðông (DOC Biển Ðông). Tuy nhiên các chuyên gia từng cảnh cáo là ASEAN nên chủ động soạn thảo COC, nếu không, COC Biển Ðông sẽ là thừng trói các thành viên ASEAN có bất đồng với Trung Quốc về chủ quyền tại Biển Ðông, tất cả sẽ thúc thủ trước tham vọng của Trung Quốc.
Giờ đã có “khung” cho COC. “Khung” cho COC thành hình khi trừ Việt Nam, các thành viên khác của ASEAN không “đặc biệt lo ngại” về hành động của Trung Quốc ở Biển Ðông nữa. Reuter loan báo, thái độ của Việt Nam tại AMM 50 khiến ông Vương Nghị, ngoại trưởng Trung Quốc bực mình, hủy cuộc gặp chính thức với ông Phạm Bình Minh, ngoại trưởng Việt Nam. Thông tấn xã Việt Nam đính chính hai ông này có gặp nhau… “bên lề” AMM 50. Còn truyền thông Trung Quốc? China Daily nhận định, chuyện Việt Nam cố gắng đưa yếu tố “đặc biệt lo ngại” vào tuyên bố chung của AMM 50 giống như một kẻ vừa ăn trộm, vừa hô bắt trộm. China Daily kể thêm, rất đắc ý là không có thành viên nào của ASEAN đồng tình với Việt Nam!
“Ba không” và không có gì
Tất nhiên chẳng phải ngẫu nhiên mà tuần này, bộ trưởng Quốc Phòng Việt Nam đến Hoa Kỳ. Tất nhiên chẳng phải ngẫu nhiên mà bộ trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ hứa sẽ điều động một hàng không mẫu hạm đến thăm Việt Nam. Chuyện gì cũng có nguyên ủy của nó song sau những chuyện như vậy thì… sao? Có lẽ chẳng ra sao cả!
Hoa Kỳ từng nắm giữ vai trò chi phối khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. Năm 1848, Hoa Kỳ hất Tây Ban Nha ra khỏi Philippines, chấm dứt 300 năm Tây Ban Nha đô hộ xứ sở này. Philippines nằm dưới sự bảo trợ của Hoa Kỳ cho đến năm 1959 thì dân Philippines bỏ phiếu đòi tự trị. Tuy đã là một quốc gia độc lập nhưng từ đó, Philippines là một đồng minh thân thiết của Hoa Kỳ ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương.
Trong Thế Chiến Thứ Hai, Hoa Kỳ được xem là quốc gia duy nhất ở phương Tây tham chiến, giải phóng khu vực Châu Á-Thái Bình Dương khỏi sự khống chế của Nhật (Liên Xô chỉ chặn Nhật xâm phạm biên giới hướng Châu Á năm 1938, giải giáp lính Nhật ở Mãn Châu Tháng Tám năm 1945. Còn Anh chống Nhật bằng lực lượng thuộc địa từ Ấn). Uy tín và ảnh hưởng của Hoa Kỳ ở Châu Á-Thái Bình Dương là sự đánh đổi bằng máu của 41,592 tử sĩ và 145,796 thương binh. Từ 1950 đến 1953, để chặn làn sóng Cộng Sản nhuộm đỏ Châu Á, Hoa Kỳ mất thêm 36,914 quân nhân nữa trong cuộc chiến Triều Tiên. Với mục đích tương tự, từ 1956 đến 1975, con số thương vong của Hoa Kỳ trong cuộc chiến Việt Nam là 55,820.
Chiến Tranh Lạnh và nhiều diễn biến tiếp theo từng khiến Hoa Kỳ dồn nguồn lực vào các nơi khác trên thế thế giới. Ðó là thời cơ để Trung Quốc trỗi dậy và không giấu diếm tham vọng chi phối khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. Ðó cũng là lý do chính phủ Hoa Kỳ phải điều chỉnh chính sách, “tái cân bằng trọng tâm chiến lược”, “chuyển trục sang Châu Á-Thái Bình Dương.” Từ đó đến nay, Hoa Kỳ nhiều lần xác nhận về vai trò của Việt Nam đối với chiến lược của mình. Tháng Bảy năm 2013, ông Danny Russel, trợ lý đặc trách Ðông Á-Thái Bình Dương của ngoại trưởng Hoa Kỳ lúc đó tuyên bố, Việt Nam nói riêng và khu vực Ðông Nam Á nói chung là một phần quan trọng trong chính sách “chuyển trục sang Châu Á-Thái Bình Dương” của Hoa Kỳ. Năm đó, Hoa Kỳ và Việt Nam thiết lập “quan hệ đối tác toàn diện.” Tháng Ba năm 2015, đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam khẳng định, Hoa Kỳ sẽ tiếp sức cho Việt Nam bay cao và xa hơn. Năm đó, Hoa Kỳ và Việt Nam cùng tuyên bố sẽ gia tăng sự hợp tác liên quan đến quốc phòng. Hoa Kỳ nới lỏng lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam, đồng ý bán cho Việt Nam những vũ khí giúp gia tăng năng lực bảo vệ an ninh hàng hải.
Theo sau những động tác vừa kể còn có hàng loạt những gợi ý hợp tác khác về quốc phòng trong năm 2016: Tướng Stephen Lanza, tư lệnh Quân Ðoàn 1 của Bộ Binh Hoa Kỳ (phạm vi trách nhiệm bao gồm toàn bộ khu vực Châu Á-Thái Bình Dương) loan báo, lục quân Hoa Kỳ và Việt Nam có thể luyện tập chung bất kỳ lúc nào. Tướng Dennis L. Via, tư lệnh Bộ Chỉ Huy Tiếp Vận của lục quân Hoa Kỳ giới thiệu kế hoạch xây dựng hệ thống kho tiếp liệu, dự trữ quân cụ, quân nhu tại Việt Nam nhằm giúp quân đội Hoa Kỳ triển khai nhanh nhờ các nguồn tiếp liệu đã sẵn sàng để thực hiện các chiến dịch nhân đạo, giúp giải quyết hậu quả thiên tai. Phó Ðô Ðốc Colin Kilrain, chỉ huy trưởng Bộ Chỉ Huy các chiến dịch đặc biệt tại Thái Bình Dương (SOCPAC) của quân đội Hoa Kỳ thì đề cập đến khả năng hợp tác giữa lực lượng đặc biệt Hoa Kỳ với đặc công Việt Nam,…
Việt Nam thì sao? Ðến nay, Việt Nam vẫn chủ động kềm giữ quan hệ hợp tác quốc phòng với Hoa Kỳ ở mức: Xin viện trợ. Nhờ đào tạo. Tổ chức giao lưu thường niên riêng trong lực lượng hải quân. Việt Nam đã mở quân cảng Cam Ranh cho các chiến hạm của Hoa Kỳ ghé vào bảo trì, nhận tiếp liệu cùng lúc với việc đón nhận các chiến hạm của Nhật, Nga, Trung Quốc,… Việt Nam liên tục khẳng định, muốn “làm bạn với tất cả các nước” và sẽ tiếp tục duy trì “chính sách ba không”: Không liên minh quân sự. Không cho bất kỳ quốc gia nào đặt căn cứ quân sự tại Việt Nam. Không sử dụng quan hệ song phương nhắm vào một quốc gia khác.
Nếu lập bảng đối chiếu các mốc liên quan đến việc phát triển quan hệ, gia tăng hợp tác về quốc phòng giữa Việt Nam với Hoa Kỳ, có lẽ sẽ rất dễ thấy tương quan giữa chúng với mức độ phản kháng của dân chúng Việt Nam về cách thức ứng xử của chính quyền Việt Nam với Trung Quốc. Những “16 chữ vàng,” “tinh thần bốn tốt” không được chính quyền Việt Nam đề cao nữa dường như không hề liên quan đến sự hung hăng, càn rỡ của Trung Quốc. Chúng không được dùng nữa đơn thuần chỉ vì hàng trăm triệu người Việt Nam không chấp nhận – điều đó sẽ ảnh hưởng đến mục tiêu “nhất thống giang hồ, muôn năm trường trị” của đảng CSVN.
Sau sự kiện Respol, ông Thayer nhận định, Việt Nam thoái bộ vì một cuộc đối đầu với Trung Quốc ở Biển Ðông sẽ khiến làn sóng chống Trung Quốc tại Việt Nam bùng lên – điều đó sẽ ảnh hưởng đến sự “ổn định chính trị” mà đảng CSVN muốn duy trì.
Thực tế đã từng cho thấy, trong quan hệ với Trung Quốc, rõ ràng chính quyền Việt Nam đã “rắn” hơn nhưng độ “rắn” thua xa cách hành xử với dân chúng nếu hoạt động chống Trung Quốc có thể liên kết các cá nhân thành một khối đồng nhất với mục tiêu chung là “vệ quốc” khiến đảng CSVN bất lực trong việc “định hướng.” “Ba không” không phải là vì Trung Quốc, cũng chẳng dính dáng gì tới Hoa Kỳ, nó là giải pháp ngăn chặn những xung đột có thể khiến “giang hồ” không còn “nhất thống,” chuyện “trị” không còn “trường” và “muôn năm” trở thành mộng hão.
Tình thế “trần trụi trước miệng sói” của Việt Nam đã khiến những chuyến thăm qua, viếng lại của các viên chức Việt Nam và Hoa Kỳ nảy lên mầm hy vọng trong lòng công chúng Việt Nam. Những tuyên bố hợp tác, đặc biệt là về quốc phòng giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, những tin kiểu như năm tới, lần đầu tiên, một hàng không mẫu hạm của Hoa Kỳ sẽ ghé thăm Việt Nam có tác dụng “an thần,” chúng không trị “căn,” không giúp Việt Nam có một đối trọng đủ thực lực để kiểm chế Trung Quốc.
Mức độ đúng đắn về sự nhất quán của Việt Nam với “ba không” vừa được thể hiện tại AMM 50. Tuy nhiên khó có khả năng Việt Nam vứt bỏ chính sách này. Hoa Kỳ cần Việt Nam và không ngần ngại bày tỏ thiện chí hợp tác nhưng hợp tác chặt chẽ với Hoa Kỳ thì… không có lợi. Chủ quyền, quốc gia, vận mệnh dân tộc làm sao quan trọng bằng duy trì sự lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối của đảng CSVN.
Tháng Tám năm 2015, nhân dịp kỷ niệm 20 năm thiết lập bang giao giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, ông John Kerry, lúc đó là ngoại trưởng Hoa Kỳ, từng bảo, những tiến bộ về nhân quyền và pháp quyền tại Việt Nam sẽ giúp quan hệ đối tác chiến lược giữa Việt Nam-Hoa Kỳ sâu sắc và bền vững hơn. Ðến Kerry – một chính khách Hoa Kỳ được chính quyền Việt Nam ca ngợi là có thiện chí với Việt Nam – mà còn lập luận theo kiểu, những đồng minh gần gũi với Hoa Kỳ đều chia sẻ với Hoa Kỳ một số giá trị, vì vậy, chỉ Việt Nam mới có thể quyết định phương hướng và tiến độ cho quá trình xây dựng quan hệ đối tác chiến lược giữa hai bên… thì làm sao giới lãnh đạo Việt Nam yên tâm buông bỏ “ba không” được? (G.Ð)
No comments:
Post a Comment