Ảnh minh họa.
Ngô Nhân Dụng/Người Việt
Các cuộc biểu tình trên toàn quốc từ ngày Thứ Bảy, 9 Tháng Sáu, tuy nhắm vào các dự luật Đặc Khu và luật An Ninh Mạng, nhưng động cơ chính khiến hàng vạn người xuống đường là mối uất hận đối với âm mưu xâm lấn của Cộng Sản Trung Quốc mà Cộng Sản Việt Nam cúi đầu chấp nhận.
Nhật báo South China Morning Post ở Hồng Kông công nhận tinh thần chống Trung Quốc (anti-Chinese sentiment) đã dâng lên mạnh nhất, kể từ năm 2014 khi giàn khoan Tàu vào đậu ở vùng biển đang tranh chấp. Báo Post dẫn lời cô Đỗ Thị Minh Hạnh, được giới thiệu là chủ tịch Phong Trào Lao Động Việt Nam, nói rằng, “Mối quan hệ giữa chính quyền Việt Nam và Trung Quốc càng ngày càng lộ rõ, làm người dân tức giận.” Sứ quán Trung Cộng ở Hà Nội, khi báo động các kiều dân của họ phải coi chừng, cũng thú nhận rằng các cuộc biểu tình “bất hợp pháp” này có “nội dung chống Trung Quốc” (anti-China content).
Nhà tranh đấu dân chủ Hà Sĩ Phu nhắc nhở mọi người hai sự kiện nổi bật trong mấy ngày tranh đấu: “Dân Bình Thuận tay không đã đánh khiến cho hàng trăm cảnh sát cơ động vũ trang tận răng phải cởi giáp quy hàng,” và, trước đó, “Dân Nha Trang đánh du khách ngỗ ngược Trung Quốc khiến hàng ngàn du khách Trung Quốc phải lên máy bay tháo chạy về nước!”
Hai hiện tượng trên bắt nguồn từ một lý do chung: Lòng Dân.
Dân Việt Nam đang thù ghét Cộng Sản Trung Quốc. Họ chiếm đất, chiếm biển, mua chuộc, lũng đoạn để sử dụng một chính quyền Cộng Sản đàn em làm tay sai! Vì không biết nỗi uất hận của người Việt, các du khách Trung Hoa chuốc họa vào thân. Cũng vì lòng thù hận đó thúc đẩy, người dân Bình Thuận đã khuất phục được đám cảnh sát công an đang tan rã tinh thần.
Cộng Sản Việt Nam đã trấn áp, bắt bớ mấy trăm người. Ông Nguyễn Phú Trọng vẫn lên giọng dọa nạt, “Xử lý nghiêm các phần tử chống đối phá hoại.”
Nhưng không cách nào có thể dập tắt Lòng Dân!
Dân Việt đã khốn khổ vì bị ức chế: Nông dân mất ruộng đất; công nhân bị bóc lột mà không được lập công đoàn để tự vệ; các nhà kinh doanh phải đút lót; giới trí thức bị bịt miệng; nhà báo phải cúi đầu nghe lệnh như đám nô lệ. Nhưng nỗi đau đớn chung, nỗi đau nhất, là cảm thấy mình đã “mất nước” rồi!
Lòng Dân chất chứa “anti-China content,” chữ của sứ quán Trung Quốc, từ ngàn năm Bắc thuộc, từ các cuộc xâm lăng của quân Tống, quân Nguyên, quân Minh, quân Thanh, tới đám “giải phóng quân” của Đặng Tiểu Bình.
Lòng Dân đã sôi sục, cho nên hàng vạn người đã xuống đường. Không ai bảo ai, không cần kêu gọi hay tổ chức, không ai điều động, chỉ huy. Mỗi uất hận là ngọn lửa sẽ âm ỉ mãi mãi, một biến cố nhỏ cũng có thể thổi bùng lên. Ở những nơi có các công ty Trung Quốc và công nhân Trung Quốc sinh sống, không khí đang ngột ngạt, không biết bao giờ xung đột sẽ bùng nổ. Sứ quán Trung Cộng cảnh báo kiều dân của họ là đúng lúc.
Ông Nguyễn Phú Trọng có “nghiêm trị” hàng trăm, hàng ngàn, hàng vạn người, cũng không dập tắt được Lòng Dân! Trong những ngày, tháng sắp tới đảng Cộng Sản sẽ phải ngồi trên một núi lửa chỉ chờ giờ bộc phát.
Như nhà văn Aleksandr Solzhenitsyn nhận xét, Dối Trá và Bạo Lực là nền tảng của chế độ Cộng Sản. Dối trá bắt đầu bị phơi bày từ năm 1975, hoàn toàn mất hiệu lực từ năm 1989; vì dân Việt đã nhìn thấy sự thật. Bạo lực đang lung lay; đám công an cũng “cởi giáp quy hàng,” họ còn thấy đồng bào sẵn sàng tha thứ nếu biết quay đầu. Cả hai nền tảng đó biến mất, chế độ phải tan rã.
Từ năm 1990, ai cũng thấy chế độ Cộng Sản ở nước ta phải sụp đổ. Nó chưa bị lật nhào vì nhiều người còn thắc mắc: Cái gì sẽ thay thế nó? Có lo xã hội hỗn loạn hay không? Sẽ xây dựng dân chủ tự do như thế nào? Ai có khả năng làm cho đất nước sạch sẽ hơn, trong khi vẫn phải lo đối phó với quân thù đang đe dọa?
Chế độ Cộng Sản vẫn khai thác những nỗi băn khoăn trên để kéo dài ách cai trị. Đảng Cộng Sản không cho ai lên tiếng, không cho dân Việt được thảo luận để trả lời cho những thắc mắc trên. Những nhà tranh đấu dân chủ bị bắt giam, bị lưu đày, bị đánh đập, bịt miệng, để người dân không thể tìm giải đáp cho những câu hỏi trên.
Chính các đảng viên Cộng Sản và đám lãnh đạo đảng cũng không biết chuyện gì sẽ xảy ra cho chính họ nếu chế độ sụp đổ. Phản ứng tự nhiên của họ là co cụm lại, chúi đầu xuống cát như những con đà điểu, không dám nhìn sự thật trước cảnh Lòng Dân sôi lên nỗi nhục nhã, uất hận.
Nhưng có một câu trả lời giản dị, một giải pháp có thể thực hiện được. Là đảng Cộng Sản Việt Nam hãy trao quyền cho quân đội. Quân đội sẽ quản lý quốc gia một thời gian, để có thời giờ xây dựng một thể chế dân chủ tự do hợp với khát vọng của toàn dân và xu hướng của thế giới văn minh.
Hiện nay trong nước ta, ngoài đảng Cộng Sản chỉ còn một định chế có tổ chức, có kỷ luật, là quân đội. Người dân phấn khởi nghe những tướng lãnh về hưu lên tiếng chống các chính sách gian tham và bán nước của đảng Cộng Sản. Ngoài đám tướng lãnh tham nhũng đã hoàn toàn bị nhúng chàm và những kẻ mở miệng ca ngợi 16 chữ vàng; quân đội vẫn có thể dần dần lấy lại lòng tin của người dân nếu chứng tỏ biết đặt quyền lợi tổ quốc trên lợi ích cá nhân và bè đảng.
Khi thoát khỏi ách khống chế của đảng Cộng Sản, quân đội có thể trở về với vị trí đúng của mình. Họ sẽ tuyên thệ trung thành với tổ quốc, với đồng bào, không chấp nhận làm chân tay cho một đám người hèn với giặc, ác với dân nữa.
Việc đầu tiên phải làm khi quân đội nắm quyền là ấn định việc tổ chức bàu cử quốc hội lập hiến trong 12 hoặc 18 tháng, cuộc bỏ phiếu hoàn toàn tự do, để các đại biểu đích thực của người dân thiết lập thể chế tương lai. Tiếp theo, phải xác định sẽ tổ chức bàu quốc hội lập pháp, trong vòng sáu tháng tới một năm sau khi hiến pháp mới ra đời. Có thể bầu tổng thống nếu bản hiến pháp mới chọn theo thể chế đó. Sau công việc đó, quân đội hứa trước sẽ trở về vị trí hoàn toàn độc lập với chính trị, chỉ lo bảo vệ an ninh cho tổ quốc.
Thời gian hai tới ba năm là cơ hội cho dân Việt Nam tập sống trong tự do dân chủ. Sau đó người Việt sẵn sàng sử dụng các quyền công dân của mình.
Vì vậy, từ ngày đầu tiên chính quyền quân đội phải công bố rằng các quyền tự do căn bản của mọi công dân sẽ được tôn trọng: Tự do ngôn luận, tự do báo chí, hội họp và lập hội, lập công đoàn, lập đảng, vân vân. Chính quyền quân đội có thể tạm thời nắm quyền hành pháp và lập pháp nhưng sẽ phải làm gương tôn trọng một quyền tư pháp độc lập.
Sống tự do là một quyền thiêng liêng của con người. Dân chủ là một cách sắp xếp cuộc sống xã hội, là thể chế thuận tiện nhất để bảo vệ tự do. Không tự do thì không thể xây dựng dân chủ. Khi được tự do, người ta sẽ biết thiết lập nền tảng dân chủ như thế nào.
Khi quân đội nắm quyền, chúng ta có sợ chế độ quân phiệt sẽ lên thay chế độ Cộng Sản hay không?
Mối lo đó lúc nào cũng có, vì ai cũng biết “quyền hành sinh nhũng lạm.” Nhưng từ cuối thế kỷ 20 đến nay, các chế độ quân phiệt không còn đất dụng võ nữa. Trong thế kỷ 21 này, hai sức mạnh trong xã hội sẽ ngăn ngừa không cho chế độ quân phiệt thành hình. Thứ nhất là ý thức tự do dân chủ đã lên cao, người ta biết tự do cần thiết để phát triển kinh tế như thế nào. Thứ hai là cuộc cách mạng thông tin giúp cho các ý kiến truyền tỏa rộng rãi và nhanh chóng.
Trong thời gian chuẩn bị sống dân chủ các quyền tự do ngôn luận và hội họp sẽ giúp xã hội công dân (civil society) phát triển. Xã hội chính trị (political society) phát triển theo khi các đảng phái được tự do hoạt động. Một chế độ dân chủ không thể nào thiếu các đảng chính trị, là nơi kết tụ những người có quyền lợi kinh tế, xã hội giống nhau. Chính quyền phải thể hiện tinh thần trọng pháp (the rule of law). Mọi người dân biết rằng sinh mạng, tài sản của mình pháp luật được bảo đảm và mọi người bình đẳng trước công lý. Khi đó xã hội kinh tế (economic society) theo nền nếp thị trường thật sự, cạnh tranh tự do trong luật lệ, không ai cần hối lộ, không ai được lạm quyền.
Còn đảng Cộng Sản thì sao? Nếu đảng Cộng Sản tự ý trao quyền cho quân đội thì các đảng viên sẽ không lo bị trả thù, bị người dân trừng phạt bất kể luật lệ. Ở Ba Lan, năm 1981 đảng Cộng Sản đã đưa Tướng Jaruzelski lên cầm quyền, mang giới quân nhân vào guồng máy cai trị, dần dần đưa tới cuộc cách mạng không đổ máu năm 1989. Ở nước ta, chính quyền quân đội có thể xóa bỏ ngay điều 4 trong hiến pháp, nhưng tốt nhất là thay thế bản hiến pháp Cộng Sản bằng một hiến chương lâm thời trong khi chờ quốc hội lập hiến ấn định một thể chế mới.
Nếu đảng Cộng Sản Việt Nam không có ai nhìn xa trông rộng để nhường chính quyền cho quân đội thì có thể diễn ra tình trạng như ở Bồ Đào Nha năm 1974. Năm đó, một số sĩ quan cấp tá và cấp úy đã tự lập Phong Trào Quân Lực Chiếm Chính Quyền, đưa ra một Hội Đồng Cức Quốc bảy người làm việc quản trị đất nước. Chính quyền độc tài cũ tự rút lui trước khí thế mạnh mẽ của Lòng Dân.
Tại nhiều quốc gia, sau khi chế độ độc tài chuyên chế bị xóa sổ, chính quyền mới đã thành lập những Ủy Ban Sự Thật và Hòa Giải (truth and reconciliation commission) để giải quyết các vụ phạm tội trong chế độ cũ, dựa trên tinh thần bao dung, đức công bằng, và luôn luôn tôn trọng các quy tắc pháp lý. Các nước đã theo chính sách này là Uganda năm 1974, Bolivia năm 1982, Argentina 1983, Chile 1990, Nepal 1990, El Salvador 1992, Guatemala 1994 và Cộng Hòa Nam Phi, năm 1995.
Người dân Việt Nam biết rằng có những giải pháp để trả lời cho câu hỏi: “Sau Cộng Sản sẽ là cái gì?” Chính các đảng viên Cộng Sản cũng biết rằng họ sẽ không lo bị trả thù trong cơn hỗn loạn. Họ không cần bám víu khẩu hiệu ích kỷ, bần tiện “Còn đảng, còn mình” nữa. Khi đó, nước Việt Nam sẽ lật trang sử mới.(Ngô Nhân Dụng)
No comments:
Post a Comment