Wednesday, January 17, 2018

Bao Dung & Bạo Ngược


Khoan dung không chỉ là một phẩm hạnh của cá nhân, mà còn là một tính chất của cộng đồng và trách nhiệm của một quốc gia.
Cuối năm rồi, có hôm (đột nhiên) dân chúng Zimbabwee mừng vui, sung sướng, đổ xô ra đường reo hò, nhẩy muá, và ca hát thâu đêm. Tuổi Trẻ Online cho biết thêm:
“Khi thông tin vị Tổng thống 93 tuổi Robert Mugabe chấp thuận từ chức và có hiệu lực ngay lập tức được loan ra, khắp đất nước Zimbabwe như vỡ òa trong niềm vui bất tận. Nhiều năm qua họ đã chờ đợi điều này và may mắn thay nó đã đến không quá phức tạp và không có cảnh nồi da xáo thịt.”
Nếu ngày mai, hay tuần sau, mà những người Cộng Sản Việt Nam buộc phải từ bỏ quyền lực thì chắc chắn dân Việt cũng sẽ hân hoan không kém nhưng “điều may mắn không có cảnh nồi da xáo thịt” thì không có gì bảo đảm.
Với cách cai trị bạo ngược của chế độ hiện hành, và với xu hướng xử dụng bạo lực của người dân ở Việt Nam hiện nay, viễn ảnh về một cuộc cách mạng êm thắm (chắc) không dễ xẩy ra tại đất nước này – nơi mà lực lượng “công an bị đánh giá là bọn kiêu binh tệ hại nhất, dùng quyền lực để hà hiếp, bóc lột, làm tiền, cướp đất, cướp nhà cửa, của cải của nhân dân một cách ngang ngược, bị nhân dân xa lánh, khinh bỉ nhất.” (Bùi Tín – VOA).
 Sau hai phần ba thế kỷ “dùng quyền lực để hà hiếp, bóc lột, làm tiền, cướp đất, cướp nhà cửa, của cải của nhân dân một cách ngang ngược” thì “bọn kiêu binh tệ hại nhất” rất khó mà được để yên thân. Trên trang Báo Tiếng Dân, đọc được vào hôm 31 tháng 12 năm 2017, blogger Thạch Đạt Lang – qua lời của một vị thầy dậy cũ của ông – cũng vừa bầy tỏ sự quan ngại về vấn đề này:
"Chẳng cần phải suy nghĩ sâu xa. Dễ dàng nhận thấy hận thù chồng chất gần 43 năm qua ở VN, gây ra bởi mâu thuẫn của giai cấp thống trị và kẻ bị trị. Nếu chỉ nói mâu thuẫn giữa chế độ CS và người dân thì không nêu bật được vấn đề, bởi chế độ CS giờ đây đã biến tướng, trở thành chế độ độc tài, mafia đỏ... hi vọng một cuộc cách mạng nhung sẽ xẩy ra ở VN là điều hoang tưởng. Vậy vấn đề còn lại là làm thế nào để giảm thiểu tối đa thiệt hại của cuộc tắm máu giữa những hận thù Quốc-Cộng, Nam-Bắc, Tôn giáo, phe nhóm trong đảng CSVN…"
Chuyện “hận thù” cũng như “mâu thuẫn của giai cấp thống trị và kẻ bị trị” tại Việt Nam – thực ra – không chỉ “chồng chất gần 43 năm qua” mà đã chất chồng từ lâu hơn nữa, ngay khi người CS vừa nắm được quyền bính ở nửa phần đất nước. Bởi thế, nỗi âu lo “làm thế nào để giảm thiểu tối đa thiệt hại của cuộc tắm máu” trong những ngày tháng tới chả phải là chuyện xa xôi (hay viển vông) gì.
Tôi vốn tin ở bản tính thiện của loài người, và tấm lòng bao dung của con dân Việt. Niềm tin này – tiếc thay – đã bị “lung lay” không ít, sau khi xem một cuốn phim tài liệu ngắn (1945: The Savage Peace ) phát hành vào năm 2015, do Peter Molloy làm đạo diễn.
Sau Thế Chiến Thứ II, hình ảnh mà chúng ta thường thấy trên mọi phương tiện truyền thông là những đám đông (dân với lính) tràn ngập phố phường, vui mừng chào đón hoà bình, với những nụ cười rạng rỡ trên môi và những đóa hoa tươi thắm trên tay. Rất ít ai biết đến cái mặt tối của hoà bình, cùng máu (và nước mắt) của hàng triệu lương dân, thuộc phe bại cuộc.
Về The Savage Peace (Hoà Bình Man Rợ) bỉnh bút Gerard O'Donovan của tờ The Telegraph có nhận xét như sau:
Bộ phim của Molloy hiệu quả nhất trong việc làm nổi bật quy mô và sự tàn bạo của những cuộc trả đũa, giết người, cưỡng hiếp của hai triệu phụ nữ và trẻ em Đức, sự sỉ nhục của công chúng, tra tấn và hành quyết của vô số người gốc Đức, đặc biệt ở Sec-Slovak và Ba Lan.
(Molloy’s film was most effective in highlighting the scale and savagery of the reprisals – shootings, forced death marches, the rape of two million German women and children, the public humiliation, torture and execution of countless ethnic Germans, particularly in Czechoslovakia and Poland. Translated by Vũ Quốc Ngữ).
Tác giả Antony Beevor tổng kết:
“Con số người chết được cho là cao hơn nhiều khoảng 1 triệu tư là nạn nhân ở vùng East Prussia, Pomerania and SilesiaTổng cộng có ít nhất là hai triệu phụ nữa Đức bị hãm hiếp, không ít người bị hiếp nhiều lần.” (The death rate was thought to have been much higher among the 1.4 million estimated victims in East Prussia, Pomerania and Silesia. Altogether at least two million German women are thought to have been raped, and a substantial minority, if not a majority, appear to have suffered multiple rape).
Phải đợi đến bẩy mươi năm sau, sau khi Thế Chiến Thứ II chấm dứt, những hình ảnh của một nền Hoà Bình Man Rợ (1945: The Savage Peace ) mới được công chúng biết đến. Tuy muộn màng nhưng tập phim tài liệu này vẫn là sự nhắc nhở cần thiết về bản tính (không mấy thiện lành) của loài người. Người Việt, tất nhiên, cũng không khác mấy. Cứ nhìn cái cách mà họ “trừng trị” những kẻ trộm chó cũng đủ thấy rằng khoan dung là đức tính không mấy dễ tìm ở đất nước này.
                 
Ảnh: Sohanews
Điều may mắn là nước Việt vẫn còn có nhiều người cầm viết với cái tâm, và tầm, khá rộng. Nhà văn Dương Thu Hương đã có lần ân cần nhắc nhở mọi người đừng quên rằng giữa “bầy chó berger của chế độ” không thiếu những người trung thực và tử tế:
Tuy nhiên, tôi không có ý nói rằng toàn thể các sĩ quan công an đều là bọn mafia, đều là quân cướp. Bởi, nói như vậy là vu khống, là hàm hồ... Trong đám công an, không thiếu những người trung thực, theo ngôn ngữ bình dân, người tử tế. Chỉ có điều họ đã trở thành thiểu số và họ gần như vô năng.”
Những kẻ “thiểu số vô năng” này, tất nhiên, đều vô tội. Còn cái đám đa số còn lại (cũng) chỉ là nạn nhân của một thể chế bạo ngược, và bất nhân thôi – như cách nhìn bao dung của nhà văn Uyên Thao: “Mọi con dân Việt Nam, vì thế, đều trở thành nạn nhân bi thảm vì bị tước đoạt mọi quyền sống, bao gồm trong đó không ít nạn nhân đã và đang còn đóng vai thủ phạm gieo rắc tội ác không chỉ cho đồng loại mà cho ngay cả bản thân.”
Nghĩ cho cùng họ vẫn đáng tha thứ hơn là trừng phạt. Hơn nữa, gần hai phần ba thế kỷ qua, có người dân Việt nào dám tự hào nói rằng mình hoàn toàn (và tuyệt đối) không bị ảnh hưởng, hay lây nhiễm tính vô cảm và thói bạc ác của chế độ hiện hành?
Nói thế (e) độ lượng quá chăng? Biết thế nhưng với hiện cảnh, với lịch sử của một dân tộc đã triền miên sống giữa cảnh bom đạn máu lửa, giữa oán hận chất chồng, và nghi kỵ và phân hoá – kéo dài hết từ đời này sang đời khác – liệu có lựa chọn nào khác (thế) không?
Luật sư Trịnh Hữu Long quan niệm rằng “xã hội chúng ta không cần thêm bất kỳ một ‘bên thắng cuộc’ nào nữa, mà đang khát khao sự hòa giải và yêu thương.” Cuộc chiến Quốc/Cộng ở Việt Nam sẽ, và sắp chấm dứt. Điều cần thiết kế tiếp cho đất nước này là sự khoan dung, chứ không phải là lòng thù hận.

No comments:

Post a Comment