HÀ NỘI (NV) – Rau, trái của Trung Quốc vẫn ồ ạt tràn vào Việt Nam vì người nghèo tại Việt Nam cần chúng. Việt Nam không thể lắc đầu khi thực phẩm của Việt Nam không rẻ mà cũng chẳng sạch.
Tuy rau, trái Trung Quốc nổi tiếng vì sự lạm dụng các loại hóa chất diệt côn trùng và kích thích tăng trưởng, nguy hại cho sức khỏe nhưng mỗi tháng Việt Nam vẫn chi 13 triệu Mỹ kim/tháng để nhập từ rau, củ, đến trái cây, thậm chí cả hành, tỏi.
Thống kê gần nhất của Bộ Công Thương Việt Nam cho biết, nếu so với sáu tháng đầu năm ngoái, chi phí cho việc nhập cảng rau trái của Trung Quốc trong sáu tháng đầu năm nay tiếp tục tăng thêm 31%!
Ðáng lưu ý là trong số các loại rau, trái Trung Quốc mà Việt Nam nhập cảng có những thứ mà Việt Nam không hề thiếu và thương lái Việt Nam vẫn thường thu mua để xuất cảng sang Trung Quốc. Chẳng hạn như xoài.
Trò chuyện với tờ Thanh Niên, chủ một vựa xoài ở tỉnh Ðồng Tháp cho biết, trong mười năm qua, cứ tới mùa xoài tại Việt Nam là bà thu mua và xuất sang Trung Quốc vài trăm tấn/tuần. Cũng vì vậy người phụ nữ này hết sức ngạc nhiên trước tin mỗi năm, Việt Nam dùng ngoại tệ, nhập của Trung Quốc từ 2,000 đến 2,500 tấn xoài. So với xoài Việt Nam, xoài Trung Quốc nhỏ hơn và dở hơn.
Trước nghịch lý vừa kể, ông Nguyễn Văn Ngãi, trưởng Khoa Kinh Tế của Ðại Học Nông Lâm Sài Gòn nhận xét, dù biết rau, trái của Trung Quốc nguy hại cho sức khỏe nhưng đang có rất nhiều người Việt chọn chúng vì họ họ không đủ khả năng tài chính mua những thứ mắc hơn. Cũng theo lời ông Ngãi, rau, trái Trung Quốc có đất sống vì rau, trái Việt Nam đã không rẻ hơn mà chưa chắc ít nguy hại cho sức khỏe hơn.
An được thực phẩm sạch vẫn là vấn nạn nan giải tại Việt Nam. Chưa rõ do vô tình hay cố ý, nhiều năm qua, chính quyền Việt Nam đã mở toang cửa để tiếp nhận các loại hóa chất để chế tạo “thuốc bảo vệ thực vật” và “thuốc bảo vệ thực vật” từ Trung Quốc.
“Thuốc bảo vệ thực vật” là cách Việt Nam gọi các loại thuốc diệt trừ côn trùng có hại cho cây cối. Tất cả đều là thuốc độc đối với con người và môi trường.
Chỉ trong ba năm vừa qua, mỗi năm, Việt Nam chi khoảng 400 triệu Mỹ kim để nhập các loại hóa chất chế tạo “thuốc bảo vệ thực vật” và “thuốc bảo vệ thực vật” từ Trung Quốc. Số lượng nhập cảng của mặt hàng này đã tăng mười lần.
Trong một cuộc trao đổi với tờ Người Lao Ðộng hồi tháng 6, ông Nguyễn Thơ, phó chủ tịch Hội Khoa Học Bảo Vệ Thực Vật Việt Nam, khẳng định, con số 100 tấn hóa chất mà Việt Nam nhập cảng hàng năm từ Trung Quốc để chế tạo “thuốc bảo vệ thực vật” chỉ là “phần nổi của tảng băng.” Trong thực tế, lượng hóa chất và “thuốc bảo vệ thực vật” đưa từ Trung Quốc vào Việt Nam qua con đường “cửu vạn” (lén lút chuyển vận qua biên giới) lớn hơn gấp nhiều lần.
Cho dù các chuyên gia nông nghiệp, môi trường, y tế liên tục cảnh báo về tác hại của việc cho nhập cảng tràn lan hóa chất để chế tạo các loại “thuốc bảo vệ thực vật” cũng như “thuốc bảo vệ thực vật” từ Trung Quốc song chính quyền Việt Nam không thèm bận tâm.
Trong khi các quốc gia ở Châu Âu đã lắc đầu với “thuốc bảo vệ thực vật” từ lâu, các quốc gia ở Ðông Nam Á giới hạn hoạt chất trong “thuốc bảo vệ thực vật” ở phạm vi từ 400 đến 600 loại thì tại Việt Nam, con số hoạt chất được phép sử dụng lên tới… 1,700 loại. Sự dễ dãi này khiến “thuốc bảo vệ thực vật” tại Việt Nam “cực kỳ hiệu quả” vì chúng… cực độc!
Việc cho phép nhập cảng tràn lan, hỗ trợ sản xuất-kinh doanh “thuốc bảo vệ thực vật” tại Việt Nam đã khiến nông dân Việt Nam xem việc mua-sử dụng “thuốc bảo vệ thực vật” là chuyện đương nhiên để bảo vệ mùa màng. Rất ít người biết việc sử dụng “thuốc bảo vệ thực vật” sẽ dẫn tới tình trạng đất, nước và nông sản nhiễm độc, môi trường ô nhiễm, sức khỏe của mình và nhiều thế hệ bị hủy hoại.
Các chuyên gia của Việt Nam và quốc tế từng thực hiện một số cuộc khảo sát và kết luận, tại Việt Nam có tới 80% “thuốc bảo vệ thực vật” được dùng không đúng cách, không cần thiết. Mỗi năm, có từ 150 đến 200 tấn “thuốc bảo vệ thực vật” dư thừa thẩm thấu vào đất, vào nguồn nước nhưng từ viên chức tới nông dân chẳng có mấy người bận tâm.
Ông Trần Tuấn, giám đốc Trung Tâm Nghiên Cứu-Ðào Tạo Phát Triển Cộng Ðồng từng than rằng, “tam nông” ở Việt Nam hiện nay không phải là “nông nghiệp-nông thôn-nông dân” mà là “dân nghiện-đất nghiện-nước thoái hóa.” Ông Tuấn nhấn mạnh, nông dân Việt đã đánh mất sự tự chủ trong nghề nông, tự nguyện để bị sai khiến, bị bóc lột bởi ngành công nghiệp hóa chất của Trung Quốc. Họ không còn “xem trời, xem đất, xem mây” để đưa ra các quyết định liên quan tới canh tác mà trở thành phụ thuộc, để thiên hạ “bảo gì thì làm thế,” “cho gì thì dùng thế.” Nông dân trở thành “nghiện” vì bơ vơ giữa rừng thông tin bất định!
Theo ông Tuấn, chẳng riêng dân “nghiện” mà đất cũng “nghiện.” “Dân nghiện” rồi “đất nghiện” nên thu hoạch được bao nhiêu thì nông dân lại bỏ ra bấy nhiêu mua sắm phân bón công nghiệp, thuốc “bảo vệ thực vật,” bởi ngưng bón, ngừng phun thì sẽ chẳng còn gì. Ông Tuấn nhắc thêm là “nước đang thoái hóa.” Cá, tôm, cua, ốc, ếch,… từng như đương nhiên đã mất dần.
Tuy ông Tuấn bảo rằng, xây dựng nông thôn mới là phải chấm dứt tình trạng lệ thuộc của ngành nông nghiệp, của nông thôn, nông dân vào ngành công nghiệp hóa chất của ngoại bang và điều này dường như hữu lý nhưng ai sẽ làm?
Chưa biết ai làm nên sau khi đã tiêu thụ các loại hóa chất cực độc của Trung Quốc để tự hủy hoại môi trường và sức khỏe cộng đồng của mình, Việt Nam tiếp tục tiêu thụ rau, trái nhiễm độc từ Trung Quốc. (G.Ð)
No comments:
Post a Comment