Sunday, January 15, 2017

Lá cờ ấy không đáng bị xa lánh

Phạm Hồng Sơn - Lại vừa xảy ra một cuộc tranh cãi gay gắt về lá cờ vàng ba sọc đỏ - cờ của chính thể quá cố Việt Nam Cộng Hòa. Lần này cuộc tranh cãi liên quan tới ca sỹ Mai Khôi, một nghệ sỹ trẻ đã có một số biểu hiện cổ xướng, đứng về phía tự do, dân chủ, nhân quyền.

Tranh cãi, tranh luận là một điều kiện cơ bản để con người tìm ra chân lý, hiểu được sự thật. Nhưng tranh luận về lá cờ vàng hiện nay có hai trở ngại chính. Thứ nhất, chế độ đương quyền tại Việt Nam vẫn là một chế độ độc tài bất dung khác biệt chính trị và bất dung mọi thứ có thể tổn hại tới sự độc quyền quyền lực của nó. Thứ hai, lá cờ vàng là lá cờ của một chính thể là đối thủ của, và đã thua, chế độ đương quyền Việt Nam trong cuộc nội chiến 1954-1975. 

Trở ngại thứ nhất đưa tới những hệ quả cơ bản: các thông tin xác thực về cờ vàng cùng chính thể song hành vẫn bị ngăn chặn/bóp méo/cắt xén khiến cho nhiều người hiểu sai về cờ vàng; những người còn sợ độc tài/còn muốn dựa dẫm, hưởng lộc độc tài không thể/không dám/không muốn bày tỏ thái độ khách quan/đúng mực về cờ vàng. 

Trở ngại thứ hai dễ đưa tới hai xúc cảm thái quá trái ngược nhau: hoặc quá nuối tiếc, quá thương cảm một cái đã mất thành ra tình cảm ủng hộ quá mạnh; hoặc quá thiếu thiện cảm, quá khinh miệt vì coi đó thuộc về bên thất bại, cùng với sự thu nhận thông tin bị cắt xén/bóp méo, thành ra xúc cảm dị ứng quá lớn. Hai xúc cảm này đều dễ đưa tới những trao đổi thiếu kiềm chế, miệt thị, xúc phạm nhau quá mạnh - những điều không lợi cho xác định lẽ phải, dễ đưa tới các chia rẽ, đổ vỡ. 

Nhưng tranh luận sẽ bế tắc và gần như vô ích nếu một bên thuộc nhóm người thứ hai trong hệ lụy của trở ngại thứ nhất kể trên. Mọi lý lẽ, bằng cớ khách quan, xác thực, và ôn tồn đến đâu, chắc chắn sẽ không thể thuyết phục được những người này nhìn nhận/ủng hộ sự thật/điều đúng chừng nào họ vẫn chưa thoát được nỗi sợ/qui phục độc tài. Đơn giản hơn, để thấy lý lẽ, thật đáng quí, nhưng nhiều khi vô ích: Hồ Chí Minh không bao giờ công nhận Việt Cách hay Việt Quốc là những tổ chức chính nghĩa, ái quốc có quyền bình đẳng trong việc tham chính trị nước; rất khó, nếu không phải bất khả, kỳ vọng Nguyễn Phú Trọng và đảng của ông đưa ra cương lĩnh “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một nghịch lý, dối trá”. 

Trong một số bài viết của tôi, và nhiều bài viết của người khác, đã chứng minh chính thể quá cố Việt Nam Cộng Hòa, cùng những biểu tượng liên quan, đáng được trân trọng. Sự trân trọng này không dựa trên tình cảm yêu-ghét, thân-sơ, mà dựa trên so sánh về mức độ văn minh-man dã, tự do-nô lệ, dân chủ-độc tài, bao dung-hẹp hòi, nhân bản-phi nhân và ái quốc-phản quốc. Cố nhiên, chính thể Việt Nam Cộng Hòa đã thua, đã chết. Đó là một sự thật không thể nói khác. Nhưng xét đúng-sai, tốt-xấu, thiện-ác không thể dựa trên thắng-thua, được-mất. Lịch sử nhân loại và lịch sử Việt Nam đã từng xảy ra rất nhiều biến cố trong đó cái Thiện, cái tiến bộ bị thất bại, bị tiêu diệt; cái Ác, cái man khai hơn đã ngạo nghễ chiến thắng, thống trị trong một thời gian, đôi khi khá dài. Nhưng không vì thế mà nhân loại tiến bộ lãng quên, xa lánh, xúc xiểm Socrates, Thomas More, Bruno, Nguyễn Trãi, Cao Bá Quát, Pétrus Ký, Cộng Hòa La Mã hay thành-bang dân chủ A Ten. Ngoài ra, nếu tìm hiểu kỹ lưỡng hơn về lịch sử cuộc nội chiến Việt Nam 54-75, tôi tin tưởng chúng ta sẽ biết nhiều hơn và hiểu hơn các nguyên nhân đã đưa tới thất bại của Việt Nam Cộng Hòa – theo tôi, cũng là thất bại chung của mọi người Việt Nam muốn có chung một Tổ quốc tự do, nhân bản và lành mạnh. 

Trong cuộc tranh luận đang nói, và những cuộc tranh luận tương tự, còn cho thấy có một thái độ khác, ẩn tính hơn, nhưng rất đáng bàn. Đó là thái độ tỏ ra trung lập, không ủng hộ lá cờ nào của hai chính thể đối nghịch, cộng sản hay cộng hòa. Thái độ này thường cơ bản tự lấy cơ sở dựa trên quyền tự do bày tỏ (freedom of expression) hay tự do ngôn luận (freedom of speech) để khéo léo ủng hộ quan điểm/thái độ xa lánh, miệt thị cờ vàng. 

Thoạt nhìn thái độ trung lập này rất có lý, vì dựa vào các nhân quyền cơ bản đang là vấn đề thời thượng. Nhưng nhìn kỹ chúng ta sẽ thấy thái độ trung lập này không ổn, hoặc là ngộ nhận hoặc là ngụy biện cho một ẩn đích nào đó. Bởi, thứ nhất, trong những cuộc tranh luận chúng ta đang nói tới, không có bên nào đàn áp tự do bày tỏ/ngôn luận của bên nào, chỉ thuần túy hai bên cùng bày tỏ quan điểm trái ngược nhau, vì vậy đưa quyền tự do ra ở đây để biện hộ là lạc đề; thứ hai, vấn đề mấu chốt của cuộc tranh luận/tranh cãi là việc phải xác định cờ vàng có đáng được trân trọng hay đáng bị miệt thị thì thái độ trung lập này không hề đề cập. 

Thái độ trung lập này còn đưa thêm những lý lẽ phụ khác như “chỉ quan tâm tới nhân quyền và tự do chứ không quan tâm tới chính trị/chính quyền/cờ quạt”; hoặc viện dẫn lịch sử nội chiến Mỹ để chứng minh “ủng hộ lá cờ nào cũng không quan trọng.” 

Trong lý lẽ phụ thứ nhất vừa nói đã ẩn chứa một thái độ lẩn tránh, nếu không phải là thiếu trung thực. Vì những ai đã trải nghiệm sống tại Việt Nam từ 40 năm qua đều không thể không nhận ra hiện trạng mất nhân quyền, tự do có sự gắn bó máu thịt với chế độ chính trị/chính quyền - một biểu tượng của nó là “lá cờ quốc gia” nền đỏ sao vàng. 

Lý lẽ phụ thứ hai, có vẻ sang trọng và học thuật hơn, đã tự cho thấy một tư duy so sánh/liên hệ khập khiễng, trái bối cảnh. Bởi, thứ nhất, bên chiến thắng trong nội chiến Mỹ không đàn áp, không sỉ nhục những người thuộc phía thua là “thù địch”, “bán nước”; thứ hai, bên chiến thắng đã ý thức thiết lập một chế độ dân chủ biết bao dung và bảo vệ đa nguyên chính trị, các quyền tự do căn bản, trong đó có quyền tự do bày tỏ yêu ghét cả hai lá cờ từng là đối địch. Nhưng cuộc nội chiến 54-75 tại Việt Nam không đưa tới kết quả như thế, và hệ thống đương quyền cũng không cho thấy muốn đưa tới những kết quả như vậy. Nói cách khác, thực trạng ở Việt Nam hiện nay là tình trạng trong đó cái Ác đang thống trị, đang lấn át cái Thiện. Vì vậy, nếu thực đứng về cái Thiện và đủ hiểu biết, bản năng lương tâm con người không thể cho phép phát ra những thông điệp ‘trung lập’, thờ ơ giữa hai lá cờ, càng không thể biện luận để đánh đồng cờ vàng với cờ đỏ hay cờ đỏ cũng như cờ vàng, Thiện Ác lẫn lộn. 

Nhìn lại những ngày đen tối, rùng rợn của Thế chiến II, chúng ta không khỏi lạnh mình nếu tưởng tượng những con người như Albert Einstein, Julius Robert Oppenheimer, hay Deithich Bonhoeffer cứ tỏ ra cao đạo ‘trung lập’, vờ khinh bỉ chính trị để thụ hưởng êm ấm, bổng lộc cho bản thân. Thực trạng nội chiến giành giật Ác-Thiện của Việt Nam 54-75 cũng cho thấy ‘trung lập’, dù thật hay giả, sập bẫy hay cố ý, đều đã tiếp tay cho cái Ác thống trị toàn xã hội. 

Dĩ nhiên, như đã nói, vẫn có những đồng bào chỉ vì sợ hãi, vì thiếu thông tin nên chưa nhìn ra, chưa dám bảo vệ sự thật. Nhưng nếu chỉ có vậy, chúng ta có thể an tâm và hoàn toàn tin, tin vào sự chân thành, sẽ có một ngày những đồng bào đó sẽ tự tin bày tỏ lòng trân quí một lá cờ của một chính thể dân chủ, nhân bản nhất (cho tới nay) của người Việt Nam đã từng tồn tại trong lịch sử. 


No comments:

Post a Comment