HÀ NỘI (NV) – Theo Tổng Cục Hải Quan Việt Nam, năm ngoái, quốc gia này đã chi khoảng 2 tỉ đô la để nhập cảng các loại hóa chất và nguyên liệu sản xuất hóa chất. Khoảng 3/4 là từ Trung Quốc.
Trong năm 2016, kim ngạch nhập cảng các loại hóa chất của Hoa Kỳ, Canada, Israel, Ấn, Nhật, Nam Hàn… chỉ chừng 450 triệu đô la.
Nếu so với năm 2015, kim ngạch nhập cảng các loại hóa chất và nguyên liệu sản xuất hóa chất do Trung Quốc sản xuất đã tăng thêm khoảng 200 triệu đô la. 2016 là năm đầu tiên Việt Nam chi hơn 1 tỉ đô la để nhập cảng nguyên liệu sản xuất hóa chất. Gần như toàn bộ nguyên liệu sản xuất hóa chất mà Việt Nam đã nhập cảng đến từ Trung Quốc!
Theo Tổng Cục Hải Quan Việt Nam, sở dĩ kim ngạch nhập cảng các loại hóa chất và nguyên liệu sản xuất hóa chất do Trung Quốc sản xuất gia tăng vì chúng rẻ, chi phí vận chuyển thấp và vì có nhiều doanh nghiệp, thương nhân là bạn hàng thân thiết của doanh nghiệp, thương nhân Trung Quốc.
Chẳng hạn các nhà máy sợi, dệt, nhuộm do Ðài Loan, Hồng Kông, Trung Quốc đầu tư tại Việt Nam là những nơi chỉ nhập cảng hóa chất của Trung Quốc.
Ngoài ra kim ngạch nhập cảng các loại hóa chất và nguyên liệu sản xuất hóa chất từ Trung Quốc vào Việt Nam tăng còn vì có nhiều nhà máy cần sản xuất “thuốc bảo vệ thực vật.”
Người ta chưa rõ tại sao chính quyền Việt Nam vẫn mở toang cửa để tiếp nhận các loại “thuốc bảo vệ thực vật” và hóa chất để chế tạo “thuốc bảo vệ thực vật” từ Trung Quốc.
“Thuốc bảo vệ thực vật” là cách Việt Nam gọi các loại thuốc diệt trừ côn trùng có hại cho cây cối. Tất cả đều là thuốc độc đối với con người và môi trường.
Trong bốn năm vừa qua, mỗi năm, Việt Nam chi hơn 400 triệu đô la để nhập các loại “thuốc bảo vệ thực vật” và hóa chất chế tạo “thuốc bảo vệ thực vật” từ Trung Quốc. Số lượng nhập cảng các mặt hàng này đã tăng mười lần.
Trong một cuộc trao đổi với tờ Người Lao Ðộng hồi Tháng Sáu năm ngoái, ông Nguyễn Thơ, phó chủ tịch Hội Khoa Học Bảo Vệ Thực Vật Việt Nam, khẳng định, hàng trăm tấn hóa chất mà Việt Nam nhập cảng hàng năm từ Trung Quốc để chế tạo “thuốc bảo vệ thực vật” chỉ là “phần nổi của tảng băng.” Trong thực tế, “thuốc bảo vệ thực vật” và lượng hóa chất chế tạo “thuốc bảo vệ thực vật” được đưa từ Trung Quốc vào Việt Nam qua con đường “cửu vạn” (lén lút chuyển vận qua biên giới) lớn hơn gấp nhiều lần.
Cho dù các chuyên gia nông nghiệp, môi trường, y tế liên tục cảnh báo về tác hại của việc cho nhập cảng tràn lan “thuốc bảo vệ thực vật” cũng như hóa chất để chế tạo các loại “thuốc bảo vệ thực vật” từ Trung Quốc song chính quyền Việt Nam không thèm bận tâm.
Trong khi các quốc gia ở Châu Âu đã lắc đầu với “thuốc bảo vệ thực vật” từ lâu, các quốc gia ở Ðông Nam Á giới hạn hoạt chất trong “thuốc bảo vệ thực vật” ở phạm vi từ 400 đến 600 loại thì tại Việt Nam, con số hoạt chất được phép sử dụng lên tới… 1,700 loại. Sự dễ dãi này khiến “thuốc bảo vệ thực vật” tại Việt Nam “cực kỳ hiệu quả” vì chúng… cực độc!
Việc cho phép nhập cảng tràn lan, hỗ trợ sản xuất-kinh doanh “thuốc bảo vệ thực vật” tại Việt Nam đã khiến nông dân Việt Nam xem việc mua-sử dụng “thuốc bảo vệ thực vật” là chuyện đương nhiên để bảo vệ mùa màng. Rất ít người biết việc sử dụng “thuốc bảo vệ thực vật” sẽ dẫn tới tình trạng đất, nước và nông sản nhiễm độc, môi trường ô nhiễm, sức khỏe của mình và nhiều thế hệ bị hủy hoại.
Các chuyên gia của Việt Nam và quốc tế từng thực hiện một số cuộc khảo sát và kết luận, tại Việt Nam có tới 80% “thuốc bảo vệ thực vật” được dùng không đúng cách, không cần thiết. Mỗi năm, có từ 150 đến 200 tấn “thuốc bảo vệ thực vật” dư thừa thẩm thấu vào đất, vào nguồn nước nhưng từ viên chức tới nông dân chẳng có mấy người bận tâm.
Năm ngoái, ông Trần Tuấn, giám đốc Trung Tâm Nghiên Cứu-Ðào Tạo Phát Triển Cộng Ðồng từng than rằng, “tam nông” ở Việt Nam hiện nay không phải là “nông nghiệp-nông thôn-nông dân” mà là “dân nghiện-đất nghiện-nước thoái hóa.” Ông Tuấn nhấn mạnh, nông dân Việt đã đánh mất sự tự chủ trong nghề nông, tự nguyện để bị sai khiến, bị bóc lột bởi ngành công nghiệp hóa chất của Trung Quốc. Họ không còn “xem trời, xem đất, xem mây” để đưa ra các quyết định liên quan tới canh tác mà trở thành phụ thuộc, để thiên hạ “bảo gì thì làm thế,” “cho gì thì dùng thế.” Nông dân trở thành “nghiện” vì bơ vơ giữa rừng thông tin bất định!
Theo ông Tuấn, chẳng riêng dân “nghiện” mà đất cũng “nghiện.” “Dân nghiện” rồi “đất nghiện” nên thu hoạch được bao nhiêu thì nông dân lại bỏ ra bấy nhiêu mua sắm phân bón công nghiệp, thuốc “bảo vệ thực vật,” bởi ngưng bón, ngừng phun thì sẽ chẳng còn gì. Ông Tuấn nhắc thêm là “nước đang thoái hóa.” Cá, tôm, cua, ốc, ếch,… từng như đương nhiên đã mất dần.
Tuy ông Tuấn bảo rằng, xây dựng nông thôn mới là phải chấm dứt tình trạng lệ thuộc của ngành nông nghiệp, của nông thôn, nông dân vào ngành công nghiệp hóa chất của ngoại bang và điều này dường như hữu lý nhưng chẳng rõ ai sẽ làm?(G.Ð)
No comments:
Post a Comment