19/05/2010 by: hh75
Nguyễn Kỳ Phong
Trong hai năm 1973 và 1974,
một tham vụ chính trị ở Tòa
Đại Sứ Hoa Kỳ tên là James
Nach, bắt đầu thâu thập một
số chi tiết lịch sử về nguồn
gốc các trường đào tạo sĩ
quan Quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa (QLVNCH) và sĩ quan tốt
nghiệp từ các trường đó. Tác
giả ghi lại rất nhiều chi
tiết về mười khóa đầu của
Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt
và năm khóa đầu của Liên
Trường Võ Khoa Thủ Đức. Đây
là một tập tài liệu với
nhiều chi tiết lý thú. Ông
James Nach còn bỏ công ra
ghi lại chức vụ đương nhiệm
của một số sĩ quan tốt
nghiệp. Theo sự hiểu biết
của người viết bài này, tài
liệu của James Nach là một
trong hai tài liệu duy nhất
của người Mỹ nghiên cứu về
hệ thống đào tạo sĩ quan và
xuất thân của sĩ quan QLVNCH.
Năm 1970, cơ quan Advanced
Research Projects Agency (một
cơ quan nghiên cứu thuộc Bộ
Quốc Phòng Hoa Kỳ) có thực
hiện một nghiên cứu với tựa
đề An Institutional
Profile of the South
Vietnamese Officer Corps.
Tuy nhiên, nghiên cứu này có
tính cách chính trị nhiều
hơn là lịch sử, vì tài liệu
chỉ nói đến hệ thống sĩ quan
tướng lãnh và phân lọai họ
có chiều hướng theo “phe”
nào trong thời điểm đó. Tài
liệu của James Nach được
viết ở Sài Gòn và gởi về Bộ
Ngoại Giao Hoa Kỳ với sự
chuẩn hành của đại sứ Graham
Martin. Vì tài liệu nằm
trong dạng công văn, nên chỉ
được lưu trữ trong văn khố
hay các trung tâm nghiên cứu
về Việt Nam. Bài viết dưới
đây sơ lược lại những chi
tiết lý thú của tác giả
James Nach trong The
National Military Academy
and Its Prominent Graduates,
và, Origins of the
Vietnamese National Army,
Its Officer Corps and Its
Military Schools.
The National
Military Academy and Its
Prominent Graduates
Trong phần nghiên cứu về Trường Võ Bị Quốc Gia và Những Sĩ Quan Tốt Nghiệp Danh Tiếng, James Nach sơ lượt lại sự thành hình của trường Võ Bị Quốc Gia. Hai khóa đầu tiên Trường Sĩ Quan Hiện Dịch bắt đầu ở Huế, Khóa 1 tháng 12-1948, và Khóa 2 tháng 9-1949. Tháng 10-1950 trường dọn về Đà Lạt và bắt đầu Khóa 3, với tên mới là Trường École Militaire Inter-Armes de Dalat. Trường chánh thức đổi lại thành Trường Võ Bị Liên Quân sau khi người Pháp rời Việt Nam năm 1955, và trở thành Trường Võ Bị Quốc Gia từ tháng 4 năm 1963 cho đến khi giải tán (Sắc Lệnh 325-QP, 10-4-1963).
Trong phần nghiên cứu về Trường Võ Bị Quốc Gia và Những Sĩ Quan Tốt Nghiệp Danh Tiếng, James Nach sơ lượt lại sự thành hình của trường Võ Bị Quốc Gia. Hai khóa đầu tiên Trường Sĩ Quan Hiện Dịch bắt đầu ở Huế, Khóa 1 tháng 12-1948, và Khóa 2 tháng 9-1949. Tháng 10-1950 trường dọn về Đà Lạt và bắt đầu Khóa 3, với tên mới là Trường École Militaire Inter-Armes de Dalat. Trường chánh thức đổi lại thành Trường Võ Bị Liên Quân sau khi người Pháp rời Việt Nam năm 1955, và trở thành Trường Võ Bị Quốc Gia từ tháng 4 năm 1963 cho đến khi giải tán (Sắc Lệnh 325-QP, 10-4-1963).
Hai Khóa 1 Phan Bội Châu (53 sĩ quan tốt nghiệp) và Khóa 2 Quang Trung (97 tốt nghiệp) ở Huế ra trường một số sĩ quan sau này trở thành những tướng lãnh quan trọng của đầu thập niên 1960. Thủ khoa Khóa 1 là trung tướng Nguyễn Hữu Có; Khóa 2 là thiếu tướng Hồ Văn Tố (chết bất thình lình năm 1961 trong lúc chỉ huy Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức).
Những tướng lãnh tốt nghiệp
Khóa 1 như các trung tướng
Đặng Văn Quang; Tôn Thất
Đính, Nguyễn Văn Thiệu, Trần
Văn Trung. Một số sĩ quan
cấp thiếu tướng và chuẩn
tướng như, Bùi Đình Đạm;
Phan Xuân Nhận; Tôn Thất
Xứng; Nguyễn Văn Chuân.
Khóa 2 có chín sĩ quan trở
thành tướng lãnh, trung
tướng
Ngô Dzu
và
Nguyễn Văn Mạnh;
các thiếu tướng
Trần Thanh Phong; Huỳnh Văn
Cao; Hoàng Văn Lạc; Lê Ngọc
Triển;
và chuẩn tướng
Lê Trung Tường.
Trung tá Vương Văn Đông, một
trong những nhân vật chủ mưu
đảo chánh 11-11-1960, cũng
ra từ Khóa 2 này.
Khóa 3 Trần Hưng Đạo có 135 sĩ quan tốt nghiệp. Đây là khóa đầu tiên khai giảng ở Đà Lạt. Có chín sĩ quan trở thành cấp tướng — cấp tướng hạng “nặng ký.” Khóa có Bốn trung tướng Hoàng Xuân Lãm (tư lệnh Quân Đoàn I; tốt nghiệp hạng 5); Nguyễn Xuân Thịnh (tư lệnh binh chủng Pháo Binh; hạng 8); Lâm Quang Thi (tư lệnh tiền phương Quân Đoàn I; 12); và Lữ Lan (tư lệnh Quân Đoàn II, 24). Hai sĩ quan tốt nghiệp trở thành tướng của Quân Chủng Không Quân là chuẩn tướng Võ Dinh (tham mưu trưởng Không Quân VNCH) và chuẩn tướng Nguyễn Ngọc Óanh (chỉ huy trưởng Trung Tâm Huyến Luyện Không Quân). Hai thiếu tướng Nguyễn Văn Hiếu (á khoa, tư lệnh phó Quân Đoàn III khi bị tai nạn súng chết) và Lâm Quang Thơ. Tướng Thơ và Thi đều trở về trường mẹ, làm chỉ huy trưởng trường Võ Bị Quốc Gia.
Từ Khóa 4 (Khóa Lý Thường Kiệt, tháng 11-1951 – tháng 12-1951) đến Khóa 10 (Khóa Trần Bình Trọng, tháng 10-1953 – tháng 6-1954) trường đào tạo thêm 23 tướng lãnh.
Phần lớn là những tướng hành
quân/ tác chiến, hơn là
tướng tham mưu/ hành chánh.
Khóa 4 có hai trung tướng là
Nguyễn Văn Minh
(tư lệnh QĐ III, 1972)
và cố trung tướng
Nguyễn Viết Thanh
(tư lệnh QĐ IV khi tử nạn
tháng 5-1970).
Hai sĩ quan kia là chuẩn
tướng
Đỗ Kiến Nhiểu
(đô
trưởng Sài Gòn)
và thủ khoa
Nguyễn Cao Albert
(giãi
ngũ).
Riêng tên của cố trung tướng
Nguyễn Viết Thanh được đặt
cho hai khóa tốt nghiệp sĩ
quan của QLVNCH: Khóa 6/1970
Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức,
và Khóa 26 Võ Bị Quốc Gia Đà
Lạt.
Khóa 5 Hoàng Diệu
(8-1951 –
5-1952),
với 225 sĩ quan tốt nghiệp,
là khóa đào tạo nhiều tướng
lãnh nhất — 10 sĩ quan cấp
tướng. Các trung tướng
Nguyễn Văn Toàn; Nguyễn Vĩnh
Nghi; Phạm Quốc Thuần; Dư
Quốc Đống; Phan Trọng Chinh.
Hai thiếu tướng
Trần Bá Di
và
Đỗ Kế Giai.
Các chuẩn tướng
Trần Văn Cẩm; Chương Dzếnh
Quay; Lê Văn Tư.
Có ba đại tá tốt nghiệp khóa
này cũng được nhắc đến nhiều
là
Dương Hiếu Nghĩa
(thủ
khoa, liên hệ đến vụ đảo
chánh 1-11-1963);
Phạm Văn Liễu (ra
trường hạng 19, liên hệ đến
nhiều vụ đảo chánh);
và Lê Đức Đạt
(hạng 20,
tư lệnh sư đoàn 22 bộ binh
khi bị mất tích ở Tân Cảnh
tháng 4-1972).
Khóa 6 Đinh Bộ Lĩnh
(12-1951 –
10-1952; 181 sĩ quan tốt
nghiệp)
có ba chuẩn tướng Lý Tòng Bá
(thủ khoa);
Trần Quang Khôi
(hạng 6);
và Trần Đình Thọ
(hạng 79).
Nhà văn trung tá Nguyễn Đạt
Thịnh cũng đến từ khóa này.
Khóa 7 có chuẩn tướng
Trương Quang Ân
(thủ khoa, tử
nạn trực thăng năm 1968);
Lê Văn Thân; và Trần Văn Hai.
Khóa 8 có thiếu tướng
Phạm Văn Phú,
và chuẩn tướng
Huỳnh Thới Tây
(tư lệnh Cảnh Sát Đặc Biệt).
Khóa 9 không có sĩ quan tốt
nghiệp nào lên tướng. Khóa
10 Trần Bình Trọng
(10-1953 – 6-1954)
là khóa đông nhất của 10
khóa đầu tiên, với 400 sĩ
quan tốt nghiệp. Thiếu tướng
Lê Minh Đảo
(hạng 18);
hai chuẩn tướng Vũ Văn Giai
và Trần Văn Nhật. Mười khóa
đầu của trường Võ Bị Quốc
Gia đào tạo tất cả 40 tướng
trong số 80 tướng hiện dịch
của năm 1974
(80 tướng
hiện dịch không kể tướng của
Quân Chủng Hải Quân hay
Ngành Quân Y).
Trong khi 10 khóa đầu đào
tạo nhiều tướng lãnh chỉ huy
của QLVNCH,
các Khóa 11 đến 20 đào tạo
nhiều sĩ quan trung cấp, cột
trụ của quân đội. Những sĩ
quan cấp trung tá và đại tá
của Khóa 14-18 hiện diện và
chỉ huy hầu hết các đơn vị
chủ lực của QLVNCH.
Khóa 16 Ấp Chiến Lược
(226 sĩ
quan tốt nghiệp; thủ khoa
Bùi Quyền)
có nhiều sĩ quan đã lên đến
cấp bậc trung tá hay đại tá,
chỉ huy trung đoàn hay lữ
đoàn trong quân đội.
Hai Khóa 19 và 20 thì có
nhiều sĩ quan tiểu đoàn
trưởng.
Khóa 19 có 394 sĩ quan tốt
nghiệp và là khóa kém may
mắn nhất: ba sĩ quan vừa tốt
nghiệp vài ngày đã tử trận
ngay ở chiến trường, trong
đó thủ khoa Võ Thành Kháng
(trận
Bình Giả).
Khóa 20 được coi là đông
nhất
(406 tốt nghiệp; thủ khoa
Trần Thanh Quang).
Khóa 22B là khóa đầu tiên ra
trường với trình độ văn hóa
bốn năm. Nhưng khóa cũng
không được may mắn khi thủ
khoa Nguyễn Thanh Phóng bị
tử trận vài tháng sau đó,
trong cuộc hành quân đánh
qua Cam Bốt năm 1970.
Origins of the
Vietnamese National Army,
Its Officer Corps and Its
Military Schools
Đây là tài liệu nghiên cứu về Lịch Sử Quân Đội Quốc Gia, Hệ Thống Sĩ Quan, và Các Trường Huấn Luyện Quân Sự. Tác giả James Nach đi ngược về năm 1939, khi Cao Ủy Đông Dương, tướng Catroux, bắt đầu tuyển mộ và huấn luyện sĩ quan Việt Nam cho quân đội Pháp và cho quân đội thuộc địa trong tương lai. Đây không phải là một thiện chí của chánh phủ Pháp đối với người dân thuộc địa, đây chỉ là một phòng hờ cho thế chiến thứ hai bắt đầu nhen nhúm. Tài liệu nói về một số trường đào tạo cấp chỉ huy quân sự từ năm 1939 trở đi như:
Đây là tài liệu nghiên cứu về Lịch Sử Quân Đội Quốc Gia, Hệ Thống Sĩ Quan, và Các Trường Huấn Luyện Quân Sự. Tác giả James Nach đi ngược về năm 1939, khi Cao Ủy Đông Dương, tướng Catroux, bắt đầu tuyển mộ và huấn luyện sĩ quan Việt Nam cho quân đội Pháp và cho quân đội thuộc địa trong tương lai. Đây không phải là một thiện chí của chánh phủ Pháp đối với người dân thuộc địa, đây chỉ là một phòng hờ cho thế chiến thứ hai bắt đầu nhen nhúm. Tài liệu nói về một số trường đào tạo cấp chỉ huy quân sự từ năm 1939 trở đi như:
Nội Ứng Nghĩa Đinh và Nội
Ứng Nghĩa Quân. Theo tác giả
Nach, trung tướng
Văn Thành Cao và Trình Minh
Thế
của quân đội Liên Minh Cao
Đài được huấn luyện từ
trường này. Người Pháp cũng
lập ra một vài trường huấn
luyện quân sự cho các giáo
pháo. Trường huấn luyện Cái
Vồn của Hòa Hảo là nơi xuất
thân của các tướng Trần Văn
Soái, Cao Hảo Hớn, Lâm Thành
Nguyên. Tác giả cho biết sau
khi trường Cái Vồn bị đón
cửa, một số sinh viên được
phép ghi danh nhập học
trường Võ Bị ở Huế. Những
trường khác được nhắc tên
trong giai đọan này như
Trường Móng Cay, Trường Quân
Chính, trường Quốc Gia Thanh
Niên Đoàn
(một trường quân sự chính
trị do Nhất Linh Nguyễn
Tường Tam lập).
Năm 1946-47 Đảng Đại Việt của Trương Tử Anh thiết lập trường huấn luyện quân sự Lục Quân Trần Quốc Tuấn. Trường khai giảng ở Thanh Hóa, nhưng sau đó vì áp lực của Việt Minh nên phải dời về Yên Bái, và sau cùng về vùng Chapa gần biên giới Việt-Trung. Trường này đôi khi còn được gọi là trường sĩ quan Yên Bái. Những người đã theo học trường này gồm có thiếu tướng Phạm Xuân Chiểu; đại tá Phạm Văn Liễu; đại sứ Đinh Trình Chinh (đại sứ ở Thái Lan); đại sứ; đại sứ Ngô Tôn Đạt (đại sứ ở Đại Hàn); và ký giả Nguyễn Tú (Nhật Báo Chính Luận).
Cũng trong thời gian 1938-1940, quân đội Pháp thiết lập hai trường huấn luyện sĩ quan và hạ sĩ quan thành sĩ quan ở Thủ Dầu Một và Tong. Đại tướng Dương Văn Minh, và tổng trưởng Tư Pháp Lê Văn Thu theo học Trường Thủ Dầu Một; trường Tong thì có những sĩ quan tốt nghiệp như các trung tướng Trần Văn Đôn; Linh Quang Viên; Nguyễn Văn Vỹ; và Trần Văn Minh.
Sau đệ nhị thế chiến, Bộ Tư Lệnh Quân Đội ở Dông Dương gia tăng tuyển mộ lính thuộc địa cũng như huấn luyện cấp chỉ huy để phục vụ ở những đơn vị này.
Trường Võ Bị Võ Bị Liên Quân
Viễn Đông được thành lập
tháng 7-1946 tại Đà Lạt.
Trường chỉ khai giảng một
khóa duy nhất, với 16 sĩ
quan tốt nghiệp. Những sĩ
quan tốt nghiệp trường này
gồm có hai đại tướng
Nguyễn Khánh và Trần Thiện
Khiêm; trung tướng Trần Ngọc
Tám
và
Dương Văn Đức; các thiếu
tướng Nguyễn Văn Kiểm
(chánh
võ phòng của tổng thống
Thiệu);
Lâm Văn Phát; Bùi Hữu Nhơn;
Cao Hảo Hớn; và Dương Ngọc
Lắm. Năm 1947-1948 trường
được dọn Vũng Tàu và có tên
mới là École Militaire Nuoc
Ngot
(Trương Võ Bị Nước Ngọt,
Vũng Tàu).
Những sĩ quan tốt nghiệp
trường này có cố trung tướng
Đỗ Cao Trí;
thiếu tướng
Nguyễn Xuân Trang
(Tham
Mưu Phó Phòng Nhân Viên, Bộ
Tổng Tham Mưu);
đại tá
Trang Văn Chính
(chỉ
huy phó Chiến Tranh Chính
Trị);
và đại tá
Bùi Quang Định
(Bộ
Chiêu Hồi).
Trong năm năm, 1949-1953,
một trung tâm huấn luyện
hoàn hảo sĩ quan được thành
lập ở Cap St. Jacques. Trung
tâm huấn luyện năm khoá.
Khóa 1 có những sĩ quan tốt
nghiệp như cố đại tướng
Cao Văn Viên;
cố trung tướng
Nguyễn Chánh Thi;
chuẩn tướng
Nguyễn Hữu Hạnh;
và đại tá
Vũ Quang Tài.
Như đã nói ở phần đầu bài viết, năm 1948 một trường đào tạo sĩ quan được thành lập ở Huế đễ bắt đầu lịch sử Trường Võ Bị Quốc Gia. Tác giả James Nach đã sơ lượt về Trường Võ Bị Quốc Gia. Cũng trong cùng tài liệu, ông Nach sơ lược về lịch sử Trường Liên Quân Võ Khoa Thủ Đức. Tài liệu này cũng công phu không kém tài liệu về Trường Võ Bị Quốc Gia. Vì khuôn khổ giới hạn của bài viết, ở đây chỉ tóm tắt lại những chi tiết đáng ghi nhớ. Nguyên thủy lúc thành hình là trường Sĩ Quan Trừ Bị Thu Duc va Nam Dinh (Les Écoles des Cadres de Réserve de Thu Duc et Nam Dinh), với Khóa 1 Lê Văn Duyệt được khai giảng ngày 1 tháng 10-1951 ở hai nơi, Thủ Đức và Nam Định. Thủ Đức có 278 sĩ quan tốt nghiệp; Nam Định có 218. Khóa 1 đào tạo tất cả 19 tướng lãnh cho QLVNCH, trong đó có bốn trung tướng, Trần Văn Minh; Nguyễn Đức Thắng, Lê Nguyên Khang, và Đồng Văn Khuyên (á khoa). Sau Khóa 1, trường dời về Thủ Đức. Trong mười khóa đầu tiên, Khóa 4 Cương Quyết (12-1953 – 6-1954) và Khóa 5 Vì Dân (6-1954 – 2-1955) có số sinh viên tốt nghiệp nhiều nhất, 1.148 sĩ quan cho Khóa 4; 1.396 cho Khóa 5.
Khóa 4 có được năm sĩ quan
lên cấp tướng: cố trung
tướng
Ngô Quang Trưởng;
thiếu tướng
Bùi Thế Lân;
cố chuẩn tướng
Lê Quang Lưỡng và Hồ Trung
Hậu;
và chuẩn tướng
Nguyễn Văn Điềm.
Khóa 5 có chuẩn tướng
Lê Văn Hưng.
trừ những sĩ quan tướng lãnh,
Khóa 4 có nhiều sĩ quan cấp
trung tá và đại tá chỉ huy
những đơn vị chủ lực của
QLVNCH. Nhìn lại lịch sử
cuộc chiến, đây là những sĩ
quan đứng mũi chịu sào của
giai đọan khói lửa
1965-1972. Theo tài liệu của
James Nach, từ năm 1951 đến
năm 1965, Thủ Đức đào tạo
20.927 sĩ quan. Đến tháng
9-1973, có tất cả 80.115 sĩ
quan tốt nghiệp từ trường.
—————————————————————
—————————————————————
1. Allan E. Goodman, An
Institutional Profile of the
South Vietnamese Officer
Corps. Rand Research,
RM-6189-ARPA, June 1970
(declassified 1992).
Tài liệu này được bắt đầu
thực hiện vào năm 1967, thời
gian này vẫn còn nhiều xung
đột giữa hai nhóm tướng lãnh,
Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn
Cao Kỳ. Trong tài liệu,
ngoài một số chi tiết cá
nhân của các tướng lãnh, tác
giả Goodman còn phân lọai ra
tướng lãnh thuộc phe nhóm
nào.
2. The National Military
Academy and Its Prominent
Graduates, James Nach,
American Ambassy Saigon,
Airgram A-95, May 13, 1974;
Origins of the Vietnamese
National Army, Its Officer
Corps and Its Militray
Schools, James Nach, airgram
A-131, no date.
3. Một số sĩ quan tốt nghiệp
Khóa 3 Trần Hưng Đạo không
đồng ý gọi đó là Khoá 3, mà
là Khóa 1 Đà Lạt. Đại tá Bùi
Dzinh, thủ khoa khóa Trần
Hưng Đạo
(11 tháng
10-1950 – 24 tháng 6-1951)
trong một lá thư viết cho
ban biên tập Nội San Đa Hiệu
(Đa Hiệu, Số 43, phát hành
19 tháng 6-1996, trang
247-149),
nói ý kiến của ông là, vì
trường bắt đầu một tiến
trình mới của quân đội,
không có liên hệ với trường
Sĩ Quan Hiện Dịch Đập Đá ở
Huế, nên ông không gọi đó là
Khóa 3. Ông viết, “Tôi
không muốn tranh ngôi thứ
của khóa, chỉ nhằm nói lại
cho danh chánh ngôn thuận mà
thôi.”
Trung tướng Lữ Lan, cũng
khóa Trần Hưng Đạo, thì nói,
vì mình kính trọng hai lớp
đàn anh đi trước, nên gọi đó
là Khóa 3. Trong bài viết
này, Khóa 3 là khóa bắt đầu
ở Đà Lạt.
4. Dĩ nhiên chúng ta không
thể không nhắc đến sĩ quan
tốt nghiệp từ Trường Võ Bị
Liên Quân Thủ Đức. Tuy nhiên
đó là một đề tài khác. Khóa
14 Đà Lạt tương đương với
Khóa 8 Thủ Đức, cùng ra đầu
năm 1960. Khóa 20 Đà Lạt
(11-1965)
và Khóa 20 Thủ Đức cũng tốt
nghiệp cùng thời gian
(12-1965;
năm 1965 Thủ Đức cho ra
trường ba khóa, 18, 19, và
20).
5. Theo lời ký giả Nguyễn Tú
kể, thì đại sứ Bùi Diễm chỉ
học trường Lục Quân Trần
Quốc Tuấn trong thời gian ở
Yên Báy, và bỏ dở chương
trình lúc trường dọn về
Chapa.
6. Trường Hạ Sĩ Quan Thành Sĩ Quan, còn gọi là Trường Hoàn Hảo Sĩ Quan — Centre de Perfectionnement des Sous Officiers Indochinois.
7. Tài liệu của James Nach nói 16 sĩ quan tốt nghiệp, trong khi sách quân sử VNCH Quân Lực Việt Nam Trong Giai Đoạn Hình Thành nói chỉ có 10 sĩ quan tốt nghiệp.
8. Vì khuôn khổ giới hạn, người viết sơ lược đến đó. Đọc giả có thể tìm tài liệu này ở hai nơi: Vietnam Center, Texas Tech University, Lubbock, Texas; hay, Cornell University, Ithaca, New York.
No comments:
Post a Comment