Ngày 4 tháng 9 năm 1958, Quốc hội Trung Cộng họp bàn và ra bản Tuyên bố đưa ra 4 quan điểm về vấn đề Đài Loan và chủ quyền trên biển của Trung Cộng. Trong 4 điểm đó, đáng chú ý là điểm thứ nhất vì nó có dính tới quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Nội dung điểm 1 trong bản tuyên bố này có nội dung như sau: “Chiều rộng lãnh hải của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là 12 hải lý. Ðiều lệ này áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Ðài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Bành Hồ, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc.” (hết trích)
Vấn đề chiều rộng lãnh hải 12 hải lí là đúng luật không có gì bàn cãi, nhưng ở đây họ kèm vào đó là chủ quyền của họ ở Tây Sa (tức Hoàng Sa) và Nam sa (tức Trường Sa) của Việt Nam. Thế nhưng không biết vì lí do gì 10 ngày sau đó, ông Phạm Văn Đồng đã ký một công hàm công nhận bản tuyên bố của CHDCND Trung Hoa ngày 4 tháng 9 năm 1958, và giao cho Nguyễn Khang -đại sứ Việt Nam DCCH tại Trung Quốc trình lên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Cộng-Cơ Bàng Phi. Như vậy là phía Trung Cộng xem công hàm này là sự thừa nhận của phía Việt Nam DCCH đối với chủ quyền của Trung Cộng trên 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Và từ đó đến nay, Trung Cộng xem Công hàm này như là sự bảo chứng cho “chủ quyền hợp pháp” của họ trên 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Chính vì thế ngày 30 tháng 1 năm 1980 khi Việt Nam ra sách trắng về chủ quyền biển đảo thì Trung Cộng trưng công hàm này như “một bằng chứng không thể chối cãi” về chủ quyền của họ trên 2 quần đảo này. Tiếp theo là để bao biện cho việc kéo dàn khoan HD-981 vào lãnh hải Việt Nam, ngày 20 tháng 5 năm 2014 đại sứ Trung Quốc tại Indonesia – Lưu Hồng Dương cho đăng công hàm trên báo Jakarta Post để báo cho thế giới biết rằng “nó đã bán cho tao rồi nè!”. Và cứ mỗi khi phía Trung Cộng trưng công hàm này thì phía Việt Nam lại im lặng.
Thực ra công hàm đó của ông Phạm Văn Đồng là đã bán nước thật chứ không phải chối cãi gì nữa. Vấn đề là khi ông Đồng kí bán là ông ta “bán vịt trời”, tức bán những thứ không thuộc chủ quyền của phía ông ta. Giờ chỉ có VNCH mới đủ tư cách đòi chủ quyền (về lí) chứ CHXHCN Việt Nam thì làm sao đủ tư cách? Nếu nói CHXHCN Việt Nam làm chủ hợp pháp phần lãnh thổ vốn thuộc VNCH thì tại sao Trung Cộng không làm chủ “hợp pháp” 2 quần đảo Trường sa và Hoàng Sa? Cả 2 đều đánh chiếm để cướp của kẻ khác chứ có ai được bán hay được cho hay được nhường một cách hợp pháp đâu? Một khi anh giết người cướp của thì làm sao anh là chủ nhân hợp pháp những gì anh cướp được từ nạn nhân? Tất nhiên nếu dựa vào hành động đánh cướp thì Trung Cộng không đủ lí, nhưng nên nhớ trên tay của Trung Cộng đang giữ công hàm của Phạm Văn Đồng nên họ sẽ vin vào đó mà cho rằng, họ là chủ sở hữu hợp pháp 2 quần đảo của Việt Nam. Đây là yếu điểm chết người, và chính nó sẽ được phía Trung Quốc khai thác nếu Việt Nam dám kiện.
Nếu Trung Quốc có cơ sở để trưng bằng chứng chủ quyền của họ trên Hoàng Sa và Trường Sa thì ngược lại, CS Hà Nội sẽ không có cơ sở để tuyên bố mình đủ tư cách để thay mặt VNCH đòi lại chủ quyền với 2 quần đảo trên. Anh cướp của người ta thì sao anh đủ tư cách hợp pháp được? Cho nên có thể nói, dù cho chính quyền Cộng Sản có thừa nhận chính thể VNCH là một chính quyền hợp pháp thì họ vẫn không đủ lý để cho rằng, họ là chủ hợp pháp của những phần đất vốn thuộc VNCH trước đây. Đó là một lẽ mà chính quyền CS Việt Nam hiện nay không dám kiện Trung Cộng, đấy là chưa nói đến phận chư hầu mà ĐCS Việt Nam đang tự chấp nhận.
Hiện nay phía CS Việt Nam cho rằng, Trung Cộng chiếm 2 quần đảo là bất hợp pháp nên phần chủ quyền biển mà Trung Cộng tự vẽ ăn theo phần ăn cướp kia cũng bất hợp pháp. Đúng! Thế nhưng thực tế Trung Cộng phớt lờ lý do đó, họ chỉ xoáy vào công hàm bán đảo của Phạm Văn Đồng thì sao đây? Văn bản cấp nhà nước chứ đâu phải là trò chơi con nít đâu mà ĐCS Việt Nam có thể phủ nhận? Như vậy qua đây chúng ta thấy, ngay cả việc giành lấy cái lý cho mình thì CS Việt Nam cũng không thể làm được thì nói gì đến việc giành lại chủ quyền “bằng biện pháp hòa bình”? Người ta nói “danh không chính thì ngôn không thuận” là rất đúng trong trường hợp này. ĐCS thực ra là kẻ ăn cướp phần lãnh thổ của một quốc gia có chủ quyền thì hôm nay họ không thuận ngôn trong vấn đề phản đối sự lộng hành của Trung Cộng ngay trên lãnh hải vốn của Việt Nam. Trung Quốc sẽ nắm yếu điểm này mà quật lại, chắc chắn. Để chỉ mặt Trung Cộng một cách hợp pháp thì chỉ có VNCH, nhưng VNCH đã chết nên việc giành lấy cái lí cho mình thì CS Việt Nam không thể. Cho nên nên câu nói “Đời tôi, đời các bạn chưa đòi được thì con cháu chúng ta sẽ tiếp tục đòi lại” của ông Vũ Đức Đam là câu nói khốn nạn vô cùng. CS tiếp tục gạt thế hệ con cháu trong khi mình đã bán hết cho giặc.
Ngày 30 tháng 3 năm 2020, CS Việt nam trao công hàm lên Liên Hiệp Quốc để bày tỏ quan điểm ủng hộ Công hàm số CML/14/2019 ngày 12 tháng 12 năm 2019 của Malaysia gửi Ủy ban Ranh giới thềm lục địa và tất nhiên việc ủng hộ Công hàm của Malaysia thì cũng đồng nghĩa với việc phản đối Công hàm số CML/11/2020 ngày 23 tháng 3 năm 2020 của Phái đoàn Trung Cộng gửi Tổng thư ký Liên Hợp Quốc.
Lập tức ngày 14 tháng 4, Bắc Kinh mở cuộc họp phản pháo lại công hàm Việt Nam. Tại cuộc họp, người phát ngôn ngoại giao Trung Cộng Triệu Lập Kiên khẳng định “Quần đảo Tây Sa (tức Hoàng Sa), quần đảo Nam Sa (tức Trường Sa) là lãnh thổ Trung Quốc. Các chủ trương liên quan của phía Việt Nam là vi phạm luật pháp quốc tế (trong đó có Hiến chương LHQ và Công ước LHQ về Luật biển), là phi pháp và vô hiệu.”
Vâng! Tại sao Trung Cộng cho họp báo không đáp trả phía malaysia mà đáp trả thẳng thừng phía Việt Nam? Bỡi vì đơn giản, phía Trung Cộng đang nắm Công hàm của Phạm Văn Đồng trên tay. Chính công hàm này biến mọi hành động cướp bóc của Trung Cộng đều trở thành “hợp pháp” trước mọi cuộc tranh chấp với Việt Nam. Nói thật, trên mặt chữ của công hàm năm 1958 thì ông Đồng đặt bút ký, nhưng chủ trương thì phải là kẻ có quyền cao hơn, kẻ đó là ai chắc không cần phải giải thích./.
No comments:
Post a Comment