“…Bà Barbara Bush là đệ nhất phu nhân cuối cùng chủ trì một thủ đô lưỡng đảng… Hai ông bà Bush cai trị trong một tinh thần thân hữu và tử tế, khác hẳn với sự thù nghịch đảng phái của thời đại chúng ta…”
Thượng Nghị Sĩ Tammy Duckworth và con 11 ngày
Hôm Thứ Năm vừa qua, cô bé Maile Pearl Bowlsbey Duckworth, mới 11 ngày, đã đến phòng họp của Thượng Viện Hoa Kỳ theo mẹ, Thượng Nghị Sĩ Tammy Duckworth, khi thượng nghị sĩ dân chủ của tiểu bang Illinois đến để bỏ phiếu chuẩn thuận người mà Tổng Thống Donald Trump đã chọn làm tân giám đốc cho Cơ Quan Quản Trị Không Gian NASA.
Sự việc cô bé Maile được mẹ bế đến Thượng Viện là một cảnh chưa từng có. Em bé mới 11 ngày này đã làm nên lịch sử vì nhờ em mà Thượng Viện đã thông qua những luật lệ cho phép đem con nhỏ vào phòng họp. Nhưng điều quan trọng hơn là dự luật này được thông qua với không một phiếu nào chống.
Điều lý thú hơn nữa là bà Duckworth, một cựu chiến binh Iraq, mất cả hai chân và chỉ sử dụng được một phần cánh tay phải, khi chiếc trực thăng của bà bị bắn hạ trong một cuộc đụng trận hồi năm 2004, đã được chào đón với một tràng vỗ tay và tiếng reo ở một Thượng Viện vốn thường nghiêm chỉnh khi bà và bé Maile đi xe lăn vào.
Bà Duckworth đã giơ ngón tay cái chỉ xuống cho vị thư ký của Thượng Viện ghi lá phiếu của bà và rồi các vị đồng viện đổ nhau tới gặp bà – bất kể Cộng Hòa hay Dân Chủ – ai cũng muốn xem mặt “đệ nhất baby” của Thượng Viện.
Trên hành lang dành cho các nhà báo, báo chí cúi xuống xem, có người ồ lên tiếng ngợi khen em bé, khiến lãnh tụ Khối Đa Số Thượng Nghị Sĩ Chuck Schumer đã nhìn lên và đùa: “Nhà báo sau cùng đã chú ý đến một điều đáng chú ý.”
Quang cảnh đó làm tôi nhớ lại chính trị Hoa Kỳ thời thập niên 1960 khi tôi còn đi học. Lúc đó người Mỹ không phân biệt đảng phái như ngày nay. Tờ New York Times nhắc lại là những cuộc thăm dò trong quá khứ cho thấy hồi thập niên 1960, người Mỹ có nhiều triển vọng hơn, nghĩ là những người thuộc đảng đối lập thông minh, và họ rất ít khi diễn tả phe đối lập là ích kỷ.
Hồi thập niên 1960, chỉ có 5% người Cộng Hòa và 4% người Dân Chủ nói họ sẽ không hài lòng nếu con trai hay con gái mình lấy một người thuộc đảng bên kia. Với thời gian hai phe ngày càng “ghét nhau hơn.” Trong một cuộc thăm dò của YouGov hồi năm 2008 cũng đặt câu hỏi đó, 27% người Cộng Hòa và 20% người Dân Chủ nói “một phần nào” hay là “rất bực mình” với triển vọng đó. Đến năm 2010 thì tỷ lệ vọt lên một nửa người Cộng Hòa và một phần ba người Dân Chủ.
Ngày nay, thành kiến đảng phái đã vượt ngay cả thù nghịch sắc tộc trong những thử nghiệm liên tưởng ngầm vốn đo xem người ta liên hệ nhanh đến mức nào giữa các nhóm (đen, Dân Chủ) và những cá tính (tuyệt vời, tệ hại). Và kết quả là đảng phái định vị người khác nhanh hơn là màu da.
Điều này thật đáng ngạc nhiên, nhất là vì chúng ta không thể quên được vết hằn của thành kiến kéo dài nhiều thế hệ. Chả thế mà Giáo Sư Shanto Iyengar của Đại Học Stanford, và Giáo Sư Sean Westwood của Đại Học Dartmouth, phải kết luận: “Chúng ta có tất cả những dữ liệu này vốn tập trung vào một kết quả tối hậu là đảng phái nay là sự phân chia số một trong xã hội ngày nay của Hoa Kỳ.”
Các nhà nghiên cứu chính trị học nghi là những quảng cáo tấn công, vốn đã ngày càng gia tăng và ngày càng xấu xa, đã đóng một vai trò. Và sự gia tăng của các truyền thông bè phái đã giúp tăng cường độ cho luận điệu tuyên truyền vận động tranh cử, cung cấp xác nhận cho những hình ảnh tệ hại nhất mà chúng ta có về nhau.
Giáo Sư Iyengar cũng chỉ ra là người Mỹ ngày nay sẵn sàng công kích những thành viên của đảng khác theo những cách mà công khai không được chấp nhận cho các nhóm khác, như là thiểu số, phụ nữ hay đồng tính. Không có những tiêu chuẩn xã hội mạnh để giới hạn tinh thần đảng phái.
Một vấn đề khác nữa là người Mỹ ngày nay khó có những liên hệ cá nhân băng qua lằn ranh đảng phái vốn giúp giảm thiểu những tin tưởng xấu xa vào nhau. Xóm giềng, sở làm, gia đình và ngay cả đi date online cũng trở thành đồng bộ chính trị. Những cử tri hôm nay có ít triển vọng có hàng xóm thuộc một đảng khác hơn là cách đây nửa thế kỷ. Hôn nhân lưỡng đảng ngày càng trở thành hiếm hoi.
Không hiểu đâu là quả trứng, đâu là con gà, nhưng ngay bên trong thế giới nghiêm chỉnh và lễ độ của Thượng Viện Hoa Kỳ bầu không khí độc hại đó cũng đã xuất hiện. Sau khi Thượng Nghị Sĩ Edward Kennedy qua đời, Thượng Nghị Sĩ John McCain có lẽ là người duy nhất còn lại muốn tìm cách hợp tác với những người ở phe bên kia.
Trong một bài viết để tưởng niệm Đệ Nhất Phu Nhân Barbara Pierce Bush, một bình luận gia của tờ New York Times viết: “Bà Barbara Bush là đệ nhất phu nhân cuối cùng chủ trì một thủ đô lưỡng đảng… Hai ông bà Bush cai trị trong một tinh thần thân hữu và tử tế, khác hẳn với sự thù nghịch đảng phái của thời đại chúng ta. Trong Tòa Bạch Ốc của bà, ở Trại David, và ở Walker’s Point, trang trại của gia đình ở bờ biển Maine, nhưng người Dân Chủ và Cộng Hòa được chào đón với cũng thường xuyên và lịch sự như nhau.”
Từ phân cách, không tin tưởng lẫn nhau dẫn đến sự việc là người Mỹ ngày nay rất tin vào những lý thuyết âm mưu.
Chả thế mà hôm tuần này, phụ huynh của hai em nhỏ bị bắn chết trong vụ ở trường Tiểu Học Sandy Hook đã nộp đơn kiện một nhà chuyên môn đề ra những âm mưu là ông Alex Jones, vốn đã bày tỏ nghi ngờ là vụ tấn công đó chỉ là một màn trình diễn của các kịch sĩ trong âm mưu lật ngược tu chánh án thứ 2 không cho người Mỹ sở hữu súng nữa chứ không phải là có thật. Hai đơn kiện mạ lỵ, nộp ở Austin, Texas, nơi ông Jones cư ngụ. Hai ông bà Leonard Pozner, cha mẹ của em Noah Pozner và ông Neil Heslin, cha của em Jesse Lewis, đang đòi thiệt hại bởi những điều ông Jones phổ biến trên các show của ông.
Cha mẹ của hai em Noah và Jesse tức giận đi kiện đã đành, nhưng điều còn đáng nói hơn là một chuyện dựng đứng như vậy mà còn có nhiều người tin.
Điều đáng sợ cuối cùng là những độc hại này sẽ có ảnh hưởng ra sao cho nền dân chủ Hoa Kỳ. Hồi tôi còn đi học, các nhà chính trị học thời thập niên 1960 bỏ nhiều thời giờ để phân tích về sự thất bại của Cộng Hòa Weimar, nền dân chủ của nước Đức đã bị Hitler kết liễu. Họ bực tức trước việc một nền dân chủ có vẻ đã tự tử. Và họ đi tìm những lý do. Một trong những lý do mà họ cho là quan trọng là ảnh hưởng của các lý thuyết âm mưu mà độc hại và phổ biến nhất là lý thuyết bị đâm sau lưng.
Theo lý thuyết hoàn toàn sai sự thật này, vụ Đức đầu hàng năm 1918 là do âm mưu của những người xã hội, cấp tiến và Do Thái ở Đức trong chính phủ dân sự tạo ra; nó không phải là kết quả của một chiến bại trên bãi chiến trường hay là vì quá mệt mỏi. Theo họ lý thuyết đâm sau lưng đã làm hại vào niềm tin của dân chúng đối với chính phủ dân sự hậu chiến, đặc biệt là đảng Dân Chủ Xã Hội, bị những người quốc gia quá khích coi là không ái quốc và lươn lẹo; và thứ nữa nó giúp bảo vệ vị thế của giai cấp quân nhân Đức mà người cầm đầu, Tổng Thống Hindenburg đã trao quyền lực cho Hitler.
Dĩ nhiên nền dân chủ Hoa Kỳ không phải là nền dân chủ mong manh của Cộng Hòa Weimar nhưng một kẻ quan sát cũng có đôi lúc cảm thấy lo sợ. Một nhà bình luận vừa mới đặt câu hỏi: “Chuyện gì sẽ xảy ra nếu vào năm 2020 ông Donald Trump thất cử nhưng không chịu nhận thua và những người ủng hộ ông tin cuộc bầu cử là gian lận?”
Phải chăng đã đến lúc chúng ta nhớ lại bà Barbara Bush, vị đệ nhất phu nhân của một Tòa Bạch Ốc, không phân biệt đảng phái.
Lê Phan
No comments:
Post a Comment